← Quay lại trang sách

- 3 - Trường Jordan của Lyra-

Học viện Jordan là ngôi trường uy nghi và giàu có nhất trong số tất cả các trường ở Oxford. Nó cũng có thể là ngôi trường lớn nhất nữa, dù không ai chắc chắn về điều đó cả. Các tòa nhà được nhóm lại quanh ba sân trong hình tứ giác không đều, có đủ niên đại từ thời đầu Trung Cổ đến giữa thế kỉ mười tám. Trường chưa từng được lên kế hoạch cụ thể mà được xây từng phần một, với quá khứ và hiện tại chồng chéo lên nhau khắp nơi, và kết quả cuối cùng là một khối kiến trúc bề thế nhưng hỗn tạp và dơ dáy, một vài phần luôn có nguy cơ bị sụp. Suốt năm thế hệ của cùng một gia đình - nhà Parslow - được Học viện thuê làm thợ hồ và thợ bắc giàn giáo toàn thời gian. Ông Parslow hiện tại đang dạy nghề cho con trai; hai người bọn họ và ba công nhân sẽ chen nhau như lũ mối thợ trên giàn giáo mà họ đã dựng lên ở góc Thư viện, hoặc trên mái Nhà nguyện, kéo lên những khối đá mới sáng màu, các cuộn chì bóng loáng hoặc những xà nhà bằng gỗ.

Học viện sở hữu trang trại và cơ ngơi khắp quần đảo Brytain. Nghe nói người ta có thể đi bộ từ Oxford đến Bristol theo một hướng và tới London theo hướng khác mà không bao giờ rời khỏi lãnh thổ của Jordan, ở khắp nơi trong vương quốc đều có những nhà máy nhuộm, lò nung gạch, rừng và nhà máy nguyên tử đang trả tiền thuê cho Jordan. Cứ mỗi quý, Thủ quỹ và các thư kí của ông ta sẽ cộng tất cả lại và thông báo tổng số cho Hội nghị Giám mục, rồi đặt mua một cặp thiên nga cho buổi Đại tiệc. Một phần số tiền được đặt riêng ra để dành cho tái đầu tư - Hội nghị Giám mục vừa phê chuẩn cho mua một cao ốc văn phòng ở Manchester - phần còn lại được dùng để chi trả mức lương khiêm tốn của các Học giả và tiền công cho những người phục vụ (cộng thêm gia đình Parslow và khoảng một tá các gia đình khác làm nghề thủ công hoặc buôn bán đang phục vụ Học viện), để đảm bảo cho hầm rượu luôn được chất đầy ắp, để mua sách và biểu đồ mạch tử cho Thư viện mênh mông đang chiếm trọn một cạnh của Sân Melrose cũng như nới rộng nơi đó xuống vài tầng dưới lòng đất như một cái hang; và đặc biệt là để mua các thiết bị khoa học tân tiến nhất cho Nhà nguyện.

Việc duy trì sự tối tân của Nhà nguyện là rất quan trọng, vì Học viện Jordan không có đối thủ nào cho ngôi vị trung tâm của thần học thực nghiệm, dù là trong Âu châu hay ở Tân Pháp Lan Tây. Ít nhất thì Lyra cũng biết điều đó. Cô bé tự hào về sự cao quý của Học viện của mình, và muốn khoe về nó với đám nhóc bụi đời mà cô chơi cùng gần con kênh hay Claybeds. Cô thường nhìn các học giả và giáo sư danh tiếng từ nơi khác đến với vẻ coi thường và thương hại, vì họ không thuộc về Jordan nên kiến thức sẽ ít ỏi, nghèo nàn hơn cả những Trợ lí Học giả tầm thường nhất của Jordan.

Còn về thần học thực nghiệm là gì thì Lyra cũng chẳng biết rõ hơn lũ nhóc bụi đời chút nào. Cô bé cho rằng nó có liên quan đến ma thuật, với chuyển động của các ngôi sao và hành tinh, với những hạt vật chất cực nhỏ, nhưng thật ra đó chỉ là đoán mò. Có khi các ngôi sao cũng có linh thú giống như con người, và thần học thực nghiệm liên quan tới việc giao thoại với chúng. Lyra tưởng tượng Cha tuyên úy nói một cách cao ngạo, lắng nghe những lời nhận xét của linh thú sao, rồi thận trọng gật đầu hoặc lắc đầu trong nuối tiếc. Nhưng cô bé không thể hình dung được điều gì có thể đang diễn ra giữa họ.

Mà cũng chẳng phải cô bé có hứng thú gì. Về nhiều mặt thì Lyra vẫn là một đứa trẻ hoang dã. Điều cô thích nhất là trèo lên mái Học viện cùng với Roger, thằng nhóc phụ bếp và là người bạn đặc biệt của cô, để ném đá vào đầu những Học giả đi ngang qua hoặc huýt lên như cú ngoài cửa sổ mỗi khi có những buổi dạy kèm; chạy đuổi nhau qua những con phố hẹp, hay trộm táo ở chợ, hoặc gây chiến. Cũng như việc cô bé không nhận thức được những làn sóng chính trị ẩn giấu bên dưới bề mặt các vấn đề của Học viện, các Học giả về phần mình cũng sẽ không thấy được sự ngột ngạt sôi sục giữa những mối quan hệ đồng minh, kẻ thù, ác cảm và thỏa hiệp trong cuộc sống của một đứa trẻ ở Oxford. Trẻ con chơi đùa cùng nhau: thật là đẹp mắt! Còn gì có thể ngây thơ và cuốn hút hơn thế?

Nhưng hẳn nhiên, sự thật là Lyra và lũ bạn đồng trang lứa của cô bé đang tham gia vào một cuộc chiến chí tử. Đầu tiên, trẻ con (những đứa trẻ phụ việc, con cái của những người giúp việc, và Lyra) của học viện này giao chiến với trẻ con của các học viện khác. Nhưng sự thù địch này đã bị gạt sang một bên khi lũ trẻ trong thị trấn tấn công một đứa của học viện: vậy là tất cả các học viện liên kết lại và đi khởi chiến với đám trẻ thị trấn. Mối cạnh tranh này đã kéo dài vài trăm năm, rất sâu sắc và đầy thỏa mãn.

Nhưng kể cả điều này cũng bị lãng quên khi có mối đe dọa từ những kẻ thù khác. Tất cả bọn có chung một kẻ thù vĩnh viễn, đó là đám trẻ của những người nung gạch, sống cạnh Claybeds, chúng bị cả đám học viện lẫn thị trấn căm ghét. Năm ngoái Lyra cùng vài đứa ở thị trấn đã tạm đình chiến và đột kích Claybeds, tấn công đám trẻ của những người nung gạch bằng các cục đất sét nặng trịch rồi lật nhào lâu đài sũng nước mà chúng vừa xây trước khi lăn qua lăn lại bọn chúng trong thứ chất bám dính mà chúng sống cùng cho tới khi cả những kẻ thắng cuộc và đám bại trận đều trông như một bầy quỷ bùn golem đang gào thét.

Một kẻ thù thường xuyên khác lại phụ thuộc vào mùa vụ. Những gia đình du mục sống trên thuyền đi kênh thường đến và đi cùng với các hội chợ mùa xuân và mùa thu, luôn là đối tượng tuyệt vời để gây chiến. Đặc biệt có một gia đình du mục thường xuyên quay trở lại hạ neo ở một khu trong thành phố có tên là Jericho. Từ khi biết ném viên đá đầu tiên, Lyra đã căm ghét họ. Lần cuối khi họ tới Oxford, Lyra, Roger và vài đứa phụ bếp khác thuộc Học viện Jordan và Thánh Michael đã phục kích, ném bùn vào con thuyền dài được sơn màu tươi tắn của họ cho tới khi cả gia đình phải lao ra đuổi chúng đi. Đúng lúc đó đội quân dự bị dưới trướng của Lyra đã tấn công thuyền và thả nó trôi theo dòng kênh, làm cản trở tất cả các phương tiện đường thủy khác trong khi những kẻ tấn công của Lyra lục soát thuyền từ đầu này sang đầu kia để tìm một cái nút. Lyra tin tưởng chắc chắn vào cái nút này. Cô bé cam đoan với cả đám, nếu chúng tháo cái nút ra, chiếc thuyền sẽ chìm ngay lập tức. Nhưng chúng không tìm thấy nó, nên đã phải bỏ thuyền lại khi đám người du mục bắt kịp. Ướt như chuột lột, đám trẻ vừa reo mừng chiến thắng vừa chạy trốn qua những con ngõ nhỏ của Jericho.

Đó là thế giới của Lyra và là niềm vui thích của cô. Phần lớn thời gian, cô nhóc là một đứa bé hoang dại, tham lam và lỗ mãng. Nhưng cô luôn có một cảm giác mơ hồ rằng đó không phải toàn bộ thế giới của cô; rằng phần nào đó trong cô còn thuộc về sự vĩ đại và lễ nghi của Học viện Jordan; và rằng đâu đó trong cuộc sống của cô còn có một mối gắn kết với thế giới tối cao của chính trị được đại diện bởi Ngài Asriel. Tất cả những gì cô bé làm với khối kiến thức đó là gây dựng khí chất cho bản thân và sai khiến những đứa trẻ bụi đời khác. Cô bé chưa từng nghĩ tới việc tìm hiểu nhiều hơn.

Cứ như vậy, Lyra đi qua tuổi thơ của mình, như một con mèo nửa hoang dã. Sự biến đổi duy nhất trong quãng thời gian của cô tới vào những dịp không thường xuyên khi Ngài Asriel đến thăm Học viện. Một người bác giàu có và quyền lực rất đáng để khoe khoang, nhưng cái giá phải trả là bị vị Học giả nhanh nhẹn nhất tóm được và đem tới chỗ bà bảo mẫu để tắm rửa, mặc quần áo sạch đẹp, và tiếp theo là bị áp giải (cùng với rất nhiều lời hăm doạ) tới Phòng chung Cấp cao để dùng trà với Ngài Asriel. Một nhóm các Học giả lâu năm cũng sẽ được mời tới. Cô bé sẽ chống đối bằng cách ngồi sụp xuống trong ghế bành cho tới khi Hiệu trưởng nghiêm khắc nhắc cô ngồi thẳng dậy, và rồi cô sẽ nhìn họ trừng trừng cho tới khi cả Cha tuyên úy cũng phải phá lên cười.

Nhưng điều xảy ra trong những cuộc viếng thăm trang trọng và phiền hà này thì chẳng bao giờ thay đổi. Sau khi dùng trà, Hiệu trưởng và vài Học giả được mời khác sẽ để Lyra lại với bác của cô. Ông sẽ gọi cô bé tới trước mặt và yêu cầu kể cho ông nghe cô đã học được gì kể từ lần trước ông đến. Cô bé sẽ làu bàu bất cứ thứ gì có thể vớt được về hình học, tiếng Ả Rập, lịch sử hay mạch học, còn ông sẽ ngồi với một mắt cá chân tì lên đầu gối còn lại và nhìn cô với vẻ khó dò cho tới khi cô bé không nói được gì nữa.

Năm ngoái, trước khi đi viễn thám ở Phương Bắc, ông còn hỏi tiếp: “Nếu không chăm chỉ học hành thì cháu dùng thời gian như thế nào vậy?”

Cô bé lầm bầm: “Cháu chơi thôi. Đại khái là xung quanh Học viện. Chỉ… chơi thôi, thật đấy.”

Rồi ông nói: “Cho ta xem tay cháu nào, nhóc.”

Cô bé giơ tay ra để ông xem, ông cầm lấy và lật chúng lại để kiểm tra móng tay. Bên cạnh ông, con linh thú nằm như tượng nhân sư trên thảm, thỉnh thoảng lại quất đuôi và nhìn Lyra không chớp mắt.

“Bẩn quá,” Ngài Asriel đẩy tay cô bé đi và nói. “Họ không bắt cháu rửa chỗ này à?”

“Có ạ,” cô đáp. “Nhưng móng tay của Cha tuyên úy luôn bẩn. Thậm chí còn bẩn hơn cháu ấy.”

“Ông ấy là một người thông thái. Cháu thì có lí do gì?”

“Chắc cháu làm bẩn lại ngay sau khi rửa tay xong.”

“Cháu chơi ở đâu mà bẩn đến vậy?”

Cô bé nhìn ông ngờ vực. Cô có cảm giác rằng ở trên mái nhà là không được phép, mặc dù chưa có ai thực sự nói vậy cả. “Trong một vài căn phòng cũ,” cuối cùng cô đáp.

“Còn ở đâu nữa?”

“Ở Claybeds, thỉnh thoảng thôi ạ.”

“Và?”

“Jericho và Port Meadow.”

“Không còn đâu nữa à?”

“Không ạ.”

“Đồ nói dối. Hôm qua ta vừa nhìn thấy cháu trên mái nhà.”

Lyra không nói không rằng, bặm môi lại. Ông nhìn cô đầy chua chát.

“Vậy là cháu còn chơi cả trên nóc nhà nữa,” ông nói tiếp. “Cháu có bao giờ vào Thư viện không?”

“Không ạ. Dù cháu có thấy một con quạ trên nóc Thư viện,” cô bé nói.

“Vậy à? Cháu có bắt nó không?”

“Một chân của nó bị đau. Cháu đã định giết rồi nướng nó nhưng Roger bảo bọn cháu nên giúp nó khỏe lên. Vậy nên bọn cháu đã cho nó vài mẩu thức ăn với một chút rượu. Sau đó nó đã khỏe lên và bay đi.”

“Roger là ai thế?”

“Bạn cháu. Đứa phụ bếp.”

“Ra vậy. Vậy là cháu đã trèo lên tất cả các mái nhà.”

“Không phải tất cả. Không ai lên được mái Tòa Sheldon cả, vì họ sẽ phải nhảy qua một khe hở từ Tháp Hành hương. Có một cái cửa sổ mái mở ra phía trên đó, nhưng cháu không đủ cao để với tới.”

“Cháu đã lên tất cả các mái nhà trừ Tòa Sheldon. Vậy còn dưới lòng đất thì sao?”

“Dưới lòng đất ạ?”

“Diện tích dưới lòng đất cũng rộng không kém trên mặt đất đâu. Ta ngạc nhiên là cháu chưa biết tới điều đó. À, một phút nữa ta phải đi rồi. Trông cháu vẫn khỏe lắm. Đây.”

Ông lục trong túi và lôi ra một nắm tiền xu, từ trong đó ông nhặt ra năm đồng đôla vàng đưa cho cô bé.

“Người ta không dạy cháu nói cảm ơn à?” Ông hỏi.

“Cảm ơn bác,” cô bé làu bàu.

“Cháu có nghe lời Hiệu trưởng không đó?”

“Có chứ ạ.”

“Có tôn trọng các Học giả không?”

“Có ạ.”

Linh thú của Ngài Asriel khẽ cười. Đó là tiếng kêu đầu tiên nó tạo ra, khiến Lyra đỏ mặt.

“Vậy đi chơi đi,” Ngài Asriel nói.

Lyra quay đi và nhẹ nhõm lao về phía cửa, không quên quay lại thốt ra một câu “Tạm biệt bác.”

Đó là cuộc sống của Lyra trước cái ngày cô bé quyết định trốn trong Phòng nghỉ, và lần đầu tiên nghe nói về Bụi.

Hẳn nhiên là viên Thủ thư đã nhầm khi nói với Hiệu trưởng rằng cô bé sẽ chẳng quan tâm. Giờ thì cô sốt sắng lắng nghe bất cứ ai có thể kể cho cô về Bụi. Cô sẽ nghe rất nhiều về nó trong vài tháng tới, và rốt cuộc sẽ trở thành người biết rõ về Bụi hơn bất cứ ai trên thế giới này, nhưng trong lúc này thì xoay quanh cô chỉ có cuộc sống phong phú ở Học viện Jordan.

Nhưng bất luận thế nào thì vẫn có thứ khác cần phải bận tâm. Vài tuần nay, có một lời đồn đang thâm nhập qua các con phố: một lời đồn khiến vài người cười nhạo và những người khác phải im lặng, giống như có người thì giễu cợt ma quỷ nhưng có người lại sợ chúng. Không ai có thể hiểu tại sao, nhưng lũ trẻ đang bắt đầu biến mất.

Sự việc sẽ xảy ra như thế này.

Phía đông dọc theo đại lộ lớn của Sông Isis, tụ hợp lại với các sà lan chở gạch, tàu chở nhựa đường và thuyền vận chuyển ngũ cốc di chuyển chậm chạp, xuống dưới cả Henley và Maidenhead tới Teddington, nơi thủy triều từ Biển Đức đánh tới, và xuống xa nữa: tới Mortlake, qua nhà của ảo thuật gia vĩ đại Tiến sĩ Dee; qua Falkeshall, nơi những khu vườn cảnh trải dài rực rỡ với các đài phun nước và cờ phướn vào ban ngày, đèn treo trên cây và pháo hoa vào ban đêm; qua Cung điện Nhà Trắng, nơi Quốc vương chủ trì Hội đồng Bang hằng tuần; qua Tháp Shot, thả xuống cơn mưa chì nóng chảy bất tận vào các thùng chứa nước đen đặc; xuống xa hơn nữa, tới nơi dòng sông, nay đã rộng và đầy rác bẩn, đánh một vòng cua rộng về phía nam.

Đây là Limehouse, còn kia là đứa trẻ sắp biến mất.

Tên nó là Tony Makarios. Mẹ nó nghĩ rằng nó chín tuổi, nhưng bà có một trí nhớ tồi tệ do rượu huỷ hoại; nó có thể tám, hoặc mười tuổi. Họ của nó là tiếng Hy Lạp, nhưng cũng giống như tuổi thằng bé, đó chỉ là suy đoán của mẹ nó, vì trông nó giống dân Trung Hoa hơn là Hy Lạp, trong nó còn có chất Ái Nhĩ Lan, Skraeling và Lascar thừa hưởng từ người mẹ nữa. Tony không được sáng dạ cho lắm, nhưng nó có một sự nhạy cảm vụng về mà đôi khi xúi giục nó ôm mẹ thật chặt hoặc đặt một cái hôn ướt át lên hai má bà. Người đàn bà tội nghiệp thì quá thường xuyên say xỉn để có thể tự làm việc đó; nhưng khi đã nhận ra điều gì đang diễn ra thì bà cũng nồng hậu đáp lại.

Vào lúc này Tony đang lang thang ở chợ Phố Pie. Nó đang đói. Giờ mới sẩm tối, và nó sẽ không được cho ăn ở nhà. Trong túi nó có một đồng shilling được một quân nhân cho vì nó đã giúp đưa tin đến cô gái anh ta yêu quý nhất, nhưng Tony sẽ không phung phí đồng xu vào đồ ăn khi mà nó có thể lấy đồ không tốn chút gì.

Vậy là nó lượn lờ qua khu chợ, giữa những quầy quần áo cũ và quầy giấy đoán vận, giữa các lái buôn hoa quả và những người bán cá khô. Linh thú của nó, một con chim sẻ, đang đậu trên vai ngó nghiêng đủ hướng. Khi cả chủ quầy và linh thú của bà đều đang nhìn đi chỗ khác, một tiếng hót gãy gọn vang lên, tay Tony liền bắn ra rồi quay lại chiếc áo rộng thùng thình của mình với một quả táo hoặc vài quả hạch, và cuối cùng là một chiếc bánh rán nóng hổi.

Chủ quầy nhìn thấy liền hô hoán lên, linh thú trong hình dáng loài mèo của bà nhảy ra, nhưng con chim sẻ của Tony đã bay cao còn bản thân thằng bé đã chạy được nửa con phố rồi. Những lời nguyền rủa và lăng mạ bám theo thằng bé nhưng chẳng được xa. Nó dừng lại trước thềm Nhà nguyện Thánh Catherine, ngồi xuống và lôi chiến lợi phẩm đã bị giập nhưng vẫn đang bốc hơi ra, để lại một vệt nước sốt dính trên áo.

Nó đang bị theo dõi. Một phụ nữ mặc áo choàng dài bằng lông cáo màu đỏ vàng, người phụ nữ trẻ tuyệt đẹp với mái tóc mượt óng ả nhẹ nhàng buông xuống dưới bóng mũ trùm đầu viền lông, đang đứng trong khung cửa của Nhà nguyện, phía trên cậu nhóc chỉ dăm ba bước. Có lẽ buổi lễ đang tới hồi kết vì có ánh sáng hắt ra từ khung cửa phía sau bà, tiếng đại phong cầm vang lên bên trong, còn người phụ nữ thì đang cầm một cuốn kinh cầu nguyện đính đá quý.

Tony không hề chú ý gì đến việc này. Mặt nó đang ngập trong cái bánh đầy thỏa mãn, các ngón chân quặp lại, còn hai lòng bàn chân trần áp vào nhau. Nó ngồi nhai và nuốt trong lúc con linh thú biến thành một con chuột rồi ngồi chải ria mép.

Linh thú của người phụ nữ trẻ bước ra từ bên cạnh bộ áo lông cáo. Nó có dạng khỉ, nhưng không phải một con khỉ bình thường: lông của nó dài và mượt, mang một thứ màu vàng đậm óng ả chưa từng thấy. Con khỉ vừa điệu đà bước đi, vừa nhích xuống thang về phía thằng bé, rồi ngồi xuống bên trên nó một bậc.

Con chuột cảm thấy điều gì đó và liền hóa lại thành chim sẻ, nghển đầu sang bên một chút rồi nhảy vài bước dọc theo bậc đá.

Con khỉ quan sát con chim; con chim nhìn lại con khỉ.

Con khỉ từ tốn vươn tay ra. Bàn tay nhỏ của nó có màu đen, móng tay tạo thành những cái vuốt cong hoàn hảo, cử động của nó mềm mại và mời chào. Con chim sẻ không thể cưỡng lại. Nó nhảy ra xa, xa hơn, và rồi khẽ rung người, nhảy lên tay con khỉ.

Con khỉ nâng con linh thú chim sẻ lên, nhìn kĩ nó trước khi đứng dậy và quay lại phía chủ nhân của mình cùng với con chim sẻ trên tay. Người phụ nữ cúi mái đầu thơm mùi nước hoa xuống thì thầm.

Lúc đó Tony quay lại. Nó không thể ngăn bản thân.

“Ratter!” Nó gọi vẻ hơi hoảng hốt, miệng nhồm nhoàm thức ăn.

Con chim kêu lên. Nó vẫn an toàn. Tony nuốt nốt thứ trong miệng và nhìn chằm chằm.

“Xin chào,” người phụ nữ xinh đẹp nói. “Tên cháu là gì?”

“Tony.”

“Cháu sống ở đâu vậy, Tony?”

“Đường Clarice Walk.”

“Trong bánh có gì vậy?”

“Thịt bò miếng.”

“Cháu có thích chocolatl không?”

“Có!”

“Ta tình cờ có nhiều chocolatl đến mức không tự uống hết được. Cháu có thể tới uống giúp ta không?”

Thằng bé đã thua. Nó đã thua từ giây phút con linh thú đần độn của mình nhảy lên tay con khỉ. Nó theo chân người phụ nữ xinh đẹp và con khỉ vàng xuống Phố Đan Mạch, dọc theo Bến tàu Người treo, rồi xuống Cầu thang Vua George tới cánh cửa nhỏ màu xanh lục bên má một nhà kho cao. Tony sẽ không bao giờ thoát ra được - ít nhất là bằng lối đó; và nó sẽ không bao giờ gặp lại mẹ mình nữa. Còn người đàn bà say xỉn tội nghiệp sẽ nghĩ rằng nó đã chạy trốn. Khi nhớ ra nó, bà sẽ nghĩ rằng đó là lỗi của mình, và sẽ khóc hết nước mắt.

Nhóc Tony Makarios không phải là đứa trẻ duy nhất bị người phụ nữ có con khỉ vàng bắt đi. Nó thấy cả chục đứa khác trong hầm nhà kho, cả trai lẫn gái, không có đứa nào lớn hơn mười hai tuổi; mặc dù vì đứa nào cũng có lịch sử như nó, nên không ai dám chắc về tuổi của mình cả. Thứ mà Tony không nhận ra, hẳn nhiên, là thứ nhân tố mà chúng đều có. Không có đứa trẻ nào trong cái hầm ấm áp nghi ngút khói đó đạt đến tuổi dậy thì.

Người phụ nữ tốt bụng nhìn nó ngồi xuống chiếc tràng kỉ bên tường và được một nữ phục vụ kiệm lời đưa cho một cốc chocolatl lấy từ cái nồi trên bếp sắt. Tony ăn nốt phần bánh còn lại rồi uống thứ nước ngọt nóng hổi mà không chú ý nhiều đến xung quanh, những thứ xung quanh cũng chẳng bận tâm lắm đến thằng bé: nó quá nhỏ để trở thành một mối đe dọa, và quá dửng dưng để hứa hẹn có thể gây thỏa mãn như một nạn nhân.

Một thằng nhóc khác đã hỏi câu hỏi hiển nhiên kia.

“Này bà! Bà đưa bọn tôi đến đây làm gì?”

Nó là một thằng nhóc trông có vẻ hung tợn với môi trên dính chocolatl đen và một con linh thú dạng chuột đen hốc hác. Người phụ nữ đang đứng cạnh cửa ra vào nói chuyện với một người đàn ông cường tráng có khí chất của một thuyền trưởng. Khi quay lại trả lời, trông bà thật thánh thiện trong ánh đèn dầu đang cháy xèo xèo, khiến cả đám im bặt.

“Chúng ta cần sự giúp đỡ của các cháu,” bà ta nói. “Các cháu không ngại phải giúp chúng ta chứ?”

Không ai hé một lời. Tất cả đều nhìn đăm đăm, đột nhiên cảm thấy ngượng ngùng. Chúng chưa từng thấy một người phụ nữ nào như thế; bà ta thật lộng lẫy, dịu dàng và tử tế đến mức chúng thấy mình không xứng đáng với vận may này, và chúng sẵn lòng làm bất cứ thứ gì bà yêu cầu chỉ để được ở cạnh bà lâu hơn.

Bà ta nói với bọn trẻ rằng chúng sẽ tham gia một chuyến đi biển. Chúng sẽ được ăn no mặc ấm, và nếu muốn chúng sẽ được gửi thư về cho gia đình để thông báo rằng mình vẫn an toàn. Thuyền trưởng Magnusson sẽ sớm đưa chúng lên tàu của ông, rồi khi thủy triều thuận lợi họ sẽ giương buồm ra khơi hướng về Phương Bắc.

Chẳng bao lâu sau, mấy đứa muốn gửi thư về cái gia đình nào đó mà chúng có ngồi quây quanh người phụ nữ xinh đẹp. Bà ta viết một vài dòng chúng đọc rồi để chúng nguệch ngoạc một chữ X ở cuối trang, gấp lá thư vào một phong bì ướp nước hoa và viết địa chỉ mà chúng nói. Tony cũng muốn gửi thứ gì đó cho mẹ mình, nhưng nó nhận thức rõ được khả năng đọc của bà.

Nó giật ống tay áo phủ lông cáo của người phụ nữ rồi thì thầm rằng nó muốn bà nói với mẹ nơi nó sắp đến và toàn bộ sự việc. Người phụ nữ cúi mái đầu thanh lịch của mình xuống đủ gần với cơ thể nhỏ xíu nặng mùi của thằng bé để nghe, rồi xoa đầu nó và hứa sẽ chuyển lời nhắn.

Sau đó đám trẻ tụ tập lại để nói lời tạm biệt. Con khỉ vàng vuốt ve tất cả đám linh thú của chúng, còn bọn nhóc thì chạm vào cái áo lông cáo lấy may, hoặc tin rằng chúng có thể nhận được chút sức mạnh, hi vọng hoặc điều tốt đẹp nào đó từ người phụ nữ. Bà chào tạm biệt lũ trẻ rồi tiễn chúng đi dưới sự chăm sóc của vị thuyền trưởng gan dạ trên con tàu chạy hơi nước đang neo tại cầu tàu. Trời đã sẩm tối, con sông phản chiếu vô vàn đốm sáng đang nhún nhảy. Người phụ nữ đứng trên cầu tàu vẫy tay cho tới khi bọn trẻ khuất dạng.

Sau đó bà quay trở vào phía trong với con khỉ vàng rúc trong ngực, ném bó thư nhỏ vào lò trước khi bỏ đi theo lối đã đến.

Trẻ con từ những khu ổ chuột rất dễ để dụ đi, nhưng rốt cuộc người ta cũng để ý, và cảnh sát bị ép hành động một cách miễn cưỡng. Trong một thời gian ngắn, không có thêm vụ bỏ bùa mê nào nữa, nhưng một lời đồn đã hình thành. Dần dần nó biến đổi, phát triển và lan rộng. Sau một thời gian, trong khi vài đứa trẻ biến mất ở Norwich, Sheffield, và rồi Manchester, người dân ở đó nghe nói về các vụ mất tích ở những chỗ khác đã thêm tình tiết vào câu chuyện và cho nó một sức mạnh mới.

Cứ như vậy hình thành truyền thuyết về một nhóm những kẻ bỏ bùa mê bí ẩn đã bắt cóc lũ trẻ đi. Vài người nói kẻ lãnh đạo là một phụ nữ xinh đẹp, những người khác lại bảo đó là một người đàn ông cao lớn có đôi mắt đỏ, trong khi câu chuyện thứ ba lại kể về một thanh niên cười và hát với các nạn nhân của mình để chúng ngoan ngoãn theo hắn như một bầy cừu.

Không có câu chuyện nào thống nhất về nơi chúng đã đem bọn trẻ lạc đi. Vài người cho rằng chúng bị đưa tới Địa ngục, dưới lòng đất, tới Tiên giới. Vài người nói đó là một nông trại, nơi bọn trẻ bị giam giữ và vỗ béo để ăn thịt. Những người khác lại cho rằng bọn trẻ bị giữ và bán làm nô lệ cho đám người Tartar giàu có… Và còn nhiều hơn thế nữa.

Nhưng có một điều mà tất cả đều đồng ý, đó là tên của những kẻ bắt cóc vô hình này. Chúng phải có một cái tên, hoặc sẽ không được nhắc đến nữa, và thật thi thú khi có thể nói về chúng, đặc biệt là lúc đã an toàn và ấm cúng tại nhà, hoặc trong Học viện Jordan. Chẳng ai biết tại sao nhưng cái tên Những Kẻ háu ăn đã được đặt cho chúng.

“Đừng ra ngoài muộn quá, nếu không Những Kẻ háu ăn sẽ bắt mày đi đấy!”

“Chị họ của tớ ở Northampton, chị ấy biết một phụ nữ có con trai bị Những Kẻ háu ăn bắt đi…”

“Những Kẻ háu ăn đã đến Stratford. Chúng nói chúng sẽ tiến xuống phía Nam!”

Và cũng không thể tránh khỏi:

“Cùng chơi trò Những Kẻ háu ăn và bọn nhóc đi!”

Lyra nói vậy với thằng nhóc phụ bếp Roger của Học viện Jordan. Nó sẵn sàng đi theo cô bé đến tận cùng thế giới.

“Chơi như thế nào?”

“Cậu sẽ trốn, và nếu tìm được tớ sẽ xẻ thịt cậu ra, giống như Những Kẻ háu ăn làm vậy.”

“Cậu đâu biết chúng làm gì. Có khi chúng chẳng hề làm thế.”

“Cậu sợ bọn chúng,” cô bé nói. “Tớ có thể thấy điều đó.”

“Không hề. Đằng nào tớ cũng không tin vào chúng.”

“Tớ thì có,” cô bé quả quyết. “Nhưng tớ cũng không sợ. Tớ chỉ cần bắt chước cách mà bác tớ đã làm khi ông ấy đến Jordan lần trước. Tớ đã thấy bác ấy trong Phòng nghỉ. Có một vị khách tỏ ra bất lịch sự, và bác tớ chỉ cần lườm một cái là ông ta lăn quay ra chết tại chỗ, mồm sủi đầy bọt và váng.”

“Ông ấy chưa từng làm thế,” Roger ngờ vực nói. “Không có ai nói gì về việc đó trong Bếp cả. Dù gì thì cậu cũng không được phép vào Phòng nghỉ.”

“Đương nhiên là không rồi. Chẳng ai lại đi nói với người phục vụ về một việc như thế cả. Và tớ đã ở trong Phòng nghỉ, vậy đó. Nói chung là bác tớ vẫn luôn làm thế. Bác ấy đã làm vậy vào một lần bị bọn Tartar bắt. Chúng trói bác ấy lại và định cắt ruột bác ra, nhưng khi tên đầu tiên tiến tới với một con dao, bác chỉ cần nhìn là hắn lăn ra chết. Sau đó một kẻ khác tới và bác ấy lại làm điều tương tự, rồi rốt cuộc chỉ còn lại một tên. Bác tớ nói sẽ để cho hắn sống nếu hắn cởi trói cho bác, vậy là hắn làm theo, nhưng sau đó bác tớ cũng giết luôn hắn để dạy cho hắn một bài học.”

Roger cảm thấy câu chuyện này còn khó tin hơn cả Những Kẻ háu ăn, nhưng vì nó quá hấp dẫn để có thể lãng phí nên chúng thay nhau đóng vai Ngài Asriel và đám Tartar giãy chết, dùng nước quả ướp đá thay cho bọt.

Tuy nhiên, đó chỉ là để đánh lạc hướng; Lyra vẫn nuôi ý định chơi Những Kẻ háu ăn. Cô bé dụ Roger xuống khu hầm rượu, nơi chúng dùng bộ chìa khóa dự trữ của Quản gia để vào. Cùng nhau, chúng luồn qua những căn hầm lớn nơi rượu Tokay và Canary, Burgundy cùng brantwijn của Học viện ngủ yên dưới lớp mạng nhện của hàng thế kỉ. Những mái vòm đá cổ xưa sừng sững phía trên cao, được đỡ bởi các cột chống dày ngang cả chục thân cây, những phiến đá lát khấp khểnh dưới chân, và khắp nơi là những giá chất đầy chai và thùng rượu xếp hàng dài dằng dặc, lớp nối lớp. Cảnh tượng thật khiến lòng người mê đắm. Một lần nữa Những Kẻ háu ăn lại bị lãng quên. Hai đứa trẻ rón rén đi từ đầu này sang đầu kia, những ngón tay run rẩy giữ lấy cây nến, chúng ngó vào mọi ngóc ngách tối tăm, với một câu hỏi độc nhất thôi thúc tâm trí Lyra: rượu có mùi vị thế nào nhỉ?

Có một cách dễ dàng để trả lời câu hỏi đó. Lyra - bất chấp sự phản đối kịch liệt của Roger - đã chọn ra chai rượu lâu năm nhất, méo mó nhất, xanh nhất mà cô có thể tìm được, và vì không có dụng cụ để mở nút, cô bé đã đập vỡ cổ chai. Túm tụm lại trong góc hầm xa nhất, chúng hớp lấy thứ rượu đỏ thẫm ngất ngây, tự hỏi không biết bao giờ mình sẽ say, và đến lúc đó làm thế nào nhận ra được. Lyra không thích vị của nó lắm, nhưng cô bé cũng phải thừa nhận sự cao cấp và phức tạp của nó. Thú vị nhất là khi ngắm hai con linh thú đang càng lúc càng trở nên lẩn thẩn: ngã bổ nhào, rúc rích cười một cách ngớ ngẩn, rồi lại biến hình thành thứ giống như quỷ gargoyle*, cố gắng làm sao trông cho xấu xí hơn đứa còn lại.

Cuối cùng, gần như là đồng thời, hai đứa nhận ra bị say là như thế nào.

“Người ta thích làm cái việc này à?” Roger thở dốc sau khi nôn thốc nôn tháo.

“Phải,” Lyra đáp trong tình trạng y hệt. “Cả tớ cũng vậy,” cô bé bướng bỉnh thêm vào.

Lyra không học thêm được gì từ sự kiện đó ngoài việc chơi Những Kẻ háu ăn sẽ dẫn tới những địa điểm thú vị. Cô bé nhớ lại những lời của bác mình vào lần cuối họ gặp mặt và bắt đầu thám hiểm dưới lòng đất, vì những thứ phía trên mặt đất chỉ là một mảnh nhỏ của tổng thể. Giống như một số loài nấm khổng lồ có bộ rễ đâm sâu hàng mẫu đất, Jordan (chen chúc trên mặt đất với Học viện Thánh Michael ở một bên, Học viện Gabriel ở bên còn lại, và Thư viện Đại học ở phía sau) vào thời điểm nào đó thuộc thời Trung Cổ, đã bắt đầu nới rộng phía dưới bề mặt. Các đường thông, hầm mỏ, hầm vòm, khoang chứa đồ, cầu thang đã đục rỗng khoảng đất phía dưới Jordan và vài trăm thước xung quanh nó, đến mức không khí ở bên dưới gần như nhiều không kém gì so với bên trên; Học viện Jordan đang đứng trên một nền móng lỗ rỗ như đá bọt.

Giờ đây khi đã nếm trải việc khám phá nó, Lyra bỏ bẵng luôn nơi trước đây hay tới, những mái nhà nhấp nhô của Học viện như dãy Alps chạy dài, và cùng với Roger lao vào thế giới dưới lòng đất. Từ việc chơi trò Những Kẻ háu ăn, cô bé đã chuyển sang săn lùng chúng, vì có khả năng nào cao hơn việc chúng đang ẩn náu ở những chỗ không ai biết dưới lòng đất cơ chứ?

Vì vậy, một ngày nọ cô bé và Roger tiến vào hầm mộ bên dưới Nhà nguyện. Đây là nơi hàng thế hệ các Hiệu trưởng được chôn cất trong những chiếc quan tài gỗ sồi lắp viền chì, đặt trong các hốc chạy dọc tường. Một phiến đá bên dưới mỗi hốc ghi tên họ:

Simon Le Clerc, Hiệu trưởng 1765-1789

Cerebaton Requiescant in pace*

“Nó có nghĩa là gì vậy?” Roger hỏi.

“Phần đầu là tên của ông ấy, câu cuối là tiếng La Mã. Niên đại ở giữa chỉ định thời gian ông ấy làm Hiệu trưởng. Cái tên còn lại chắc hẳn là linh thú của ông ấy.”

Chúng đi dọc căn hầm tĩnh lặng, lần theo những chữ cái trên các bản khắc khác:

Francis Lyall, Hiệu trưởng 1748-1765

Zohariel Requiescant in pace

Ignatius Cole, Hiệu trưởng 1745-1748

Musca Requiescant in pace

Lyra thích thú phát hiện ra trên mỗi chiếc quan tài đều có gắn một tấm thẻ bằng đồng vẽ hình những sinh vật khác nhau: tấm này có hình một con basilisk*, tấm kia lại có hình một con mèo, con rắn hay một con khỉ. Cô bé nhận ra đó là hình ảnh linh thú của những người đã khuất. Khi đã trưởng thành, linh thú của một người sẽ mất khả năng biến đổi hình dáng và vĩnh viễn giữ một dạng duy nhất.

“Đám quan tài này có xương bên trong đó!” Roger thì thào.

“Có thịt rữa,” Lyra thì thầm lại. “Rồi cả giòi bọ uốn lượn trong hốc mắt của họ nữa.”

“Dưới đó chắc chắn có ma,” Roger nói rồi rùng mình một cách thích thú.

Chúng tìm thấy một lối đi xếp đầy những giá đồ bằng đá đằng sau hầm mộ đầu tiên. Mỗi giá được chia thành từng ô vuông, và trong mỗi ô đặt một cái đầu lâu.

Linh thú của Roger, đuôi quặp chặt giữa hai chân, run lẩy bẩy trên người nó và khẽ tru lên một tiếng.

“Suỵt,” nó kêu lên.

Lyra không thể nhìn thấy Pantalaimon, nhưng cô bé biết dạng bướm đêm của nó đang đậu trên vai cô và có lẽ cũng đang run rẩy.

Cô với tay, nhẹ nhàng nhấc lấy cái đầu lâu gần nhất ra khỏi giá.

“Cậu làm cái gì vậy?” Roger thốt lên. “Cậu không được phép chạm vào chúng!”

Cô bé lật đi lật lại cái đầu lâu, không bận tâm đến lời bạn mình. Có thứ gì đó đột nhiên rơi khỏi cái hốc ở đáy sọ, qua các ngón tay của cô và đập xuống đất đánh keng một cái. Cô bé giật mình suýt nữa thì đánh rơi luôn cả cái đầu lâu.

“Đó là một đồng xu!” Roger vừa nói vừa lần mò tìm nó. “Có khi lại là một kho báu cũng nên!”

Thằng bé giơ vật thể lên gần ngọn nến và cả hai đứa cùng tròn mắt ra nhìn. Đó không phải là một đồng xu, mà là một chiếc đĩa nhỏ bằng đồng có khắc thô hình một con mèo.

“Giống như mấy cái trên quan tài,” Lyra nhận xét. “Đó là linh thú của ông ấy. Hẳn là vậy.”

“Cậu nên đặt nó lại chỗ cũ đi,” Roger lo lắng nói. Lyra liền lật ngược cái đầu lâu lại rồi thả cái đĩa vào nơi yên nghỉ xa xưa của nó trước khi đặt lại lên giá. Chúng nhận thấy rằng những cái sọ khác cũng có đồng xu linh thú của riêng mình, thể hiện rằng người bạn đồng hành suốt cuộc đời của chủ nhân vẫn theo sát người đó cả trong cái chết.

“Cậu nghĩ khi còn sống họ là ai?” Lyra hỏi. “Tớ đoán là các Học giả. Chỉ có Hiệu trưởng mới được đóng quan tài. Có lẽ có quá nhiều Học giả trong hàng thế kỉ để có thể có chỗ chôn hết tất cả bọn họ, nên người ta chỉ cắt đầu và giữ chúng lại. Đằng nào thì đó cũng là phần quan trọng nhất của họ.”

Chúng không tìm thấy Kẻ háu ăn nào, nhưng hệ thống hầm ngầm dưới lòng Nhà nguyện đã khiến Lyra và Roger bận rộn suốt nhiều ngày. Có lần cô bé đã thử chơi khăm một vài Học giả đã khuất bằng cách hoán đổi đồng xu trong sọ của họ để họ cặp với linh thú của người khác. Pantalaimon kích động đến mức hóa thành dơi và bay tứ tung, phát ra những tiếng kêu chói tai rồi đập cánh vào mặt cô bé, nhưng cô chẳng thèm đoái hoài: không thể để lỡ trò đùa thú vị này được. Mặc dù sau đó cô bé đã phải trả giá cho việc làm của mình. Khi đã yên vị trên giường trong căn phòng hẹp trên đỉnh Thang Mười Hai, cô bé bị một con quỷ gieo ác mộng quấy rầy, cô bật tỉnh gào thét trước ba bóng người mặc áo trùm đầu đứng ở cạnh giường. Chúng trỏ những ngón tay xương xẩu rồi hất ngược mũ trùm lại, để lộ cái gốc đầy máu me nơi đã từng là đầu của chúng. Chỉ khi Pantalaimon biến thành sư tử và gầm lên thì chúng mới chịu rút lui, hòa vào nền tường cho đến khi chỉ còn nhìn thấy cánh tay, rồi chỉ còn đôi bàn tay xám vàng cứng quèo, rồi đến những ngón tay co giật, và cuối cùng là mất dạng. Điều đầu tiên cô bé làm khi tỉnh dậy buổi sáng là lao vội xuống khu hầm ngầm và đặt lại các đồng xu linh thú vào đúng chỗ, rồi thì thầm “Xin lỗi! Xin lỗi!” với đám đầu lâu.

Hệ thống hầm ngầm này lớn hơn rất nhiều so với khu hầm rượu, nhưng chúng cũng có giới hạn. Khi Lyra và Roger đã khám phá hết mọi ngóc ngách của hầm ngầm và biết chắc rằng không có Kẻ háu ăn nào ở đó, chúng liền hướng sự chú ý sang chỗ khác - nhưng trước khi kịp làm vậy, chúng đã bị Đấng Cầu Thay* phát hiện đang rời khỏi hầm mộ, và bị triệu tập trở lại Nhà nguyện.

Đấng Cầu Thay là một ông lão tròn trĩnh được biết tới dưới cái tên Cha Heyst. Công việc của Cha là dẫn dắt tất cả các buổi lễ của Học viện, thuyết giảng, cầu nguyện và lắng nghe thú tội. Khi Lyra còn nhỏ, Cha đã rất quan tâm tới phúc lợi tinh thần của cô bé, nhưng lại bị thất vọng trước thái độ thờ ơ ma mãnh và sự hối hận giả tạo của cô. Cha đã quyết định rằng cô bé này không có tiềm năng về tâm linh.

Khi nghe Cha gọi, Lyra và Roger miễn cưỡng quay lại và lết chân vào không gian tối mờ ám mùi ẩm mốc của Nhà nguyện. Đây đó, những ngọn nến bập bùng trước ảnh các vị thánh; tiếng lách cách xa xăm và yếu ớt phát ra từ gian đặt đại phong cầm đang được tiến hành sửa chữa; một người phục vụ đang đánh bóng bục giảng kinh bằng đồng. Cha Heyst vẫy tay ra hiệu từ phía cửa nhà họp.

“Các con đã ở đâu vậy?” Cha hỏi chúng. “Ta đã thấy các con vào trong đó vài ba lần rồi. Các con tính làm gì thế?”

Giọng Cha không có vẻ đang buộc tội mà như thể ông thật sự quan tâm vậy. Linh thú của Cha búng cái lưỡi thằn lằn về phía chúng từ vị trí trên vai ông.

Lyra đáp: “Chúng con muốn xem hầm mộ ạ.”

“Để làm gì cơ chứ?”

“Các… các quan tài. Chúng con muốn xem tất cả các quan tài,” cô bé nói.

“Nhưng tại sao?”

Cô bé nhún vai. Đó là cách cô thường đáp lại khi bị gặng hỏi.

“Còn con,” Cha nói tiếp, quay về phía Roger. Linh thú của Roger bồn chồn vẫy cái đuôi chó sục của mình để xoa dịu Cha. “Tên con là gì?”

“Roger ạ, thưa Cha.”

“Nếu con là người phục vụ thì con đang làm ở đâu?”

“Trong Bếp ạ, thưa Cha.”

“Giờ có phải con nên ở đó không?”

“Vâng, thưa cha.”

“Vậy thì đi đi.”

Roger quay đi rồi chạy mất. Lyra đứng nhấp nhổm trên hai chân.

“Còn về con, Lyra ạ,” Cha Heyst nói, “ta rất vui khi thấy con quan tâm đến những thứ trong Nhà nguyện. Con quả là một đứa trẻ may mắn vì có toàn bộ nền lịch sử này quanh mình.”

“Ừm,” Lyra ậm ừ.

“Nhưng ta ngạc nhiên về lựa chọn bạn của con đấy. Con có phải một đứa bé cô đơn không?”

“Không ạ,” cô bé đáp.

“Con có… Con có nhớ sự giao lưu với những đứa trẻ khác không?”

“Không ạ.”

“Ý ta không phải là nhóc phụ bếp Roger. Ta muốn nói đến những đứa trẻ như con, được sinh ra ở giai cấp quý tộc. Con có muốn có bạn như thế không?”

“Không ạ.”

“Nhưng những bé gái khác, có lẽ…”

“Không ạ.”

“Con thấy đấy, không ai trong chúng ta muốn con bỏ lỡ tất cả những thú vui và trò tiêu khiển thông thường của tuổi thơ cả. Đôi khi ta thấy cuộc sống của con ở đây, giữa toàn những Học giả già cỗi, thật là cô đơn, Lyra ạ. Con có thấy thế không?”

“Không ạ.”

Cha gõ hai ngón cái vào nhau trên những ngón tay đang đan lại, không nghĩ ra thêm được gì để hỏi đứa trẻ cứng đầu này.

“Nếu có điều gì khiến con phiền muộn,” cuối cùng Cha lên tiếng, “hãy nhớ là con có thể tới và kể cho ta nghe về nó. Ta hi vọng con cảm thấy mình luôn có thể làm điều đó.”

“Vâng,” cô bé đáp.

“Con có thường xuyên cầu nguyện không?”

“Có ạ.”

“Ngoan lắm. Được rồi, đi đi.”

Chỉ vừa kịp ngăn mình thở dài một tiếng nhẹ nhõm, cô bé quay đi và rời khỏi Nhà nguyện. Thất bại trong việc tìm kiếm Những Kẻ háu ăn ở dưới lòng đất, Lyra lại lao ra ngoài đường. Ở đó cô bé thấy thoải mái như ở nhà.

Và rồi, khi cô đã gần như mất hứng với Những Kẻ háu ăn thì chúng lại xuất hiện ở Oxford.

Lần đầu tiên Lyra nghe về chúng là khi một cậu bé thuộc một gia đình du mục mà cô biết mất tích.

Đã gần đến ngày khai mạc Hội chợ Ngựa, vịnh kênh* đầy nhóc những con thuyền dài hình hộp chữ nhật và hình tam giác, chở đầy thương nhân và du khách, những cầu tàu chạy dọc theo bờ Jericho sáng bừng lên bởi những bộ yên cương lấp lánh, ồn ã những tiếng vó ngựa và tiếng la hét trả giá. Lyra luôn thích thú với Hội chợ Ngựa; ngoài cơ hội được cưỡi trộm một chú ngựa ít được chú ý đến, ở đây còn có vô vàn thời cơ để gây chiến.

Và năm nay cô bé có một kế hoạch lớn. Được tạo cảm hứng từ vụ cướp thuyền dài vào năm trước, lần này cô bé dự định sẽ thực hiện một chuyến du ngoạn hẳn hoi trước khi bị đuổi ra. Nếu cô bé và lũ bạn nối khố trong bếp của học viện có thể đi được tới tận Abingdon, chúng sẽ chơi trò tàn phá cái đập nước…

Nhưng sẽ không có cuộc chiến nào vào năm nay cả. Trong lúc đang thơ thẩn dọc theo mép bãi đỗ thuyền trong Port Meadow dưới ánh ban mai cùng vài đứa nhóc bụi đời, chuyền tay nhau một điếu thuốc đánh cắp được và nhả khói ra đầy vẻ phô trương, cô bé nghe thấy tiếng kêu từ một chất giọng quen thuộc.

“Sao nào, mày đã làm gì với nó hả, thằng thiểu năng này?”

Đó là một giọng trịch thượng, giọng phụ nữ, nhưng là một phụ nữ với bộ phổi bằng đồng và da. Lyra lập tức nhìn quanh để kiếm bà, vì đó là Má Costa, người đã hai lần bạt tai Lyra đến mức khiến cô bé liểng xiểng nhưng lại cho cô ăn bánh gừng hồi mới lên ba, gia đình bà nổi tiếng với con thuyền vĩ đại và xa hoa. Họ là những hoàng tử trong số dân du mục. Lyra cực kì ngưỡng mộ Má Costa, nhưng cô bé quyết định sẽ thận trọng với bà trong thời gian hiện tại, vì thuyền của họ là cái mà cô đã cướp.

Một trong những thằng nhóc đi cùng Lyra tự động nhặt một viên đá lên khi nghe thấy tiếng ẩu đả, nhưng Lyra ngăn: “Đặt nó xuống. Bà ấy đang cáu đấy. Bà ấy có thể bẻ gãy xương sống của cậu như bẻ một cành cây vậy.”

Trên thực tế, Má Costa trông lo lắng nhiều hơn là giận dữ. Người đàn ông mà bà đang nhắm vào, một tên lái buôn ngựa, nhún vai và xoè hai bàn tay ra.

“Chà, tôi không biết,” hắn nói. “Nó vừa mới ở đây mà một phút sau đã biến mất rồi. Tôi không thấy nó đi đâu cả…”

“Nó đang giúp mày! Nó đang giúp mày giữ đám ngựa chết tiệt của mày!”

“Thì, nó đáng ra phải ở đây đúng không? Bỏ trốn trong lúc làm việc như thế…”

Hắn ta không nói được thêm câu nào nữa, vì Má Costa đã đột ngột táng vào đầu hắn một cú điếng người, nối theo một tràng sỉ vả và bạt tai khiến hắn phải hét lên và bỏ chạy. Đám lái buôn ngựa gần đó phá lên cười nhạo báng, trong khi một con ngựa non lơ đãng thì chồm lên hốt hoảng.

“Chuyện gì thế?” Lyra hỏi một đứa bé du mục đang há mồm đứng xem. “Bà ấy giận dữ chuyện gì vậy?”

“Là con trai bà ấy,” đứa bé đáp. “Billy. Có lẽ bà ấy nghĩ Những Kẻ háu ăn đã bắt cóc nó. Có thể là chúng làm thật. Tao cũng không thấy nó kể từ khi…”

“Những Kẻ háu ăn? Vậy là chúng đã tới Oxford rồi à?”

Thằng nhóc du mục quay đi gọi đồng bọn, cả đám đều đang đứng nhìn Má Costa.

“Bà ấy không biết chuyện gì đang xảy ra đâu! Bà ấy không biết Những Kẻ háu ăn đang ở đây!”

Nửa tá bọn nhóc quay lại với vẻ nhạo báng, Lyra ném mẩu thuốc xuống đất, nhận ra đây là dấu hiệu khởi chiến. Linh thú của cả đám lập tức trở nên hiếu chiến: từng đứa một đều được hộ tống bởi những răng nanh, móng vuốt, hoặc bộ lông dựng đứng. Trong khi đó Pantalaimon, tỏ vẻ khinh khỉnh trước sức tưởng tượng hạn hẹp của đám linh thú du mục, hóa thành một con rồng có kích cỡ của một con chó săn hươu.

Nhưng trước khi đám trẻ kịp xông tới đánh nhau, Má Costa đã nhảy vào can thiệp, gạt mạnh hai trong số những đứa du mục sang một bên và đối mặt với Lyra như một đấu sĩ săn giải thưởng.

“Cháu có thấy nó không?” Bà hỏi Lyra. “Có thấy Billy không?”

“Không ạ,” Lyra nói. “Bọn cháu vừa mới tới đây. Cháu đã không gặp Billy cả mấy tháng trời rồi.”

Linh thú của Má Costa đang lượn vòng trên khối không khí được chiếu sáng phía bên đầu bà, một con diều hâu với đôi mắt vàng dữ tợn đang đảo khắp phía, không hề chớp mắt. Lyra sợ hãi. Không ai lo lắng về một đứa trẻ biến mất mới được vài giờ, càng không phải một người du mục: trong thế giới tàu bè khăng khít của dân du mục, tất cả trẻ con đều rất quý báu và được yêu chiều quá mức. Và một người mẹ luôn biết rằng nếu đứa trẻ rời khỏi tầm mắt của bà, nó sẽ không đi xa khỏi những người khác, những người luôn sẵn sàng bảo vệ nó vô điều kiện.

Nhưng đây, Má Costa, một nữ hoàng giữa những người du mục, lại đang hốt hoảng vì một đứa trẻ mất tích. Chuyện gì đang xảy ra vậy?

Má Costa gần như mù quáng rà soát đám nhóc rồi quay đi, chật vật lách qua đám đông trên cầu tàu, gào lên tên con mình. Ngay lập tức bọn trẻ quay lại nhìn nhau, cơn hận thù bị bỏ quên trước nỗi thống khổ của người mẹ.

“Những Kẻ háu ăn là lũ nào vậy?” Simon Parslow, một đứa trong hội của Lyra hỏi.

Đứa nhóc du mục đầu tiên lên tiếng: “Mày biết mà. Bọn chúng đang bắt cóc trẻ con trên cả nước. Chúng là hải tặc…”

“Hải tặc cái gì chứ,” một thằng du mục khác sửa lại. “Chúng là lũ ăn thịt người. Nên người ta mới gọi là Những Kẻ háu ăn.”

“Chúng ăn thịt trẻ con á?” Một thằng bạn nối khố khác của Lyra, phụ bếp Hugh Lovat của Học viện Thánh Michael, thốt lên.

“Không ai biết cả,” thằng nhóc du mục đầu tiên đáp. “Chúng bắt trẻ con đi và không ai gặp lại đám trẻ nữa.”

“Cả đám bọn tao đều biết cái đấy,” Lyra nói. “Bọn tao đã chơi Những Kẻ háu ăn và đám trẻ vài tháng trời rồi, tao cá là trước cả lũ chúng mày. Nhưng chắc hẳn là chưa đứa nào từng thấy chúng.”

“Thấy rồi đó,” một thằng nhóc nói.

“Ai thấy hả?” Lyra cố chấp nói. “Mày đã thấy chúng à? Sao mày dám chắc đó không phải chỉ là một người bình thường?”

“Charlie đã thấy chúng ở Banbury,” một cô nhóc du mục đáp. “Chúng tới bắt chuyện với một người phụ nữ trong khi một tên khác tóm lấy cậu con trai nhỏ của cô ấy ra khỏi vườn.”

“Đúng vậy,” thằng nhóc du mục Charlie gào lên. “Tao đã thấy chúng làm thế!”

“Trông chúng như thế nào?” Lyra hỏi.

“À… Tao không nhìn rõ chúng,” Charlie đáp. “Nhưng tao nhìn thấy xe tải của chúng,” nó nói thêm. “Chúng tới trong một chiếc xe tải trắng. Chúng cho thằng bé vào xe và nhanh chóng lái đi.”

“Nhưng sao người ta lại gọi chúng là Những Kẻ háu ăn?” Lyra hỏi.

“Vì chúng ăn thịt trẻ con,” thằng nhóc du mục đầu tiên nói. “Có người nói với bọn tao như vậy ở Northampton. Chúng đã có mặt ở đó. Có một đứa con gái ở Northampton, anh trai nó đã bị bắt, nó bảo đám người đó khi bắt thằng bé đi đã nói với nó rằng chúng sẽ ăn thịt thằng bé. Mọi người đều biết điều đó. Bọn chúng ăn ngấu nghiến trẻ con.”

Một cô nhóc du mục đứng gần đó bắt đầu khóc ầm lên.

“Đó là chị họ của Billy,” Charlie nói.

Lyra hỏi: “Ai là người cuối cùng thấy Billy?”

“Tao,” nửa tá giọng nói cùng vang lên. “Tao đã thấy nó giữ con ngựa già của Johnny Fiorelli… Tao thấy nó cạnh người bán kẹo táo bọc đường… Tao thấy nó đu người trên cần trục…”

Sau khi sắp xếp thông tin, Lyra kết luận rằng Billy chắc chắn đã được nhìn thấy không ít hơn hai tiếng trước.

“Vậy thì,” cô bé nói, “vào thời điểm nào đó trong hai giờ vừa qua, Những Kẻ háu ăn đã phải ở đây…”

Cả đám nhìn quanh, rùng mình dù đang đứng dưới nắng ấm, trong khu cầu tàu đông nghịt, những thứ mùi quen thuộc của nhựa đường, ngựa, và lá thuốc. Vấn đề là vì không ai biết Những Kẻ háu ăn này trông như thế nào, nên ai cũng có thể là bọn chúng, Lyra chỉ ra điều đó cho đám nhóc đang kinh sợ. Giờ thì dù là dân học viện hay du mục, tất cả đều đang dưới sự chỉ huy của cô bé.

“Bọn chúng chắc chắn phải trông giống người thường, nếu không sẽ bị phát hiện ngay,” cô bé giải thích. “Nếu chỉ đến vào ban đêm, chúng có thể có ngoại hình thế nào cũng được. Nhưng nếu dám ra mặt vào ban ngày, chúng phải trông thật bình thường. Vậy nên bất cứ ai trong những người này đều có thể là Những Kẻ háu ăn…”

“Không đúng,” một đứa du mục nói vẻ không dám chắc. “Tao biết tất cả bọn họ.”

“Thôi được rồi, không phải những người này, nhưng có thể là bất cứ ai khác,” Lyra nói. “Đi tìm chúng thôi! Cả cái xe tải trắng của chúng nữa!”

Câu nói đó đã dẫn tới một sự triệu tập nhanh chóng. Chẳng mấy chốc mà những kẻ tìm kiếm khác đã hợp lại với những đứa đầu tiên, và ngay sau đó, chừng hơn ba chục đứa trẻ du mục ồ ạt lao từ đầu này đến đầu kia cầu tàu, chạy ra chạy vào các chuồng ngựa, bò lổm ngổm trên các cần trục và giàn khoan trong bãi đỗ tàu, nhảy qua hàng rào vào những đồng cỏ bạt ngàn, xoay một lèo mười lăm lần trên chiếc cầu xoay cũ trên dòng nước xanh biếc, rồi chạy hết tốc lực qua những khu phố hẹp của Jericho, giữa những ngôi nhà nhỏ đắp nền cao bằng gạch và vào nhà nguyện lớn hình tháp vuông của Thánh Barnabas Nhà bào chế. Nửa số chúng thậm chí không biết mình đang tìm kiếm thứ gì, và mặc dù đó chỉ là một cuộc chơi, nhưng những đứa thân cận nhất với Lyra cảm thấy thật sự sợ hãi mỗi lần chúng thoáng thấy một hình bóng đơn lẻ dưới một con hẻm hay trong ánh sáng mờ ảo của Nhà nguyện: liệu có phải một Kẻ háu ăn không?

Nhưng hẳn nhiên là không phải. Rốt cuộc thì không một lần thành công cộng với bóng tối của việc Billy thực sự biến mất bao trùm lên cả đám, niềm vui dần tan biến. Khi Lyra và hai đứa trẻ học viện rời Jericho lúc gần đến giờ ăn nhẹ, chúng thấy những người du mục tập hợp lại trên cầu tàu gần nơi đậu thuyền của nhà Costa. Vài người phụ nữ đang khóc lớn, còn đàn ông tụ tập thành những nhóm đầy giận dữ, linh thú của họ lo lắng, bay loạn xạ hay gầm gừ với những cái bóng.

“Tớ cá là Những Kẻ háu ăn không dám vào đây đâu,” Lyra nói với Simon Parslow khi hai đứa bước qua ngưỡng cửa vào nhà gác lớn của Jordan.

“Ừ,” nó ngập ngừng đáp. “Nhưng tớ biết có một đứa bé ở Chợ bị mất tích.”

“Ai thế?” Lyra hỏi. Cô bé biết hầu hết đám trẻ ở Chợ, nhưng chưa từng nghe thấy việc này.

“Jessie Reynolds, bên ngoài xưởng đóng yên cương. Hôm qua nó không có ở đó lúc đóng cửa hàng, dù chỉ mới đi câu một chút để chuẩn bị bữa trà cho bố. Nó không trở về nữa và cũng không ai thấy nó cả. Người ta đã lùng sục khắp Chợ và mọi nơi.”

“Tớ chưa từng nghe về việc đó!” Lyra tức giận nói. Cô bé cho rằng đó là sai lầm đáng trách của đám trẻ dưới trướng vì đã không kể với cô ngay lập tức.

“À, chuyện đó mới xảy ra hôm qua thôi. Có khi giờ nó đã quay lại rồi.”

“Tớ sẽ đi hỏi,” Lyra nói rồi rời khỏi Nhà gác.

Nhưng chưa kịp ra khỏi cửa thì người gác cổng đã gọi cô lại.

“Nào, Lyra! Tối nay cháu không được ra ngoài thêm lần nào nữa đâu. Lệnh của Hiệu trưởng đó.”

“Tại sao không ạ?”

“Ta nói rồi, là lệnh của Hiệu trưởng. Ông ấy nói cháu mà quay lại thì phải ở lại luôn.”

“Ông bắt cháu thử xem,” cô bé nói rồi lao đi trước khi ông già kịp rời khỏi bậu cửa.

Cô băng qua con phố nhỏ, chạy xuống con hẻm nơi các xe tải đã dỡ hàng để chuẩn bị cho Chợ Mái che. Hiện đang là giờ đóng cửa nên chỉ có vài chiếc xe tải ở đó, nhưng có một tốp thanh niên đang đứng hút thuốc và nói chuyện bên cạnh cổng trung tâm đối diện với bức tường đá cao của Học viện Thánh Michael. Lyra biết một trong số đó, một anh chàng mười sáu tuổi mà cô bé ngưỡng mộ vì cậu ta có thể nhổ xa hơn bất cứ ai mà cô từng được nghe tới. Vậy là cô bước tới và khúm núm chờ cậu ta để ý tới mình.

“Sao? Nhóc muốn gì?” Cuối cùng cậu ta cũng lên tiếng.