- 2 - Ý tưởng về Phương Bắc-
“Ngài Asriel,” Hiệu trưởng khó nhọc nói rồi bước tới bắt tay ông. Từ chỗ trốn, Lyra quan sát ánh mắt của Hiệu trưởng, và quả thật trong tích tắc, nó lướt về phía chiếc bàn nơi bình rượu Tokay từng được đặt.
“Hiệu trưởng,” Ngài Asriel nói. “Tôi đến quá muộn để có thể quấy rầy bữa tối của ngài, nên tôi đã thư giãn ở đây một chút. Chào ngài Hiệu phó. Thật mừng vì thấy ngài vẫn khỏe. Xin thứ lỗi cho vẻ ngoài khó coi này; tôi chỉ vừa mới đáp xuống. Vâng, thưa ngài Hiệu trưởng, bình Tokay không còn nữa. Tôi nghĩ ngài đang đứng trong chỗ của nó. Ông lão khuân vác đã đánh rớt nó khỏi bàn, nhưng cũng do lỗi của tôi nữa. Xin chào Cha tuyên úy. Con đã rất thích thú khi đọc bài luận mới nhất của Cha…”
Ông bước đi cùng với Cha tuyên úy, tạo cho Lyra một tầm nhìn hoàn hảo tới khuôn mặt của Hiệu trưởng, vẻ mặt ông không biểu lộ cảm xúc, nhưng con linh thú trên vai thì cứ hết rỉa lông lại nhảy từ chân nọ sang chân kia ra vẻ bồn chồn. Ngài Asriel đã chi phối cả gian phòng, và mặc dù rất cẩn trọng để tỏ ra lịch sự với ông Hiệu trưởng trên đất của ông, thật không khó để thấy quyền lực nằm ở bên nào.
Các Học giả chào vị khách tới thăm rồi tiến vào trong phòng. Một số ngồi quanh bàn, một số chọn ghế bành, và chẳng bao lâu thì tiếng rì rầm nói chuyện đã choán ngợp cả không khí. Lyra có thể thấy họ đang bị cái hộp gỗ, màn hình và đèn chiếu lôi cuốn mãnh liệt. Cô bé biết rất rõ về các Học giả: người Thủ thư, Hiệu phó, viên Thanh tra và số còn lại; họ là những người đã bên cô cả đời, dạy dỗ cô, trừng phạt cô, an ủi cô, tặng cô những món quà, đuổi cô khỏi các cây ăn quả trong vườn; họ là tất cả những gì cô có cho một gia đình. Thậm chí nếu biết gia đình là thế nào, cô bé có lẽ đã cảm thấy họ như một gia đình thực sự, mặc dù nếu biết, cô sẽ dễ cảm nhận điều đó với những người phục vụ trong Học viện hơn. Các Học giả có nhiều việc quan trọng phải làm hơn là chú ý tới cảm xúc của một cô nhóc nửa hoang dã, nửa văn minh, tình cờ bị bỏ lại với họ.
Hiệu trưởng bật đèn cồn dưới chiếc lò hâm nhỏ bằng bạc lên và đun nóng chút bơ trước khi cắt đôi chục quả anh túc rồi thả vào. Quả anh túc luôn được dọn ra sau một bữa tiệc: nó giúp đầu óc minh mẫn, kích thích trao đổi, và làm cuộc thảo luận trở nên sâu sắc hơn. Việc Hiệu trưởng tự chuẩn bị món này đã trở thành thông lệ.
Trong tiếng lách tách của bơ rán và tiếng nói chuyện rì rầm, Lyra xoay người để tìm vị trí thoải mái hơn. Thật cẩn thận, cô bé lấy một trong những chiếc áo choàng - chiếc được đính lông toàn bộ - khỏi mắc và trải xuống sàn tủ.
“Đáng ra cậu nên dùng cái nào cũ và xấu thôi,” Pantalaimon thì thào. “Thoải mái quá là thể nào cậu cũng ngủ cho xem.”
“Tớ mà ngủ thì nhiệm vụ của cậu là đánh thức tớ dậy,” cô bé đáp.
Cô ngồi xuống lắng nghe cuộc nói chuyện. Lại một cuộc đàm luận tẻ nhạt đến phát chán; chủ yếu toàn xoay quanh chính trị, mà là chính trị London, chẳng có gì hấp dẫn về người Tartar cả. Mùi anh túc rán và lá thuốc cháy khoan khoái luồn vào qua cửa tủ; Lyra thấy mình gục gặc đầu không chỉ một lần. Rồi cuối cùng cô bé cũng nghe thấy có ai đó gõ lên bàn. Tiếng trò chuyện lắng xuống; sau đó Hiệu trưởng cất tiếng.
“Thưa quý ngài,” ông nói. “Tôi xin thay mặt quý vị gửi lời chào tới Ngài Asriel đây. Những cuộc viếng thăm của ngài dù rất hiếm hoi nhưng luôn quý báu vô cùng; và tôi được biết rằng ngài ấy có thứ đặc biệt thú vị muốn cho chúng ta xem tối nay. Như chúng ta đã biết; đây là thời gian căng thẳng chính trị leo thang; Ngài Asriel được yêu cầu phải có mặt tại Nhà Trắng vào sáng sớm ngày mai; một con tàu được khởi động sẵn đang chờ để đưa ngài ấy trở lại London ngay khi chúng ta kết thúc buổi thảo luận tại đây; vậy nên chúng ta cần tận dụng thời gian một cách khôn ngoan. Sau khi Ngài Asriel trình bày xong; tôi đoán có thể sẽ có vài câu hỏi. Xin hãy hỏi thật ngắn gọn và đúng trọng tâm. Ngài Asriel; ngài sẵn sàng bắt đầu rồi chứ?”
“Cảm ơn ngài, thưa Hiệu trưởng,” Ngài Asriel đáp. “Để bắt đầu; tôi có vài trang trình chiếu muốn cho quý vị xem. Ngài Hiệu phó, tôi nghĩ ngài có thể nhìn thấy rõ nhất từ đây. Có lẽ ngài Hiệu trưởng nên ngồi ghế cạnh tủ quần áo?”
Ông Hiệu phó già mắt đã gần như lòa hẳn nên cần phải được lịch sự nhường cho chỗ gần màn hình. Và việc ông ngồi dịch về phía trước sẽ khiến Hiệu trưởng phải ngồi cạnh Thủ thư, tức là chỉ cách nơi Lyra trốn trong tủ quần áo tầm một thước. Ông Hiệu trưởng vừa yên vị trên ghế bành thì Lyra nghe thấy tiếng ông lầm bầm:
“Đồ quỷ quyệt! Hắn biết về chai rượu rồi, ta dám chắc là thế.”
Viên Thủ thư rì rầm đáp lại: “Hắn sẽ đòi viện trợ. Nếu hắn đòi bỏ phiếu…”
“Hắn mà làm thế thì ta chỉ cần phản đối lại bằng tất cả tài hùng biện sẵn có.”
Chiếc đèn chiếu rít lên khi Ngài Asriel bơm thật lực vào nó. Lyra khẽ di chuyển để nhìn rõ màn hình, nơi một hình tròn trắng xóa bắt đầu sáng dần lên. Ngài Asriel hô: “Ai đó có thể tắt đèn giùm được không?”
Một trong các Học giả đứng dậy làm điều đó, và căn phòng tối dần lại.
Ngài Asriel bắt đầu:
“Như một số trong các ngài đã biết, tôi khởi hành tới Phương Bắc mười hai tháng trước trong một công tác ngoại giao với Vua xứ Lapland. Ít ra thì đó cũng là điều tôi đang giả bộ làm. Thật ra mục đích thực sự của tôi là đi xa hơn về phía bắc, tới hẳn vùng băng tuyết, để cố gắng tìm hiểu điều gì đã xảy ra với chuyến thám hiểm của Grumman. Một trong những thông điệp cuối cùng của Grumman cho Viện hàn lâm ở Berlin nhắc đến một hiện tượng thiên nhiên nhất định chỉ có thể quan sát được ở những vùng đất Phương Bắc. Tôi đã quyết tâm điều tra việc đó đồng thời cố gắng tìm ra sự thật về Grumman. Nhưng bức hình đầu tiên tôi sắp cho quý vị xem lại không trực tiếp liên quan đến việc nào trong số đó cả.”
Nói rồi ông đặt tấm đầu tiên lên khung và trượt nó vào đằng sau ống kính. Một bức ảnh đen trắng hình tròn sắc nét hiện lên trên màn hình. Nó được chụp vào một đêm trăng tròn, trên đó hiện ra một nhà chòi bằng gỗ ở khoảng cách không xa, những bức tường sậm màu của nó tương phản với tuyết đọng xung quanh và đóng dày trên mái nhà. Bên cạnh cái chòi dựng một hàng các thiết bị khoa học. Đối với Lyra, chúng trông như những thứ thuộc Công viên Mạch trên đường tới Yarnton vậy: nào là dây anten, dây sắt, dụng cụ cách mạch bằng sứ, tất cả dều lấp lánh dưới ánh trăng và phủ đầy sương giá. Một người đàn ông mặc đồ phủ lông, mặt gần như không lộ ra dưới chiếc mũ trùm sâu, đứng ở tiền cảnh với bàn tay giơ lên như thể đang chào. Đứng bên cạnh ông là một bóng dáng nhỏ hơn. Vạn vật đắm mình trong thứ ánh sáng nhợt nhạt từ mặt trăng.
“Tấm ảnh này được chụp bằng nhũ tương ảnh nitrat bạc tiêu chuẩn,” Ngài Asriel giải thích. “Các vị hãy xem một tấm khác, được chụp tại cùng vị trí chỉ sau đó một phút, với loại nhũ tương mới được pha chế đặc biệt.”
Ông nhấc tấm đầu tiên lên và đặt một tấm khác vào khung. Tấm này tối màu hơn nhiều; như thể ánh trăng đã bị lọc bỏ đi vậy. Đường chân trời vẫn có thể thấy được, cùng hình dạng đen thù lù của nhà chòi với mái nhà phủ tuyết nổi bật, nhưng các chi tiết của bộ thiết bị khoa học phức tạp đã chìm trong bóng tối. Tuy nhiên, người đàn ông thì lại thay đổi hoàn toàn: toàn thân ông được ánh sáng bao phủ, một luồng hạt sáng lóng lánh dường như đang tuôn ra từ bàn tay giơ cao của ông.
“Thứ ánh sáng đó,” Cha tuyên úy lên tiếng, “nó đang đi lên hay đi xuống vậy?”
“Nó đang đi xuống,” Ngài Asriel đáp, “nhưng đó không phải là ánh sáng. Đó là Bụi.”
Có điều gì đó trong cách nói của ông khiến Lyra hình dung ra Bụi với chữ cái đầu tiên viết hoa, cứ như nó không phải bụi bẩn bình thường vậy. Phản ứng của các Học giả đã chứng thực cảm giác của cô bé, vì những lời Ngài Asriel nói đã tạo ra một sự im lặng đột ngột bao trùm cả căn phòng, tiếp nối bởi những cái há hốc mồm ngờ vực.
“Nhưng làm thế nào…”
“Chắc hẳn…”
“Không thể nào…”
“Các quý ngài!” Giọng Cha tuyên úy vang lên. “Hãy để Ngài Asriel giải thích.”
“Đó là Bụi,” Ngài Asriel nhắc lại. “Nó được ghi nhận như ánh sáng trên kính ảnh vì các hạt vật chất của Bụi phản ứng với chất nhũ tương này giống như cách các hạt photon phản ứng với nhũ tương nitrat bạc. Ngay từ đầu, chuyến thám hiểm tới Phương Bắc của tôi một phần đã là để kiểm chứng điều này. Như các vị thấy hình ảnh người đàn ông hiện lên rất rõ ràng. Giờ tôi muốn các vị nhìn vào hình dạng bên trái ông ta.”
Ông chỉ vào hình dạng mờ ảo của một thân hình nhỏ hơn.
“Tôi nghĩ đó là linh thú của ông ta,” vị Thanh tra nói.
“Không. Linh thú của ông ta lúc đó đang cuộn mình quanh cổ chủ trong hình dáng một con rắn. Còn cái bóng mà quý vị có thể lờ mờ thấy là một đứa trẻ.”
“Một đứa trẻ bị chặt…?” Có ai đó nói, và cái cách ông ta dừng lại cho thấy ông biết đó là thứ không nên được nói ra.
Im lặng một cách căng thẳng.
Rồi Ngài Asriel điềm tĩnh nói: “Một đứa trẻ toàn vẹn. Và căn cứ vào bản chất của Bụi thì điều đó đánh rất đúng trọng tâm phải không nào?”
Không ai nói gì trong vài giây. Sau đó Cha tuyên úy lên tiếng.
“Chà,” ông thốt lên, như một người đang khát được thỏa thê uống nước rồi đặt chiếc cốc xuống để thở ra luồng hơi đã nén khi uống. “Còn những dòng Bụi…”
“… Tới từ bầu trời, bao phủ lấy ông ta trong một thứ trông như ánh sáng. Các vị có thể kiểm tra bức ảnh này tùy ý: tôi sẽ để nó lại khi đi. Tôi cho quý vị xem lúc này là để chứng minh tác dụng của chất nhũ tương mới này. Giờ tôi xin phép chiếu một tấm ảnh khác.”
Ông đổi trang trình chiếu. Bức ảnh tiếp theo cũng được chụp vào ban đêm, nhưng lần này thì không có ánh trăng. Nó cho thấy một nhóm nhỏ vài chiếc lều ở tiền cảnh, lờ mờ in viền lên chân trời dưới thấp, bên cạnh chúng là một đống lổn nhổn những hộp gỗ và một chiếc xe trượt tuyết. Nhưng tâm điểm chú ý của bức ảnh nằm ở bầu trời. Các dòng và màn ánh sáng phất phơ như những tấm rèm, cuộn vòng và kết lại trên những cái móc vô hình trên cao vài trăm dặm hoặc thổi bạt sang bên trong một luồng gió kì quái nào đó.
“Đó là gì vậy?” Giọng ông Hiệu phó cất lên.
“Đó là một bức ảnh chụp Cực Quang.”
“Một bức ảnh rất sắc nét,” Giáo sư Palmerian nói. “Một trong những bức đẹp nhất tôi từng thấy.”
“Xin tha thứ cho sự thiếu hiểu biết của tôi,” Người lĩnh xướng già run rẩy lên tiếng, “nhưng nếu có biết Cực Quang là gì thì tôi cũng quên mất rồi. Đó có phải thứ người ta gọi là Ánh sáng Phương Bắc không?”
“Đúng vậy. Nó có rất nhiều tên. Nó bao gồm những cơn bão hạt tích mạch và tia mặt trời với sức mạnh dữ dội và khác thường - nếu chỉ có một mình thì chúng vô hình, nhưng khi tương tác với bầu khí quyển thì lại tạo ra quầng sáng rực rỡ như thế này. Nếu có thời gian, tôi đã nhuộm bức hình này để các ngài thấy được màu sắc của nó: chủ yếu là lục nhạt và hồng, điểm thêm chút sắc đỏ thẫm dọc theo viền phía dưới của cấu trúc hình rèm này. Bức ảnh được chụp bằng nhũ tương thông thường. Giờ xin hãy nhìn bức được chụp với nhũ tương đặc biệt.”
Ông lấy bức hình ra. Lyra nghe thấy tiếng Hiệu trưởng nói khẽ: “Hắn mà đòi bỏ phiếu, chúng ta có thể thử viện chứng điều luật cư trú. Hắn không ở Học viện suốt ba mươi tuần trong một năm trở lại đây.”
“Hắn đã có Cha tuyên úy về phe mình rồi…” Viên Thủ thư rì rầm đáp lại.
Ngài Asriel đặt một trang mới vào khung đèn chiếu. Nó cho thấy cùng một cảnh. Cũng giống như cặp ảnh trước đó, nhiều chi tiết hiện rõ dưới ánh sáng thường lại mờ đi khá nhiều trong tấm này, và những bức rèm ánh sáng trên trời cũng chung số phận.
Nhưng ở giữa quầng Cực Quang, cao phía trên khung cảnh trống trải, Lyra có thể thấy thứ gì đó rắn chắc. Cô bé ép sát mặt vào khe cửa để nhìn rõ hơn, cô thấy các Học giả gần màn hình cũng đang ngả về trước. Càng nhìn cô bé càng thấy kinh ngạc, vì trên bầu trời kia là hình bóng không lẫn vào đâu được của một thành phố: các tòa tháp, mái vòm, những bức tường… tòa nhà và dãy phố, lơ lửng trong không khí! Suýt chút nữa thì cô thốt lên vì ngạc nhiên.
Học giả Cassington nói: “Cái đó giống như… một thành phố.”
“Chính xác là vậy,” Ngài Asriel đáp.
“Hẳn là một thành phố thuộc thế giới khác?” Ông Trưởng khoa hỏi với giọng khinh miệt.
Ngài Asriel phớt lờ ông ta. Một vài Học giả xôn xao lên vẻ đầy phấn khích, như thể họ chỉ mới đọc những luận án về sự tồn tại của kì lân mà chưa từng nhìn thấy, thì giờ lại đang được thấy một chứng cứ sống mới bắt được.
“Có phải vụ Barnard-Stokes không?” Giáo sư Palmerian hỏi. “Chính là nó đúng không?”
“Đó là điều tôi muốn tìm hiểu,” Ngài Asriel đáp.
Ông đứng sang một bên tấm màn đang được chiếu sáng. Lyra nhận thấy đôi mắt sẫm màu của ông đang rà soát giữa các Học giả trong lúc họ ngước nhìn bức ảnh Cực Quang, và ánh xanh phát ra từ đôi mắt của con linh thú bên cạnh ông. Tất cả những cái đầu đáng kính đang rướn ra phía trước, kính của họ lấp loáng ánh phản chiếu; chỉ riêng Hiệu trưởng và Thủ thư là ngồi dựa vào lưng ghế, chụm đầu lại với nhau.
Cha tuyên úy lên tiếng: “Ngài Asriel, ngài nói ngài đang tìm kiếm thông tin về cuộc thám hiểm của Grumman. Có phải Tiến sĩ Grumman cũng đã nghiên cứu hiện tượng này không?”
“Tôi tin là đúng như vậy, và tôi tin ông ấy đã thu thập được một lượng thông tin đáng kể về nó. Nhưng ông ấy sẽ không thể nói với chúng ta nó là gì, vì ông ấy đã chết.”
“Ôi không!” Cha tuyên úy thốt lên.
“Tôi e rằng đó là sự thật, và tôi có bằng chứng ở đây.”
Một sự kích động lan tỏa khắp Phòng nghỉ khi vài ba Học giả trẻ tuổi bê chiếc hộp gỗ tới phía trước căn phòng dưới sự chỉ đạo của Ngài Asriel. Ông tháo tấm ảnh cuối cùng ra nhưng vẫn để đèn bật; rồi cúi xuống mở nắp hộp trong ánh chói lòa của vòng sáng. Lyra nghe thấy tiếng ken két của những chiếc đinh đang rời khỏi lớp gỗ ẩm. Hiệu trưởng đứng dậy nhìn làm choán tầm mắt của Lyra. Bác của cô bé lại lên tiếng:
“Nếu các vị còn nhớ, đoàn thám hiểm của Grumman biến mất vào mười tám tháng trước. Viện hàn lâm Đức cử ông ấy đến đó để tiến xa về phía bắc tới tận cực từ và tiến hành đủ các phương thức quan sát bầu trời. Chính trong quá trình thực hiện cuộc hành trình đó, ông ấy quan sát được hiện tượng kì thú mà chúng ta đã thấy. Không lâu sau đó, ông ấy biến mất. Người ta phỏng đoán rằng ông ấy đã gặp tai nạn và rằng xác của ông nằm trong một khe nứt nào đó suốt bấy lâu nay. Sự thực là chẳng có tai nạn nào cả.”
“Ngài có gì ở đó vậy?” Trưởng khoa hỏi. “Đó có phải là hộp hút chân không không?”
Ngài Asriel không trả lời ngay. Lyra nghe thấy tiếng bật tách của những chiếc kẹp kim loại và một tiếng rít lên khi không khí ùa vào khoang chứa, rồi sau đó là lặng thinh. Nhưng sự im lặng không kéo dài lâu. Sau một lúc Lyra nghe thấy tiếng lắp bắp đầy hoang mang vang lên: những tiếng kêu la hốt hoảng; tiếng phản đối ầm ĩ, tiếng nói lớn đầy phẫn nộ và sợ hãi.
“Cái gì chứ…”
“… trông chẳng ra người ngợm gì…”
“… nó đã từng…”
“… chuyện gì xảy ra với nó vậy?”
Giọng ông Hiệu trưởng cắt ngang tiếng những người khác.
“Ngài Asriel, vì Chúa, ngài có cái gì ở đó vậy?”
“Đây là đầu của Stanislaus Grumman,” tiếng Ngài Asriel đáp lại.
Lẫn trong những tiếng nói hỗn độn, Lyra nghe thấy có ai đó lập bập lao tới cửa và chạy ra ngoài, phát ra những tiếng thở gấp đứt đoạn. Cô bé ước giá mà mình có thể được xem thứ họ đang nhìn thấy.
Ngài Asriel nói: “Tôi tìm thấy cơ thể của ông ấy được bảo quản trong đám băng ngoài khơi Svalbard. Những kẻ ám sát ông ấy đã xử lí cái đầu theo cách này. Các ngài sẽ nhận ra kiểu lột da đầu đặc trưng. Tôi nghĩ ngài Hiệu phó khá quen thuộc với điều này.”
Giọng ông lão điềm tĩnh vang lên: “Tôi từng thấy người Tartar làm việc này. Đây là một kĩ thuật thường thấy ở các thổ dân Siberia và người Tungusk. Hẳn nhiên là từ đó nó đã lan rộng vào lãnh thổ của người Skraeling, mặc dù tôi hiểu là hiện giờ nó đang bị cấm ở Tân Đan Mạch. Tôi có thể kiểm tra nó kĩ hơn một chút được không, Ngài Asriel?”
Sau một lúc im lặng, ông lên tiếng.
“Mắt tôi không tinh lắm, lớp băng lại bẩn, nhưng có vẻ như tôi thấy một cái lỗ trên đỉnh sọ. Tôi nói đúng chứ?”
“Đúng vậy.”
“Khoan sọ à?”
“Chính là vậy.”
Những tiếng rì rầm kích động lại vang lên. Hiệu trưởng né người đi và Lyra lại có thể nhìn thấy. Ông Hiệu phó già, trong vòng sáng phát ra từ đèn chiếu, đang giơ một khối băng nặng nề lên sát mắt, và Lyra có thể thấy vật thể bên trong đó: một tảng thịt máu me vừa đủ để nhận ra là đầu người. Pantalaimon rập rờn bay quanh Lyra, sự lo lắng của nó cũng ảnh hưởng tới cô bé.
“Suỵt,” cô bé thì thầm. “Nghe đi.”
“Tiến sĩ Grumman đã từng có thời là Học giả của Học viện này,” Trưởng khoa nóng nảy nói.
“Việc bị rơi vào tay của bọn người Tartar…”
“Nhưng ở xa tận phía bắc thế ư?”
“Bọn chúng hẳn đã xâm nhập xa hơn chúng ta tưởng!”
“Có phải ngài đã nói ngài tìm thấy nó ở gần Svalbard không?” Trưởng khoa hỏi.
“Đúng vậy.”
“Có thể hiểu là đám panserbjørne có dính líu tới vụ này không?”
Lyra không hiểu từ đó, nhưng rõ ràng là các Học giả thì có.
“Không thể nào,” Học giả Cassington nói chắc nịch. “Chúng không bao giờ cư xử như thế.”
“Vậy thì ông không biết Iofur Raknison rồi,” Giáo sư Palmerian nói. Bản thân ông đã vài lần du thám tới các vùng của Cực Bắc. “Việc hắn học theo kiểu lột da đầu người của bọn Tartar chẳng làm tôi ngạc nhiên chút nào.”
Lyra quay lại nhìn bác mình. Ông không nói một lời nào, đôi mắt ánh lên vẻ vui thú đầy mỉa mai khi nhìn các Học giả.
“Iofur Raknison là ai?” Ai đó hỏi.
“Vua xứ Svalbard,” Giáo sư Palmerian đáp. “Phải, đúng vậy, là một trong số các panserbjørne. Hắn đại loại là một kẻ cướp ngôi; lừa lọc để lấy được ngai vàng, hoặc ít ra tôi hiểu như thế; nhưng là một gã hùng mạnh, không hề ngu ngốc, mặc dù có những thú vui lố bịch như xây cung điện từ cẩm thạch nhập khẩu, hắn đã dựng nên một thứ mà hắn tự gọi là trường đại học…”
“Cho ai? Bọn gấu à?” Một người khác lên tiếng, và tất cả phá lên cười.
Nhưng Giáo sư Palmerian vẫn tiếp tục: “Với tất cả những điều đó, tôi xin nói với quý vị rằng Iofur Raknison có khả năng đã làm việc này với Grumman. Tuy nhiên, nếu hoàn cảnh đòi hỏi, tâng bốc có thể sẽ khiến hắn cư xử khác đi nhiều.”
“Và ông biết phải làm thế nào, đúng không Trelawney?” Trưởng khoa châm chọc nói.
“Đúng là tôi biết. Ông có biết hắn ta muốn thứ gì hơn tất cả không? Thậm chí còn hơn cả một tấm bằng danh dự? Hắn muốn một linh thú! Tìm cách cho hắn một con đi, rồi hắn sẽ làm mọi việc vì ông.”
Các Học giả cười ầm lên.
Mạch chuyện khiến Lyra bối rối: những điều Giáo sư Palmerian nói thật vô nghĩa. Hơn nữa, cô đang nóng lòng muốn nghe thêm về tục lột da đầu, về Bắc Cực Quang và thứ Bụi bí ẩn đó. Nhưng cô bé đã phải thất vọng, vì Ngài Asriel không còn bày mẫu vật và ảnh ra nữa, còn buổi nói chuyện đã sớm biến thành một cuộc cãi lộn nội bộ về việc có nên cấp thêm tiền để ông thực hiện một chuyến thám hiểm nữa hay không. Những lí lẽ cứ bay qua bay lại khiến mắt Lyra díp vào. Chẳng mấy chốc cô bé đã ngủ say, cùng với Pantalaimon cuộn quanh cổ cô trong hình dạng ngủ ưa thích của nó - một chú chồn ermine.
Lyra giật mình tỉnh dậy khi có ai đó lắc vai cô.
“Yên nào,” bác cô nói. Cửa tủ đang mở và ông đang cúi người ở đó, sấp bóng dưới ánh đèn. “Họ đi cả rồi, nhưng vẫn còn vài người giúp việc quanh đây. Đi về phòng ngủ đi, và cẩn thận đừng có hé mồm gì về chuyện này đấy.”
“Họ có bỏ phiếu cấp tiền cho bác không?” Cô bé ngái ngủ hỏi.
“Có.”
“Bụi là gì vậy ạ?” Cô bé hỏi trong lúc chật vật đứng dậy sau khi đã ngồi bó người quá lâu.
“Không liên quan gì đến cháu hết.”
“Có liên quan đó ạ,” cô bé nói. “Nếu bác muốn cháu nghe trộm trong tủ đồ thì phải cho cháu biết cháu đang nghe trộm điều gì chứ. Cháu có thể xem đầu của người đàn ông được không?”
Bộ lông chồn màu trắng của Pantalaimon đựng đứng lên: cô cảm thấy nó cọ vào cổ mình. Ngài Asriel khẽ cười.
“Đừng có làm ta bực,” ông đáp, rồi bắt đầu thu dọn tranh ảnh và hộp mẫu vật. “Cháu có quan sát Hiệu trưởng không?”
“Có ạ. Ông ấy kiếm chai rượu trước tiên.”
“Tốt. Nhưng tạm thời thì ta đã trả đũa được chút ít rồi. Nghe lời ta đi ngủ đi.”
“Nhưng còn bác sẽ đi đâu?”
“Quay lại Phương Bắc. Mười phút nữa xuất phát.”
“Cháu đi cùng được chứ?”
Ông ngừng mọi việc đang làm lại và nhìn cô bé như thể lần đầu tiên gặp. Linh thú của ông cũng hướng đôi mắt báo cỡ bự màu ngọc của mình về phía cô. Lyra đỏ mặt dưới ánh nhìn chăm chú của cả hai, nhưng cô bé cũng nhìn lại dữ dội không kém.
“Chỗ của cháu là ở đây,” cuối cùng bác cô cũng trả lời.
“Tại sao chứ? Tại sao chỗ của cháu lại là ở đây? Tại sao cháu lại không thể tới Phương Bắc cùng bác? Cháu muốn xem Bắc Cực Quang, gấu, băng trôi, mọi thứ. Cháu muốn biết về Bụi. Và cả thành phố trên không đó nữa. Đó có phải là một thế giới khác không?”
“Cháu không đi đâu hết, nhóc ạ. Xua ý nghĩ đó ra khỏi đầu đi; giai đoạn này đang rất nguy hiểm. Nghe lời ta và đi ngủ ngay. Nếu cháu ngoan, ta sẽ mang về cho cháu một chiếc sừng moóc với hình chạm khắc của người Eskimo trên đó. Đừng có lằng nhằng nữa không là ta cáu đó.”
Linh thú của ông gầm lên một tiếng thật trầm và hoang dại. Lyra đột nhiên nhận ra sẽ như thế nào nếu cô bị nó ngoạm vào cổ.
Lyra mím môi cau có nhìn bác mình. Ông đang bơm khí từ bình chứa của máy hút và chẳng bận tâm gì đến cô; cứ như thể ông đã quên cô rồi vậy. Vừa bặm môi vừa nheo mắt, cô bé và con linh thú không nói không rằng rời khỏi phòng để đi ngủ.
•••
Hiệu trưởng cùng Thủ thư là bạn lâu năm và cũng là đồng minh của nhau. Việc uống một li brantwijn và an ủi nhau sau một sự việc khó khăn đã trở thành thói quen của hai ông. Vì vậy, sau khi tiễn Ngài Asriel đi, họ tới Nhà Hiệu trưởng, thư giãn trong căn phòng làm việc với rèm kéo kín và lò sưởi được khời, hai con linh thú ở vị trí quen thuộc trên đầu gối hoặc vai, chuẩn bị để suy ngẫm về sự việc vừa xảy ra.
“Ông có thật sự tin là hắn đã biết về chai rượu rồi không?” Viên Thủ thư hỏi.
“Chắc chắn hắn biết. Tôi không biết làm cách nào, nhưng hắn biết, và chính hắn đánh đổ cái chai. Chắc chắn là vậy.”
“Hiệu trưởng, xin thứ lỗi cho tôi, nhưng tôi không kìm được cảm giác nhẹ nhõm. Tôi chưa từng thấy vui về ý tưởng…”
“Đầu độc hắn?”
“Phải. Về việc ám sát.”
“Chẳng có ai thấy vui với ý tưởng đó đâu, Charles ạ. Vấn đề là thực hiện việc đó có tồi tệ hơn hậu quả của việc không thực hiện nó không. Dẫu sao thì cũng đã có thánh nhân nào đó can thiệp và chuyện đã không xảy ra. Tôi chỉ tiếc đã khiến ông bị áp lực vì biết chuyện này.”
“Không, không,” Thủ thư phản đối. “Nhưng tôi ước giá mà ông kể cho tôi nghe nhiều hơn.”
Hiệu trưởng im lặng một lúc trước khi nói: “Phải, có lẽ tôi nên làm vậy. Chiếc Chân Kế cảnh cáo về những hậu quả kinh hoàng nếu Ngài Asriel theo đuổi nghiên cứu này. Không tính tới những chuyện khác thì đứa bé cũng sẽ bị lôi kéo vào, mà tôi thì muốn đảm bảo cho nó an toàn càng lâu càng tốt.”
“Việc của Ngài Asriel liệu có liên quan gì đến sáng kiến mới của Tòa án Công giáo Kỉ luật không? Cái mà, họ gọi là gì ấy nhỉ, cái Ủy ban Hiến tế ấy?”
“Ngài Asriel - không, không. Ngược lại thì đúng hơn. Ủy ban Hiến tế cũng không hoàn toàn chịu trách nhiệm với Tòa án Công giáo. Nó là một tổ chức bán tư nhân, được điều hành bởi một người không có chút thiện cảm với Ngài Asriel. Lần nào bị kẹp giữa hai người đó tôi cũng đều run rẩy, Charles ạ.”
Lần này đến lượt viên Thủ thư im lặng. Kể từ khi Giáo hoàng John Calvin dời ghế Giáo hoàng về Geneva và thiết lập Tòa án Công giáo Kỉ luật, quyền lực của Giáo hội trong mọi khía cạnh cuộc sống đã trở nên tuyệt đối. Bản thân chức Giáo hoàng đã bị bãi bỏ sau cái chết của Calvin, và một mớ hỗn độn các tòa án, học viện, hội đồng, nhìn chung được biết đến với cái tên Huấn Quyền, đã phát triển lên thay thế nó. Những cơ quan này không phải luôn gắn kết với nhau; đôi khi có sự kình địch gay gắt giữa họ. Trong phần lớn thế kỉ trước, tổ chức quyền lực nhất là Học viện Giám mục, nhưng vài năm trở lại đây Tòa án Công giáo Kỉ luật đã chiếm vị trí cơ quan tích cực và được kính sợ nhất của Giáo hội.
Nhưng các cơ quan độc lập luôn có khả năng phát triển dưới sự bảo hộ của một bộ phận khác thuộc Huấn Quyền, và Ủy ban Hiến tế mà Thủ thư đã nhắc đến chính là một trong số này. Viên Thủ thư không biết nhiều về nó; nhưng ông không thích và kinh sợ những gì đã nghe được, nên ông hoàn toàn thấu hiểu nỗi lo lắng của Hiệu trưởng.
“Giáo sư Palmerian có nhắc đến một cái tên,” khoảng một phút sau ông nói. “Barnard-Stokes? Vụ Barnard-Stokes là sao vậy?”
“À, đó không phải là lĩnh vực của chúng ta, Charles ạ. Theo như tôi hiểu thì Nhà thờ Thánh dạy rằng có hai thế giới: một thế giới chứa đựng tất cả những thứ chúng ta có thể nhìn, nghe, sờ nắm, và một thế giới khác, thế giới tinh thần của thiên đàng và địa ngục. Barnard và Stokes là hai - phải nói thế nào nhỉ - nhà thần học bội giáo*, những người đã đề ra định lí về sự tồn tại của rất nhiều thế giới khác như thế giới của chúng ta, không phải thiên đàng hay địa ngục, mà vật chất và đầy tội lỗi. Chúng ở đó, rất gần, nhưng lại vô hình và không thể chạm tới. Nhà thờ Thánh dĩ nhiên là không tán thành thứ dị giáo ghê tởm này, nên Barnard và Stokes đã bị bịt miệng.
“Nhưng không may cho Huấn Quyền là có vẻ như có những lí lẽ toán học vững chắc cho thuyết thế giới khác này. Bản thân tôi thì không theo dõi những thứ đó, nhưng Học giả Cassington nói với tôi rằng chúng rất vững chắc.”
“Và giờ thì Ngài Asriel đã chụp được ảnh về một trong những thế giới khác đó,” Thủ thư nói. “Còn chúng ta thì đã tài trợ để ông ta đi tìm nó. Tôi hiểu rồi.”
“Đúng vậy. Ủy ban Hiến tế và những nhà bảo hộ quyền lực của họ sẽ nghĩ rằng Học viện Jordan là một ổ dung túng cho dị giáo. Tôi sẽ phải giữ cân bằng giữa Tòa án Công giáo và Ủy ban Hiến tế, Charles ạ; và trong lúc đó đứa bé sẽ lớn lên. Bọn họ sẽ không quên nó đâu. Sớm muộn gì nó cũng sẽ bị lôi vào cuộc, nhưng giờ dù tôi có muốn bảo vệ nó hay không thì nó cũng sẽ bị kéo vào thôi.”
“Nhưng vì Chúa, làm sao ông biết được vậy? Lại là Chân Kế à?”
“Phải. Lyra có góp phần trong toàn bộ chuyện này, lại là một phần chính yếu nữa. Trớ trêu là nó sẽ phải làm tất cả mà không ý thức được mình đang làm vậy, mặc dù nó có thể nhận sự hỗ trợ. Nếu kế hoạch với bình rượu Tokay của tôi thành công thì nó sẽ được an toàn thêm một thời gian nữa. Tôi muốn cứu nó khỏi một cuộc hành trình về Phương Bắc. Điều tôi mong muốn hơn tất thảy là có thể giải thích cho nó về việc đó…”
“Con bé sẽ không nghe đâu,” viên Thủ thư nói. “Tôi biết nó quá rõ mà. Cứ nói chuyện gì nghiêm trọng là nó sẽ chỉ nghe nửa vời được năm phút rồi bắt đầu ngó ngoáy. Lần tới hỏi đến thì nó đã quên sạch rồi.”
“Nếu tôi nói với nó về Bụi thì sao? Ông không nghĩ nó sẽ nghe chuyện đó sao?”
Thủ thư thốt lên một tiếng thể hiện rằng ông nghĩ điều đó thật khó xảy ra.
“Sao nó lại phải nghe chứ?” Ông nói. “Sao một câu đố thần học mơ hồ lại khiến một đứa nhóc khỏe mạnh và vô tư phải bận tâm chứ?”
“Vì những điều nó sẽ phải trải qua. Một phần trong đó bao gồm một sự phản bội khủng khiếp…”
“Ai sẽ phản bội nó?”
“Không, không, đó là điều đáng buồn nhất: chính nó sẽ là kẻ phản bội, và trải nghiệm đó sẽ rất tồi tệ. Đương nhiên là nó không được biết về điều đó, nhưng chẳng có lí do gì khiến nó không được biết về vấn đề của Bụi cả. Mà ông có thể đoán sai, Charles ạ; con bé có thể sẽ hứng thú với chủ đề đó nếu được giải thích một cách đơn giản. Và điều đó có thể sẽ giúp nó về sau này. Ít nhất thì chắc chắn việc đó sẽ giúp tôi bớt lo về con bé hơn.”
“Đó là nghĩa vụ của người già,” Thủ thư nói, “lo lắng thay cho đám trẻ. Và nhiệm vụ của đám trẻ là coi thường sự lo lắng của người già.”
Họ ngồi thêm một lúc nữa rồi chia tay vì trời đã về khuya. Cả hai đều đã già và đầy lo âu.