← Quay lại trang sách

Chương 33 THẾ GIỚI BỊ NHẤN CHÌM

Ba giờ sáng, con ngựa đi vào bếp.

Bữa tất niên của gia đình Scott đang diễn ra sôi nổi.

Justin vừa đặt lên bàn que xiên bốn con gà quay, lớp da dường vẫn còn cháy xèo xèo dưới mỡ sôi ùng ục.

Khi con ngựa xuất hiện, cả gia đình đứng dậy ồ lên ngạc nhiên.

- Quần áo và một bác sĩ! Ethel kêu toáng lên, chân vẫn chưa chạm đất. Bác Justin, mang hộ cháu nước và cồn trong phòng cháu lại đây.

Vango đã ngất trên lưng cô. Ethel cho ngựa đi về phía hành lang. Rồi cô dìu cậu leo cầu thang dành cho khách lên đến tận phòng.

Một lúc sau Mary đến. Đám gia nhân mỗi người một ngả. Hàng chục cửa sổ của tòa lâu đài lần lượt sáng đèn.

- Tôi có phải tháo con ngựa ra khỏi chiếc đàn piano ở tầng một không? Peter hoàn hảo hỏi bà.

Bà hiểu đã xảy ra chuyện gì đó.

Vừa vào phòng, Mary đi thẳng đến chỗ phẫu thuật mà thậm chí chẳng hỏi xem chàng thanh niên đang nằm trên giường Ethel là ai. Bà trợ giúp cho bác sĩ.

Vị bác sĩ lái xe hơi đến cùng một chú chó nhỏ màu hung. Ông nhăn mặt khi phát hiện ra tình trạng cánh tay của Vango.

Thoạt tiên, ông gỡ lớp băng Vango quấn quanh vết thương. Vết thương đã bị nhiễm trùng. Cậu đã bơi qua sông Thames, đi hết chiều dài đất nước, ngủ trong kho hoặc các toa chứa súc vật. Hãy còn những mẩu thủy tinh mắc trong thịt. Và phát súng đã không cải thiện được tình hình.

Ethel vứt băng vào một cái chậu. Khi máu hòa lẫn với nước nóng, cô nhận ra chiếc khăn mùi soa xanh. Những đường thêu từ từ hiện ra. Một ngôi sao lấp lánh bên trên chữ V của Vango.

Có biết bao xứ sở không biết đến chúng ta.

Trước khi bắt tay vào việc, vị bác sĩ đẩy Ethel đến tận cửa và bảo con chó của mình đứng canh. Cô không được vào nữa.

Ethel nằm dài trên thảm. Cô vẫn không ngủ. Cô đang chan chứa cảm xúc. Cứ như hiệu ứng của một cơn mưa trên dòng thác. Thoạt tiên, người ta thậm chí không nhìn thấy mưa rơi trên dòng nước xoáy. Nhưng rồi nó từ từ làm dòng thác ấy dâng lên và một ngày đẹp trời, nó trào lên nhấn chìm tất cả.

Đến sáng, vị bác sĩ từ phòng bước ra với một vẻ mặt kỳ cục. Tóc tai ông rối bù, vầng trán xanh xao, mắt quầng đen như nguyệt thực.

Ethel chạy bổ về phía ông.

- Nếu cô muốn giữ cậu ấy sống…, ông nói một cách nghiêm trọng.

Bác sĩ đang cởi cúc áo dính máu trên thềm nghỉ. Ethel nhìn ông cởi trần bước đi trước mặt mình.

- Nếu cô thật sự muốn giữ cậu ấy sống, thưa cô…

Ông lấy ra từ chiếc túi xà cột của mình một chiếc áo sơ mi sạch rồi mặc nó vào.

- …thì, trước tiên cô phải thôi không bắn cậu ấy nữa.

Ethel mỉm cười.

- Anh ấy tốt hơn rồi ạ?

Bác sĩ vừa gật đầu vừa thắt cà vạt. Ethel, rạng rỡ, đặt tay lên nắm đấm cửa. Con chó gừ gừ.

- Không, bác sĩ nói. Cô nên để cậu ấy ngủ hai mươi tư tiếng. Tôi nghi ngờ cô đấy, cô Ethel ạ. Đừng vào trước khi cậu ấy có thể tự vệ.

Lúc đó Mary xuất hiện.

- Tôi sẽ trông cậu ấy, bà nói.

- Chính cô bé này bà mới phải trông này, thưa bà.

Ông huýt sáo gọi con chó của mình và đi xuống cầu thang.

- Tôi sẽ trở lại vào ngày mai.

Vango không ngủ hai mươi tư tiếng đồng hồ. Cậu ngủ hai mươi tư ngày và hai mươi tư đêm. Có lẽ cậu sẽ ngủ thậm chí đến cả trăm năm, như trong những câu chuyện cổ tích, nếu mỗi lần cậu hé một mắt mà không phát hiện ra Ethel đang ngồi cạnh mình hoặc đứng trước ô cửa sổ.

Cậu cũng ngỡ trong giấc ngủ, cậu cảm nhận được một hơi thở trên khuôn mặt mình.

Đêm đến, khi bấc ngọn đèn ngủ yếu dần, cậu không nhìn thấy ngay cô gái đang quỳ gối gần giường. Cậu tưởng chỉ có một mình, nhưng dần dần cậu phân biệt được màu trắng ngà của đôi mắt cô đang hướng về phía cậu trong bóng tối.

Vango ăn được một chút, cố gắng đi vài bước, cánh tay quấn trong một chiếc ga giường. Cậu lại nằm xuống.

Rồi cậu bình phục vào năm sau, vào tuần thứ ba của tháng Giêng năm 1936.

Và kể từ ngày hôm đó, họ bắt đầu nói chuyện với nhau.

Điều đó đến từ từ, có chút thẹn thùng, với những khoảng lặng dài. Rồi khi họ có thể bước đến cửa sổ, rồi đến bậc thềm, đến những cái cây, lời nói tăng cùng số bước chân.

Tuần nối tiếp tuần, họ lấp đầy những năm tháng im lặng bằng lời nói.

Ethel kể bảy năm trước, sau chuyến du lịch vòng quanh thế giới dài ngày, trên khí cầu, cô đã ra sao khi chứng kiến cậu bỗng nhiên xuất hiện rồi mất tích. Cô kể bằng một giọng lạnh lùng về những năm tiếp theo đó sống cùng anh trai ở Everland. Rồi quãng thời gian ở Edimbourg hay Luân Đôn, kể từ năm mười lăm tuổi, cô chỉ nhảy nhót, quay cuồng và cố tỉnh táo để quên cậu đi. Rồi nỗi tuyệt vọng của cô, cái ngày cô nhận được một lá thư mà cô coi là giấy báo hỉ ở nhà thờ Đức Bà, về sự ngạc nhiên của cô khi đến Paris dự lễ đính hôn và phát hiện ra Vango đang nằm rạp trên sân trước nhà thờ. Cô kể đã phát hiện ra tên bắn tỉa bị phục kích, về cuộc điều tra, những chuyến đi đi lại lại nhà Eckener hay Boulard, về cuộc gặp với Cá Nhám…

Về phần mình, Vango kể về cuộc trốn chạy trí mạng của mình, về tất cả những người đã ngã xuống hoặc mất tích xung quanh cậu, cha Jean, Cô, cha Zefiro và thậm chí cả Mazzetta và con lừa hắn. Cậu kể về thời thơ ấu của mình, về những vách đá, tu viện, về bí mật mong manh mà cuối cùng cậu cũng khám phá được: con tàu lớn có đánh dấu hình ngôi sao, tiếng hát của mẹ cậu, những tên cướp biển, cái chết, vụ đắm tàu. Về những câu hỏi hãy còn bỏ ngỏ… Cậu kể về tội lỗi của Mazzetta, về cái chết của tên cướp biển thứ hai, về chuyến đi sang châu Mỹ của tên thứ ba. Và có thể cả chiến lợi phẩm hắn mang theo nữa…

- Một kho báu! Ethel thốt lên.

- Tại sao Cafarello lại giết bạn mình? Chính câu hỏi này làm anh nghĩ có thể có cái gì đó để chia chác giữa chúng.

Vango cũng kể thông điệp ký tên Ethel với những từ “Người là ai?” đã nhẫn tâm làm cậu thức tỉnh. Và vẫn những bóng đen ấy theo sau cậu, lúc nào cũng tìm ra dấu vết của cậu, khiến cậu phải trốn lên khí cầu, những chuyến tàu hỏa, nhảy xuống sông…

Rồi, họ cùng nhau tìm lời giải thích cho chuỗi những điều bí ẩn ấy.

Vào khoảng trung tuần tháng Ba, khi Paul vừa thông báo sắp từ Ấn Độ trở về, một chút im lặng len lỏi giữa hai người. Sự im lặng ấy còn nói lên nhiều điều hơn. Đôi khi họ im lặng như thế cho đến tận bờ bên kia hồ Loch Ness.

Còn bây giờ? Đó là những gì sự im lặng muốn nói. Còn bây giờ?

Họ nhìn nhau rồi lại nhìn đi nơi khác. Ethel trở nên ngoan ngoãn như một bức tranh. Cô không còn nói “Em yêu anh” kể từ sau cái đêm Giáng sinh ấy.

Họ chờ đợi.

Một buổi sáng, ngồi trên phiến đá phẳng nằm dọc hồ, Ethel nói với Vango:

- Nhắc lại cho em tên con lừa.

- Lừa nào?

- Con lừa của Mazzetta.

Cậu không cần trả lời. Cậu siết chặt nắm đấm.

Vango vừa hiểu ra.

Ngày mai họ sẽ đi.

Salina, quần đảo Eolie, ngày đầu tiên của mùa xuân năm 1936

Bác sĩ Basilio trông thấy chiếc máy bay nhỏ đỗ trên biển trước bãi đá cuội. Một cô gái và một chàng trai từ đó bước xuống. Họ đến bến cảng trơ trọi, khoét sâu vào trong vách đá, rồi họ leo lên tận miệng núi lửa Pollara. Chiếc máy bay lại bay đi. Chàng trai và cô gái vẫy tay tạm biệt nó.

Họ đến trước ngôi nhà có cây ô liu với những ô cửa chặn kín mít.

Bác sĩ không nhận ra khuôn mặt họ dưới ánh nắng sấp bóng của buổi hoàng hôn.

Ông chỉ nhìn thấy họ đi, giữa đám cây đậu kim và thìa là dại. Rồi họ mất dạng.

Bác sĩ Basilio ngồi trên chiếc ghế bành nhỏ làm bằng gỗ thả bè. Ông đến đây tĩnh tâm vào các buổi sáng và tối. Ông đợi Cô.

Paris, ngày đầu tiên của mùa xuân năm 1936

Tám giờ tối ngân vang trên tháp chuông nhà thờ Saint-Germain. Cảnh sát trưởng Boulard thổi lên lớp bọt trong bồn tắm để tạo thành những hòn đảo nhỏ.

Hai con chim bồ câu nhìn ông qua ô cửa sổ.

Có người gõ cửa phòng tắm.

- Có chuyện gì đấy mẹ?

Từ năm 1878 cho đến lúc có tuổi, cảnh sát trưởng Boulard không thể được yên tĩnh mà tắm. Ở tuổi bảy mươi, ông bắt đầu cảm thấy chán nản.

- Có người muốn nói chuyện với con đấy.

- Con đang tắm mà mẹ.

- Khá khẩn cấp đấy. Ông ta vào phòng khách rồi. Ông ta có vẻ không hài lòng.

- Ai đấy ạ?

Bình thản, bà Boulard hỏi:

- Ngài có thể nhắc lại tên ngài được không?

Boulard nghe thấy bốn chữ cái được phát ra từ giọng nói đến từ đất nước thảo nguyên:

- VLAD.

Đằng sau cánh cửa, một cái gậy kim loại trên tay, là Vlad kền kền.

New York, đêm đầu tiên mùa xuân năm 1936

Zefiro ngước mắt lên.

Ông đang ở dưới chân Empire State Building.

Tòa nhà chọc trời lớn nhất thế giới cao ba trăm tám mươi mét.

Nóc tòa nhà được hoàn thành năm 1931 với ý tưởng có thể buộc khí cầu trên đó. Cuộc khủng hoảng xảy ra và dự án này vẫn chưa thể được thực hiện. Mặc dù vậy, vẫn có một phòng đăng ký hành khách lên tàu ở tầng một trăm linh hai, bên dưới, cửa hải quan và cảng hàng không bị bỏ trống.

Phần còn lại của tòa tháp đã kín văn phòng làm việc và một khách sạn hạng sang.

Zefiro cầm vali bước vào sảnh của Sky Plaza. Ông từ chối trao vali cho người vác hành lý. Ông hướng đến quầy lễ tân hỏi phòng Quý bà Victoria. Nhân viên lễ tân nở một nụ cười đồng cảm với ông.

- Tôi phải báo là ai đây ạ?

- Tôi là ngài Dorgelès, Zefiro trả lời.

- Tôi cho rằng đang có người ở phòng Quý bà Victoria rồi.

Nhân viên lễ tân nhấc điện thoại, nói vài lời và chờ đợi.

Phía trên quầy, năm chiếc đồng hồ chỉ giờ của những thành phố lớn trên thế giới. Los Angeles, Rome, Luân Đôn, Paris, Tokyo. Sự chờ đợi dường như quá lâu đối với Zefiro. Một cậu bé ăn mày dừng lại trên phố, sau cửa kính. Cậu ta nhìn vị linh mục chăm chăm và áp đôi bàn tay vào kính. Từ tay này sang tay kia, ba từ tiếng Anh được viết lên đó God bless you. Cầu Chúa phù hộ cho người.

Một gã nhân viên phụ trách đỗ xe trong chiếc áo dài hẹp tà màu tím đuổi cậu bé ăn mày đi ngay tức thì.

- Thằng bẩn thỉu, nhân viên lễ tân nói khi theo dõi cảnh tượng ấy, điện thoại vẫn trên tai.

Anh ta có vẻ thích nhận được sự hưởng ứng của Zefiro.

Zefiro không đáp lại gì cả. Sự chờ đợi trở nên đáng lo ngại. Ông nghĩ đến Dorgelès thật bị ông trói và nhét trong cốp xe cách Central Park hai con phố.

Đột nhiên, người đàn ông gác máy. Anh ta nhìn Zefiro.

- Bà ấy đang đợi ngài, ngài Dorgelès ạ. Tầng tám mươi lăm.

Cha Zefiro lọt vào cầu thang máy. Ông bấm số tầng trước khi một trong những nhân viên coi thang máy nhìn thấy ông. Cửa đóng lại. Ông còn lại một mình.

Cabin bắt đầu đi lên. Ông mở vali, lấy ra một cái móc, luồn qua song sắt. Thang máy khựng lại. Ông bỏ hai thứ đồ được bọc vải ra. Đó là những khẩu súng ngắn tự động. Ông đút phần còn lại của chiếc vali dưới chiếc ghế dài bọc nhung. Ông kiểm tra vũ khí, lắp thêm một băng đạn rồi đút thêm hai băng vào túi. Ông giữ đồng hồ trong tay chờ đợi.

Ông bình tĩnh hít thở, nghĩ đến khu rừng thưa Falbas, gần Verdun, chiếc máy bay của Werner Mann rơi trên cây, những cây sồi xanh của tu viện Trắng, những người anh em tu sĩ của mình, Vango, những nàng ong của tu viện… Và rồi Voloï Viktor, đang ở trên kia cách ông vài chục mét. Đoạn kết đang ở rất gần. Khi kim đồng hồ của ông nằm thẳng hàng, ông rút cái móc kim loại. Thang máy lại chuyển động.

Trong bốn mươi giây nữa, những cánh cửa sẽ mở toang ngay giữa phòng khách của Voloï Viktor.

Salina, quần đảo Eolie, ngày đầu tiên của mùa xuân năm 1936

Lũ chim nhạn vẽ nên những đường lượn vòng quanh Vango. Chúng di chuyển sát cơ thể cậu. Cậu lấy tay che mắt.

Ethel ngồi thăng bằng phía trên vách đá. Mặt trời đang lặn sau quần đảo. Vango bắt đầu đào đất.

Lũ nhạn đến đảo cùng lúc với Vango và Ethel. Chúng đến từ Sahara và đang ngây ngất với sự ấm áp của ngày hội ngộ.

Ethel, Vango và Paul nhanh chóng bay đến đây, họ tiếp đầy nhiên liệu ba lần liền, tại Orleans, Salon-de-Provence và Cagliari ở Sardaigne. Đường đi ngược chiều của lũ chim nhạn. Ngày hôm sau, chúng sẽ ở nhà thờ Đức Bà.

Lúc này, chiếc máy bay đã mất tích phía chân trời. Paul không thể ở lại với họ. Anh đến Tây Ban Nha, nơi những người bạn theo đảng Cộng hòa mới đắc cử đang lo ngại về một cuộc đảo chính.

Một miền phủ đầy hoa. Ethel đang hít thở mùi hương đã bao bọc tuổi thơ Vango. Cô nghĩ đến Salina, Everland, đến vô số thiên đường trong cảnh héo hắt này, nơi con người được sinh ra.

Vango không có phương tiện để đào. Những ngón tay cậu vừa bị gãy khi chạm phải một vật rất cứng. Ngay lập tức, cậu nhìn thấy những cái đinh bằng thép của chiếc vòng cổ con lừa. Con vật đã bị phân hủy và để lại một bộ xương gần như sạch sẽ. Vango tháo được chiếc vòng cổ lớn.

Những lời cuối cùng của Mazzetta là để nói tới con lừa.

Vango kéo chiếc vòng cổ đến tận một phiến đá nhỏ.

Vòng tròn chim nhạn siết chặt. Cao hơn nữa, lũ chim ưng cũng vậy, chúng nhận ra Vango. Chúng cứ ào xuống như mưa đá và lại bay lên phủ dọc vách đá.

Lấy hết sức mình, Vango nâng cái vòng cổ lên trên đầu. Cậu ném nó vào phiến đá. Lớp vỏ bảo vệ bằng da bục ra, một bó vàng và kim cương rơi ra giữa đám cỏ cây hoa lá.

- Ethel… Lại đây mà xem này.

Cô chạy bổ tới.

Mazzetta vẫn gọi con lừa của mình là Kho Báu mà.

Họ cùng nhìn mặt đất lấp lánh đá quý.

Giá trị của kho báu này là vô giá.

Trên con tàu lung linh ánh sáng của họ, một người đàn ông và một người đàn bà bị chết. Và thủ phạm vụ ám sát ấy đang nắm giữ gấp đôi số kho báu đang ở đâu đó.

Nhiều gấp đôi ngọn núi vàng ấy đối với một kẻ sát nhân.

Vango quay lại phía không gian rộng lớn. Gã đó đang ở đâu?

Ông bố bà mẹ đó là ai mà lại dạo chơi trên biển với đống tài sản ấy?

Ai muốn Vango phải chết?

Lần đầu tiên, cậu có cảm giác cuộc chạy đua điên loạn của mình bắt nguồn từ những điều sâu kín của thế kỷ và lịch sử.

Vango không phải là cậu bé mồ côi như những đứa trẻ khác. Cậu là người thừa kế của một thế giới đã bị nhấn chìm.

Cậu lại gần Ethel.

Một chú chim nhạn sà xuống gần họ rồi lại bay lên.

Nếu chú chim ấy muốn chui qua giữa họ thì giữa hai cơ thể ấy, dường như không còn chỗ cho nó nữa rồi.