← Quay lại trang sách

- 9 - Các gián điệp

Trong vòng vài ngày tiếp theo, Lyra vạch ra cả chục kế hoạch rồi lại nôn nóng loại bỏ chúng; vì tóm lại chúng đều dẫn đến việc đi lậu thuyền, nhưng đi lậu trên thuyền dài kiểu gì được chứ? Đúng là cuộc hành trình thật sự sẽ có một con tàu ra trò, mà cô bé thì biết nhiều chuyện để trông chờ vào đủ loại chỗ ẩn náu trên một con tàu cỡ lớn: những chiếc tàu cứu hộ, khoang, thùng đáy, gì cũng được; nhưng cô sẽ phải lên được tàu trước đã, mà rời khỏi vùng Fen đồng nghĩa với việc di chuyển theo cách của dân du mục.

Kể cả có tự mình đến được bờ biển đi chăng nữa, cô cũng có thể sẽ lên nhầm tàu. Giả dụ mà trốn trong tàu cứu hộ rồi khi tỉnh lại thấy mình đang trên đường tới Thượng Brasil thì đẹp mặt lắm.

Trong lúc đó, việc tập hợp đồ đạc cho chuyến thám hiểm đang diễn ra bất kể ngày đêm ở khắp nơi xung quanh cô, cứ như trêu ngươi cô bé vậy. Cô quanh quẩn bên Adam Stefanski, quan sát ông lựa chọn người tình nguyện cho lực lượng chiến đấu. Cô quấy rầy Roger van Poppel bằng các gợi ý về những đồ dự trữ mà họ cần phải mang theo: ông ấy có nhớ kính đi tuyết không? Ông ấy có biết chỗ tốt nhất để lấy bản đồ Bắc Cực không?

Người cô muốn giúp nhất là Benjamin de Ruyter, viên gián điệp. Nhưng sáng sớm sau buổi Roping thứ hai ông đã lỉnh đi, và hẳn nhiên là không ai có thể đoán được ông đã đi đâu hay khi nào thì ông về. Vậy là Lyra đành bám lấy Farder Coram.

“Cháu nghĩ sẽ là tốt nhất nếu cháu giúp ông, Farder Coram ạ,” cô bé nói, “bởi vì có lẽ cháu biết về Những Kẻ háu ăn nhiều hơn bất cứ ai, do cháu đã gần như trở thành một trong số chúng. Có lẽ ông sẽ cần cháu giúp lí giải các thông điệp của ông de Ruyter.”

Ông thấy thương hại cô bé có tính cách dữ dội và liều lĩnh này nên đã không đuổi cô đi. Thay vào đó ông nói chuyện với cô, lắng nghe cô kể lại những kí ức về Oxford, về Phu nhân Coulter, và quan sát cô đọc chiếc Chân Kế.

“Cái cuốn sách chứa tất cả các biểu tượng ở đâu vậy ạ?” Một ngày nọ cô hỏi.

“Ở Heidelberg,” ông đáp.

“Chỉ có một cuốn thôi sao?”

“Có thể có những cuốn khác nữa, nhưng đó là cuốn ta đã thấy.”

“Cháu dám cá là có một bản trong Thư viện Bodley ở Oxford,” cô nói.

Cô bé gần như không thể rời mắt khỏi linh thú của Farder Coram, đó là con linh thú đẹp nhất mà cô từng thấy. Khi ở trong hình dạng mèo, Pantalaimon trông gầy gò, bờm xờm và tả tơi, nhưng Sophonax, đó là tên của nó, có đôi mắt vàng kim thanh nhã khôn tả, to gấp đôi một con mèo thật và có bộ lông dày mượt mà. Khi ánh mặt trời chạm đến, nó bừng lên nhiều sắc màu hung - nâu - xanh lá - nâu lục - vàng ngô - vàng kim - vàng thu - nâu đỏ hơn Lyra có thể gọi tên. Cô ao ước được chạm vào bộ lông đó, được cọ má vào nó, nhưng đương nhiên là cô không bao giờ làm thế; vì chạm vào linh thú của người khác là sự vi phạm phép tắc thô thiển nhất có thể tưởng tượng được. Đương nhiên các linh thú thì có thể chạm vào nhau, hoặc đánh nhau; nhưng sự ngăn cấm tiếp xúc giữa người và linh thú sâu sắc đến mức kể cả khi giao tranh, không binh sĩ nào lại chạm vào linh thú của kẻ địch cả. Việc đó bị cấm tuyệt đối. Lyra không nhớ nổi mình có từng bị nhắc nhở về điều đó hay không: cô cứ tự nhiên biết về nó, giống như bản năng mách bảo rằng cảm thấy buồn nôn là xấu còn được an ủi là tốt vậy. Vì vậy mặc dù rất ngưỡng mộ bộ lông của Sophonax và thậm chí còn tự tưởng tượng xem cảm giác khi chạm vào sẽ như thế nào, cô cũng không cố chạm vào con linh thú, và sẽ không bao giờ làm vậy.

Sophonax béo tốt, khỏe mạnh, và xinh đẹp bao nhiêu thì Farder Coram lại tiều tụy và yếu ớt bấy nhiêu. Ông ấy có thể đã bị ốm, hoặc bị làm cho tật nguyền, nhưng kết quả là ông không thể đi lại mà không tì lên hai chiếc nạng, lúc nào ông cũng run lẩy bẩy như cầy sấy. Dù vậy trí não của ông thì lại rất sắc sảo, tinh tường và mạnh mẽ. Chẳng mấy chốc Lyra đã trở nên yêu quý ông vì sự thông thái và vì cách ông chỉ bảo cô rất tận tình.

“Cái đồng hồ cát đó có nghĩa là gì vậy Farder Coram?” Cô bé hỏi lúc đang cầm chiếc Chân Kế vào một buổi sáng đẹp trời trên thuyền của ông. “Nó cứ chỉ vào đó suốt.”

“Thường sẽ có một manh mối ở đó nếu cháu chịu khó quan sát kĩ hơn. Cái thứ nhỏ xíu cũ kĩ trên đỉnh của nó là gì vậy?”

Cô bé nheo mắt nhòm vào.

“Đó là một cái đầu lâu!”

“Vậy cháu nghĩ nó có thể mang ý nghĩa gì?”

“Cái chết… Có phải là cái chết không ạ?”

“Đúng rồi. Như vậy trong phạm vi ý nghĩa của đồng hồ cát ta có cái chết. Cụ thể thì, thời gian là ý nghĩa đầu tiên, sau đó ý nghĩa thứ hai là cái chết.”

“Ông có biết cháu nhận ra điều gì không, Farder Coram? Cái kim dừng lại ở đó vào vòng xoay thứ hai! Ở vòng đầu tiên nó hơi giật giật, sang đến vòng thứ hai mới dừng hẳn. Điều đó ám chỉ ý nghĩa thứ hai đúng không ạ?”

“Có thể. Cháu đang hỏi nó điều gì vậy, Lyra?”

“Cháu đang nghĩ…” Cô bé ngừng lại, ngạc nhiên nhận ra rằng mình đã đặt câu hỏi từ lúc nào không hay. “Cháu chỉ gộp ba hình ảnh lại với nhau vì… Cháu đang nghĩ đến ông de Ruyter, ông biết đấy… Cháu gộp con rắn, nồi luyện kim và tổ ong lại, rồi hỏi xem ông ấy đi do thám thế nào rồi, và…”

“Tại sao lại là ba biểu tượng đó?”

“Vì cháu nghĩ con rắn thì gian xảo, giống như đặc điểm của gián điệp, nồi luyện kim có thể mang nghĩa kiến thức, thứ mà ta chưng cất được, còn tổ ong là làm việc chăm chỉ, giống như ong lúc nào cũng rất cần mẫn; từ sự chăm chỉ và gian xảo dẫn đến kiến thức, vậy đó, và đấy là công việc của gián điệp. Cháu chỉ vào những bức hình đó rồi hình dung câu hỏi trong đầu, và kim dừng lại ở cái chết… Ông nghĩ nó có thực sự hoạt động tốt không, Farder Coram?”

“Nó vẫn hoạt động tốt, Lyra ạ. Điều chúng ta không biết là liệu chúng ta có đọc đúng hay không thôi. Đó là một nghệ thuật rất kì ảo. Không biết nếu…”

Trước khi ông kịp nói hết câu thì có tiếng gõ cửa đầy khẩn thiết vang lên, rồi một thanh niên du mục bước vào.

“Xin thứ lỗi, Farder Coram, Jacob Huismans vừa mới trở về, ông ấy bị thương rất nặng.”

“Ông ấy đã đi cùng với Benjamin de Ruyter,” Farder Coram nói. “Chuyện gì xảy ra vậy?”

“Ông ấy không chịu nói,” người thanh niên nói. “Ông nên tới đó đi, Farder Coram, vì ông ấy không sống được lâu đâu, ông ấy bị nội thương.”

Farder Coram và Lyra nhìn nhau đầy hoảng hốt và kinh ngạc, nhưng chỉ trong một giây. Sau đó Farder Coram tập tễnh chống nạng đi ra, cố gắng đi nhanh nhất có thể, với con linh thú rảo bước phía trước. Lyra cũng đi cùng, cô nhún nhảy đầy nôn nóng.

Người thanh niên dẫn họ tới một con thuyền được buộc vào cầu tàu chất củ cải đường, nơi một người phụ nữ mặc tạp dề đỏ đang mở sẵn cửa đón họ. Thấy bà liếc nhìn Lyra vẻ ngờ vực, Farder Coram bèn nói: “Việc để cô bé nghe những lời Jacob sẽ nói rất quan trọng, bà chủ à.”

Người phụ nữ liền để họ vào và ở lại cùng với con linh thú sóc đang im lặng đứng trên chiếc đồng hồ gỗ. Nằm trên giường dưới lớp khăn trải chắp vá là một người đàn ông có khuôn mặt trắng bệch đẫm mồ hôi và đôi mắt đờ đẫn.

“Tôi đã mời thầy thuốc rồi, thưa Farder Coram,” người phụ nữ run rẩy nói. “Xin đừng kích động ông ấy. Ông ấy đang rất đau đớn. Ông ấy vừa tới từ thuyền của Peter Hawker vài phút trước.”

“Peter bây giờ đang ở đâu?”

“Ông ấy đang neo thuyền. Chính ông ấy bảo tôi mời ngài đến.”

“Được rồi. Nào, Jacob, anh có nghe thấy tôi nói không?”

Đôi mắt Jacob đảo về phía Farder Coram đang ngồi trên chiếc giường phía đối diện cách đó một hoặc hai bước chân.

“Xin chào, Farder Coram,” ông thì thào.

Lyra nhìn linh thú của ông. Đó là một con chồn sương. Nó đang nằm lặng như tờ cạnh đầu ông, người cuộn tròn lại nhưng không ngủ vì mắt nó đang mở và cũng đờ đẫn không khác gì mắt chủ.

“Chuyện gì xảy ra vậy?” Farder Coram hỏi.

“Benjamin chết rồi,” câu trả lời vang lên. “Ông ấy đã chết, còn Gerard thì bị bắt.”

Giọng ông lào khào, hơi thở gấp gáp. Khi ông ngừng nói, con linh thú đau đớn duỗi người ra liếm má ông. Được cử chỉ đó khích lệ, ông nói tiếp:

“Chúng tôi đang đột nhập vào Bộ Thần học, vì Benjamin nghe một trong những tên Kẻ háu ăn mà chúng tôi bắt được nói rằng sào huyệt của chúng ở đó, rằng đó là nơi đưa ra tất cả các mệnh lệnh…”

Ông lại một lần nữa ngừng nói.

“Các anh đã bắt được vài tên Kẻ háu ăn ư?” Farder Coram hỏi.

Jacob gật đầu rồi liếc nhìn sang linh thú của mình. Rất hiếm khi linh thú nói chuyện với con người trừ chủ thể của mình, nhưng đôi khi việc đó cũng xảy ra, và lúc này linh thú của ông đang nói.

“Chúng tôi tóm được ba tên Những Kẻ háu ăn ở Clerkenwell và bắt chúng khai ra chúng đang làm việc cho ai, nhận lệnh từ đâu và những việc khác nữa. Chúng không biết bọn trẻ bị đưa đi đâu, trừ việc nơi đó nằm ở phía bắc Lapland…”

Con linh thú phải dừng lại để thở gấp, lồng ngực bé xíu run lên, trước khi có thể tiếp tục nói.

“Bọn chúng nói với chúng tôi về Bộ Thần học và Ngài Boreal. Benjamin nói ông ấy và Gerard Hook phải đột nhập vào Bộ, còn Frans Broekman và Tom Mendham đi tìm hiểu về Ngài Boreal.”

“Họ đã làm vậy à?”

“Chúng tôi không biết. Họ không hề quay lại. Farder Coram, cứ như thể chúng đã biết về tất cả những việc chúng ta làm trước cả khi ta thực hiện nó vậy, và theo như chúng tôi được biết thì Frans và Tom đã bị nuốt sống ngay khi đến gần Ngài Boreal.”

“Trở lại với Benjamin đi,” Farder Coram nói, nghe thấy tiếng thở của Jacob trở nên gắt hơn, đôi mắt nhắm nghiền lại vì đau đớn.

Linh thú của Jacob khẽ kêu lên vì lo lắng và yêu thương. Người phụ nữ tiến một vài bước lại gần, đôi tay ụp trên miệng; nhưng bà không nói gì cả, và con linh thú yếu ớt nói tiếp:

“Benjamin, Gerard và chúng tôi tới văn phòng Bộ tại Nhà Trắng và tìm thấy một cánh cửa phụ nhỏ không được canh gác quá nghiêm ngặt. Chúng tôi đứng canh chừng bên ngoài trong lúc họ phá khóa đột nhập vào bên trong. Họ mới vào chưa đầy một phút thì chúng tôi nghe thấy một tiếng hét kinh hãi, rồi linh thú của Benjamin lao tới ra hiệu cho chúng tôi cứu viện rồi lại lao vào. Chúng tôi rút dao ra và chạy vào ngay sau nó. Có điều, nơi đó rất tối, đầy những hình dạng và âm thanh hoang dại, những cử động ghê sợ của chúng khiến chúng tôi bị rối loạn. Chúng tôi chạy đi tìm khắp nơi, rồi có một cơn chấn động từ phía trên, một tiếng thét rợn tóc gáy vang lên, rồi Benjamin và linh thú của ông ấy rơi xuống từ một cầu thang cao phía trên chúng tôi. Con linh thú cố giật và đập cánh để giữ ông ấy lại nhưng vô ích. Họ đâm sầm xuống sàn nhà bằng đá và cả hai lịm đi trong chốc lát.

“Chúng tôi không thấy Gerard đâu cả, nhưng lại nghe thấy tiếng ông ấy rú lên từ phía trên, chúng tôi quá kinh hãi và choáng váng đến mức không nhúc nhích nổi, rồi một mũi tên bắn xuống vai chúng tôi và xuyên sâu vào bên trong…”

Tiếng con linh thú yếu dần, người đàn ông rên lên một tiếng đau đớn. Farder Coram cúi người về trước và nhẹ nhàng kéo lớp khăn phủ giường lại. Ở đó, thòi ra khỏi vai Jacob là phần đuôi gắn lông của một mũi tên cắm trong một cục máu đông lớn. Phần cán và đầu mũi tên đang ngập sâu trong ngực của người đàn ông tội nghiệp nên chỉ có khoảng hơn chục phân thòi ra ngoài da. Lyra thấy như muốn xỉu.

Có tiếng bước chân và tiếng nói bên ngoài cầu tàu.

Farder Coram ngồi dậy và nói: “Thầy thuốc đến rồi, Jacob ạ. Chúng tôi đi bây giờ đây. Chúng ta sẽ nói chuyện lâu hơn sau khi anh khỏe lại.”

Trên đường đi ra, ông ôm siết lấy vai người phụ nữ. Lyra bám chặt lấy ông trên cầu tàu vì ở đó đang có một đám đông tụ tập, thì thầm và chỉ trỏ. Farder Coram ra chỉ thị cho Peter Hawker đến gặp John Faa ngay lập tức, rồi nói thêm:

“Lyra, ngay khi biết Jacob có sống được hay không, chúng ta sẽ phải có một buổi nói chuyện khác về cái Chân Kế đó. Cháu đi làm gì ở đâu đó đi, nhóc; chúng ta sẽ gọi cháu sau.”

Lyra đành đi lang thang một mình. Cô bé đến ngồi bên bờ sông ngập lau sậy và ném bùn xuống nước. Cô biết một điều: cô không thấy vui hay tự hào vì đã đọc được Chân Kế - cô thấy sợ. Dù cho cái thứ năng lực khiến cái kim xoay và dừng có là gì đi nữa thì nó cũng biết chuyện như một sinh vật thông minh vậy.

“Mình đoán đó là một linh hồn,” Lyra nói, trong một chốc cô đã thực sự muốn liệng cái vật nhỏ bé đó vào giữa khu đầm lầy.

“Nếu ở đó có linh hồn thì tớ đã nhìn thấy rồi,” Pantalaimon nói. “Giống như con ma già ở Godstow đó. Tớ thấy nó trong khi cậu thì không.”

“Có nhiều hơn một loại linh hồn đó,” Lyra vặc lại. “Cậu không thể nhìn thấy tất cả được. Mà còn mấy ông Học giả già mất đầu đã chết thì sao? Tớ thấy họ đấy, đừng có quên.”

“Chỉ là lũ quỷ gieo ác mộng thôi mà.”

“Không phải. Chúng là các linh hồn hẳn hoi đó, và cậu biết điều đó. Nhưng thứ làm chuyển động cái kim thì không phải là loại linh hồn đó.”

“Nó cũng có thể không phải là một linh hồn,” Pantalaimon cứng đầu đáp.

“Vậy nó có thể là gì được chứ?”

“Nó có thể là… Nó có thể là các hạt cơ bản.”

Cô bé tỏ ra giễu cợt.

“Có thể mà!” Con linh thú khăng khăng nói. “Cậu có nhớ cái cối xay ánh sáng người ta để ở Gabriel không? Sao hả?”

Tại Học viện Gabriel có một vật rất linh thiêng được cất trên bệ thờ cao của Nhà nguyện, giờ nghĩ lại thì Lyra nhận ra nó được bọc trong một lớp vải nhung đen, giống như loại vải bọc Chân Kế. Cô đã thấy nó khi đi cùng Thủ thư của Jordan đến dự lễ tại đó. Khi lời khẩn cầu lên đến cao trào, Đấng Cầu Thay nhấc tấm vải lên, để lộ ra trong ánh sáng mờ ảo một vòm kính chứa thứ gì đó bên trong nhưng lại quá xa để có thể nhìn thấy được. Cho tới khi ông kéo một sợi dây gắn với cửa chớp phía trên, để lọt một dải nắng rọi đúng vào mái vòm thì mọi thứ mới hiện lên rõ nét: một vật nhỏ xinh giống như chiếc chong chóng chỉ chiều gió, với bốn bản hứng gió sơn màu đen ở một phía và màu trắng ở phía còn lại. Ánh sáng chiếu vào khiến nó bắt đầu xoay. Thiết bị này minh họa một bài học đạo đức, Đấng Cầu Thay giải thích, vì màu đen của sự ngu muội bỏ chạy khỏi ánh sáng, trong khi sự thông tuệ của màu trắng lại vội vàng ôm ghì lấy nó. Lyra tin lời ông, nhưng dù mang ý nghĩa gì thì cái chong chóng nhỏ đang quay tít trông cũng thật vui mắt, và tất cả những chuyển động đó đều nhờ lực của các photon, viên Thủ thư đã nói như vậy khi họ đang đi bộ về Jordan.

Vậy có lẽ Pantalaimon nói đúng. Nếu các hạt cơ bản có thể làm cho một chiếc cối xay ánh sáng quay thì không có gì nghi ngờ khi chúng có thể khiến một cái kim hoạt động nhẹ nhàng; nhưng điều đó vẫn khiến cô lo nghĩ.

“Lyra! Lyra!”

Tony Costa đang vẫy gọi cô từ phía cầu tàu.

“Lại đây,” anh gọi. “Em phải đi gặp John Faa ở Zaal đi. Chạy nhanh lên, nhóc, khẩn cấp lắm rồi.”

Cô bé thấy John Faa cùng với Farder Coram và các lãnh đạo khác, vẻ mặt đầy lo âu.

John Faa nói:

“Lyra, bé con, Farder Coram đã kể với ta về việc cháu giải mã dụng cụ đó. Và ta rất tiếc phải thông báo là Jacob tội nghiệp vừa mới qua đời. Ta nghĩ rốt cuộc chúng ta sẽ phải đưa cháu đi cùng, dù điều đó trái với cách làm của ta. Tâm trí ta rối bời vì nó, nhưng xem ra không có cách giải quyết nào khác. Ngay sau khi Jacob được chôn cất xong theo đúng phong tục, chúng ta sẽ lên đường. Cháu phải hiểu ý ta, Lyra ạ: cháu sẽ đi cùng, nhưng đây không phải dịp để vui sướng hay mừng rỡ. Gian khổ và hiểm nguy đang trực chờ phía trước cả đoàn.

“Ta sẽ để cháu dưới sự bảo hộ của Farder Coram. Đừng có gây phiền phức hay nguy hiểm gì cho ông ấy đấy, nếu không cháu sẽ phải chịu đựng cơn lôi đình của ta. Giờ thì nhanh đi giải thích với Má Costa rồi chuẩn bị sẵn sàng lên đường đi.”

Hai tuần sau đó trôi qua một cách bận rộn hơn bất cứ lúc nào trong cuộc đời của Lyra. Bận rộn, nhưng không nhanh chóng, vì có những khoảng dài đằng đẵng phải chờ đợi, phải trốn trong tủ đồ ọp ẹp ẩm ướt, phải nhìn phong cảnh mùa thu ảm đạm sũng mưa đi qua cửa sổ, phải trốn tiếp, phải ngủ gần đầu máy phả hơi gas rồi tỉnh dậy với cơn đau đầu khủng khiếp, và còn tồi tệ hơn tất thảy, là không bao giờ được phép ra ngoài để chạy dọc theo bờ sông, trèo lên boong tàu, kéo cửa cống hay bắt một sợi dây neo tàu được ném ra từ mé cửa cống.

Vì hẳn nhiên là cô bé không được lộ mặt. Tony Costa kể với cô về lời bàn tán tại các quán rượu bên bờ kênh: rằng đang có một cuộc săn lùng khắp vương quốc để tìm một cô bé có mái tóc vàng, cùng với giải thưởng hậu hĩnh cho ai tìm được cô và sự trừng phạt khốc liệt cho kẻ nào dám che giấu. Ngoài ra còn có những lời đồn kì lạ nữa: người ta nói rằng cô bé là đứa trẻ duy nhất chạy thoát khỏi đám Những Kẻ háu ăn, và cô đang cất giữ những bí mật khủng khiếp. Một lời đồn khác nói rằng cô hoàn toàn không phải là một đứa trẻ loài người mà là một cặp tinh linh trong hình dạng trẻ con và linh thú, được gửi tới thế giới này bằng những thứ mãnh lực từ địa ngục để gieo rắc tai hoạ; và một lời đồn khác lại cho rằng đó không phải một đứa trẻ mà là một người hoàn toàn trưởng thành, bị ma thuật khiến cho cơ thể co bé lại và được người Tartar trả công, đến để do thám những người Anh tốt bụng, chuẩn bị dọn đường cho cuộc xâm lăng của quân Tartar.

Ban đầu Lyra lắng nghe những câu chuyện này với sự hoan hỉ, nhưng sau đó cô bé lại thấy phiền muộn. Tất cả mọi người đều ghét bỏ và sợ hãi cô! Còn cô bé thì chỉ ao ước được thoát ra khỏi cái buồng chật chội tù túng này. Cô mong mỏi được tiến lên Phương Bắc ngay lập tức, tới những vùng tuyết phủ bạt ngàn, dưới vầng Cực Quang rực rỡ. Đôi khi cô lại muốn được trở lại Học viện Jordan, bò trên các mái nhà cùng với Roger trong khi chuông của người Quản lí báo hiệu nửa tiếng trước bữa tối, với những tiếng huyên náo, xì xèo và hò hét vọng ra từ bếp… Rồi cô lại ước giá như chẳng có gì thay đổi và sẽ không bao giờ thay đổi, rằng cô có thể làm Lyra của Học viện Jordan mãi mãi.

Thứ đã lôi cô ra khỏi sự buồn bực và cáu bẳn chính là chiếc Chân Kế. Hằng ngày cô đều đọc nó, đôi khi với Farder Coram, đôi khi là tự một mình. Cô nhận ra rằng mình ngày một sẵn lòng chìm sâu hơn nữa vào trạng thái yên bình nơi những ý nghĩa biểu tượng tự động phơi bày, và những rặng núi hùng vĩ nhuộm màu nắng đó liền hiện ra trong tầm mắt.

Cô bé gắng sức giải thích cảm giác đó với Farder Coram.

“Nó gần như là nói chuyện với ai đó vậy, chỉ khác là ta không thể nghe được họ. Ta sẽ thấy mình khá là ngốc nghếch vì họ thông minh hơn ta, chỉ khác là họ không khó chịu hay gì cả… Mà họ biết rất nhiều, Farder Coram ạ! Cứ như thể họ biết tất cả mọi thứ vậy, gần như thế! Phu nhân Coulter cũng thông minh, bà ấy biết rất nhiều chuyện, nhưng đây là kiểu hiểu biết khác… Nó như là thấu hiểu vậy, cháu đoán thế…”

Ông sẽ hỏi những câu hỏi cụ thể, còn cô bé sẽ tìm câu trả lời.

“Hiện giờ Phu nhân Coulter đang làm gì?” Ông vừa hỏi là đôi tay cô lập tức chuyển động, và ông sẽ nói: “Nói cho ta nghe cháu định làm gì.”

“À, bức hình Thánh Mẫu là Phu nhân Coulter, cháu đã nghĩ đến mẹ mình khi trỏ kim vào đó; kiến là bận rộn - cái đó dễ, đấy là ý nghĩa chính; còn đồng hồ cát thì có thời gian trong chuỗi ý nghĩa của nó; mà một phần trong đó có hiện giờ, nên cháu cứ tập trung vào đó.”

“Làm thế nào cháu biết được những ý nghĩa này ở đâu?”

“Cháu đại khái là có thể thấy chúng. Hay đúng hơn là cảm nhận được chúng, giống như leo xuống thang vào buổi đêm vậy chỉ cần đặt chân xuống là thấy một thanh ngang khác. Nên cháu đặt tâm trí xuống và thấy một ý nghĩa khác, cháu đại khái là cảm nhận được ý nghĩa đó là gì. Sau đó cháu liên kết tất cả lại với nhau. Ở đây có một thủ thuật là phải tập trung ánh nhìn vào đó.”

“Vậy cháu làm đi, xem nó nói gì.”

Lyra làm theo. Kim dài lập tức xoay, rồi dừng lại, đi tiếp, lại dừng lại thành một chuỗi lướt và nghỉ đầy chuẩn xác. Nó đem lại cảm giác thanh nhã và quyền lực khiến Lyra khi trải nghiệm điều đó cảm thấy mình như một chú chim non đang tập sải cánh. Farder Coram ngồi quan sát từ phía bên kia bàn, chú tâm đến những vị trí mà cái kim dừng lại và ngắm cô gái nhỏ vén tóc lên khỏi gương mặt, khẽ cắn môi dưới, đôi mắt cô lúc đầu thì dõi theo kim xoay nhưng sau đó khi lộ trình của nó đã ổn định thì nhìn ra chỗ khác trên mặt la bàn. Việc đó không phải được làm một cách ngẫu nhiên. Farder Coram là một kì thủ cờ vua, và ông biết cái cách mà các kì thủ quan sát trận đấu đang diễn ra. Một kì thủ chuyên nghiệp dường như có thể thấy những dòng sức mạnh và ảnh hưởng trên bàn cờ, họ dõi theo những dòng quan trọng và bỏ qua những cái yếu hơn. Đôi mắt Lyra cũng di chuyển theo cách đó, dựa theo một từ trường tương tự nào đó mà cô bé có thể thấy nhưng ông thì không.

Cây kim dừng lại tại tia chớp, đứa trẻ sơ sinh, con rắn, con voi, và một sinh vật mà Lyra không biết phải dùng tên gì để gọi: một kiểu thằn lằn với đôi mắt to, đuôi quấn quanh cái cành nhỏ mà nó đang đứng trên. Nó cứ lặp đi lặp lại cái chuỗi đó trong lúc Lyra quan sát.

“Con thằn lằn đó có nghĩa gì vậy?” Farder Coram hỏi, làm gián đoạn sự tập trung của cô bé.

“Nó thật vô nghĩa… Cháu có thể thấy nó muốn nói gì, nhưng chắc là cháu đang đọc nhầm. Tia chớp cháu nghĩ là cơn giận dữ, còn đứa bé… cháu nghĩ đó là cháu… Cháu đã gần nắm được ý nghĩa của cái thứ thằn lằn đó rồi, nhưng ông lại hỏi cháu, Farder Coram ạ, nên cháu để rớt mất nó rồi. Đấy, giờ thì không hiểu nó trôi đi đâu mất rồi.”

“Ừ, ta hiểu rồi. Xin lỗi cháu, Lyra. Cháu có mệt không? Có muốn nghỉ không?”

“Không ạ,” cô đáp, nhưng đôi má cô ửng đỏ và đôi mắt sáng bừng. Cô có đủ mọi dấu hiệu của sự bực bội do quá phấn khích, và việc bị giam cầm trong căn buồng ngột ngạt này quá lâu còn khiến tâm trạng cô trở nên tồi tệ hơn.

Ông nhìn ra ngoài cửa sổ. Trời đã sẩm tối, họ đang đi dọc theo vùng nước nội địa cuối cùng trước khi ra tới bờ biển. Những khoảng rộng nổi váng màu nâu của cửa sông nối dài dưới nền trời ảm đạm tới một nhóm các thùng tinh than ở phía xa, han gỉ và bám đầy mạng nhện cùng với hệ thống ống dẫn, bên cạnh một xưởng lọc dầu nơi những cụm khói đen dày đặc miễn cưỡng dâng lên hòa vào với mây trời.

“Chúng ta đang ở đâu vậy?” Lyra hỏi. “Cháu có thể ra ngoài một tí thôi được không, Farder Coram?”

“Đây là vùng nước Colby,” ông đáp. “Cửa sông Cole. Khi tới thị trấn chúng ta sẽ neo thuyền tại Chợ Khói rồi đi bộ tới khu xưởng đóng tàu. Một hai tiếng nữa là tới nơi…”

Nhưng trời đang tối dần. Trong cảnh tiêu điều bao la của vùng sông nước, chẳng có gì chuyển động trừ con thuyền của chính họ và một sà lan chở than phía xa đang vất vả tiến về phía xưởng lọc. Lyra đỏ bừng mặt vì mệt và phấn khích, cô đã ở bên trong quá lâu; thấy vậy Farder Coram nói tiếp:

“Chà, ta nghĩ chỉ vài phút tận hưởng không khí thoáng đãng thì sẽ không có vấn đề gì. Ta không thể nói là không khí trong lành được; nó chẳng trong lành gì trừ khi thổi tới từ đại dương; nhưng cháu có thể ra ngồi trên nóc và nhìn ngắm xung quanh cho tới khi chúng ta tới gần hơn.”

Lyra nhảy dựng lên, còn Pantalaimon thì lập tức biến thành một con mòng biển, háo hức được sải cánh trên bầu trời rộng mở. Bên ngoài trời rất lạnh, nên mặc dù đã được quấn kĩ càng, Lyra vẫn không khỏi rùng mình. Pantalaimon thì ngược lại, nó lao bổ vào bầu không khí với một tiếng kêu lớn mừng rỡ. Nó chao liệng, bay là đà rồi lao vọt đi lúc thì phía trước mũi thuyền, lúc lại ở đằng sau đuôi. Lyra thấy như mình đang bay cùng với Pantalaimon và điều đó khiến cô bé cảm thấy hân hoan. Cô thầm xúi giục nó khiêu khích con linh thú chim cốc của người lái thuyền già đi bay đua với nó. Nhưng con chim kia lờ đi và ngái ngủ đậu lên tay cầm bánh lái gần ông chủ của mình.

Chẳng có sự sống nào trên vùng nước màu nâu khắc nghiệt này chỉ có tiếng nổ bình bịch đều đặn của đầu máy và tiếng ì oạp khe khẽ của nước dưới mũi tàu phá vỡ sự tĩnh lặng mênh mang. Những đám mây nặng nề sà xuống thấp nhưng không tạo mưa; không khí phía dưới đen đặc bụi khói. Chỉ riêng vẻ thanh nhã lộng lẫy của Pantalaimon là mang trong đó sự sống và niềm vui.

Khi Pantalaimon đang bay vút lên sau một cú bổ nhào với đôi cánh trắng dang rộng trên nền trời xám xịt, có thứ gì đó màu đen lao tới đập vào nó. Nó ngã nhào sang một bên, run rẩy vì sốc và đau đớn. Lyra hét lên, cảm thấy cơn đau rõ rệt. Thêm một vật nhỏ màu đen khác tới nhập bọn với cái đầu tiên; chúng cử động không giống chim mà giống những con bọ cánh cứng đang bay nặng nề và thẳng hướng, phát ra tiếng kêu vo vo.

Khi Pantalaimon rơi xuống, cố gắng vặn người để nhắm vào thuyền và đôi tay Lyra đang dang ra tuyệt vọng, những sinh vật màu đen cứ liên tục lao vào nó, kêu lên vo ve, rì rì đầy sát khí. Lyra gần như phát điên lên với nỗi sợ hãi của Pantalaimon cũng như của chính bản thân mình, nhưng rồi có thứ gì đó lướt qua cô rồi bay vút lên.

Đó là linh thú của người lái thuyền. Trái với bộ dạng vụng về và nặng nề, cái cách nó bay lại thật mạnh mẽ và nhanh nhẹn. Đầu nó táp bên này đợp bên kia - đôi cánh màu đen rung lên, có thứ gì đó màu trắng vỡ ra - rồi một vật nhỏ màu đen rơi xuống lớp mái bôi hắc ín của buồng ngủ ngay chỗ chân Lyra, đúng lúc cô bé đón được Pantalaimon.

Trước khi cô bé kịp dỗ dành con linh thú, Pantalaimon đã biến thành dạng mèo rừng và nhảy bổ xuống sinh vật kia, lôi nó lại từ mép mái khi nó đang bò thật nhanh để trốn. Pantalaimon ghìm chặt nó xuống bằng một bàn chân xoè vuốt rồi ngước nhìn bầu trời đang tối dần, nơi sải cánh đen của con chim cốc đang lượn vòng cao hơn khi nó bay quanh tìm con còn lại.

Rồi con chim cốc lao vụt trở lại, kêu lên quang quác gì đó với người lái thuyền. Ông nói: “Nó bay mất rồi. Đừng để con còn lại thoát mất. Đây…” rồi hất cặn trong chiếc cốc thiếc đang uống đi và ném nó cho Lyra.

Cô bé lập tức ụp nó lên con vật kia. Nó kêu lên o o, gừ gừ như một cỗ máy tí hon.

“Giữ chắc lấy nó,” Farder Coram nói từ phía sau cô, rồi ông cúi xuống, đẩy một tấm thẻ xuống dưới cái cốc.

“Nó là thứ gì vậy, Farder Coram?” Cô bé run rẩy hỏi.

“Chúng ta xuống dưới xem xét đi. Cầm cẩn thận nhé, Lyra. Giữ chắc lấy nó.”

Khi đi qua, cô bé liếc nhìn linh thú của người lái thuyền, định bụng cảm ơn nó, nhưng đôi mắt già cỗi của nó đang nhắm nghiền lại. Thay vào đó cô cảm ơn người lái thuyền.

“Cháu phải ở yên phía dưới đi,” là tất cả những gì ông nói.

Cô mang cái cốc vào buồng ngủ, nơi Farder Coram đã tìm được một cốc bia. Ông lật ngược cái cốc thiếc lại phía trên đó rồi rút tấm thẻ ra từ giữa hai cốc, để cho sinh vật kia rơi vào cốc bia. Ông nâng cái cốc lên để họ có thể nhìn rõ con vật bé nhỏ đầy giận dữ.

Nó dài khoảng bằng ngón tay cái của Lyra, và có màu xanh lục thẫm chứ không phải màu đen. Đôi cánh ngoài của nó dựng đứng lên, giống như một con bọ rùa đang chuẩn bị bay, còn đôi cánh phía trong đập loạn xạ, nhanh đến mức chúng chỉ còn là một vệt mờ. Sáu cái chân có vuốt của nó đang quờ quạng trên thành thủy tinh trơn trượt.

“Cái gì thế này?” Cô bé hỏi.

Pantalaimon, vẫn trong hình dạng mèo rừng, đang nép sát trên bàn cách đó hơn chục phân, đôi mắt xanh lục của nó dõi theo con vật đang quay mòng mòng trong cốc.

“Nếu đập vỡ nó ra,” Farder Coram nói; “cháu sẽ thấy rằng chẳng có sinh vật sống nào bên trong cả. Dù gì thì cũng không phải động vật hay côn trùng. Ta đã từng thấy một trong số những thứ tương tự, nhưng không bao giờ nghĩ mình sẽ lại thấy nó một lần nữa ở tít xa trên phía bắc như thế này. Chúng tới từ Phi châu. Có một bộ máy đồng hồ chạy phía trong đó, ghim chặt vào lò xo của nó là một linh hồn xấu với trái tim bị yểm bùa.”

“Nhưng ai cử nó tới vậy?”

“Cháu thậm chí còn không cần đọc những biểu tượng nữa, Lyra ạ; cháu có thể dễ dàng đoán giống như ta vậy.”

“Phu nhân Coulter?”

“Rõ ràng rồi. Bà ta không chỉ thám hiểm trên Phương Bắc, còn có rất nhiều chuyện kì quái trong những vùng hoang dã phía nam. Lần cuối ta nhìn thấy một trong những thứ này là ở Morocco. Nguy hiểm chết người; chừng nào linh hồn đó vẫn còn cư ngụ bên trong, nó sẽ không bao giờ dừng lại, còn nếu phóng thích linh hồn ra, nó sẽ trở nên hung dữ một cách tàn bạo, đến mức nó sẽ giết chết thứ đầu tiên chạm được vào.”

“Nhưng mục đích của nó là gì?”

“Do thám. Ta quả là một tên ngốc đáng nguyền rủa vì đã để cháu lên đó. Và đáng lẽ ta không nên làm phiền mà phải để cháu suy ngẫm thông suốt về các biểu tượng.”

“Giờ thì cháu hiểu rồi!” Lyra thốt lên, đột nhiên thấy phấn khích. “Nó có nghĩa là không khí, cái con thằn lằn ấy! Cháu đã thấy được điều đó, nhưng không thể hiểu tại sao, nên cháu đã cố giải thích nhưng lại bị mất phương hướng.”

“A,” Farder Coram kêu lên, “thế thì ta cũng hiểu ra rồi. Lí do là vì đấy không phải là thằn lằn; nó là một con tắc kè hoa. Nó mang nghĩa không khí vì chúng không ăn uống gì mà chỉ sống dựa vào không khí.”

“Còn con voi…”

“Phi châu,” ông nói, rồi: “Aha.”

Họ nhìn nhau. Chiếc Chân Kế càng hé lộ về quyền năng của nó bao nhiêu thì họ càng thấy kinh sợ nó bấy nhiêu.

“Nó đã nói với chúng ta những điều này suốt cả thời gian qua,” Lyra nói. “Chúng ta đáng ra phải lắng nghe. Nhưng chúng ta có thể làm gì với vật này đây, Farder Coram? Chúng ta có thể giết nó hay gì đấy không?”

“Ta không biết liệu chúng ta có thể làm gì đó không. Chúng ta chỉ cần nhốt chặt nó trong một cái hộp và không bao giờ để nó thoát ra. Thứ khiến ta lo lắng hơn là cái còn lại đã sổng mất. Lúc này nó hẳn là đang bay về với Phu nhân Coulter, với thông tin rằng đã nhìn thấy cháu. Quỷ tha ma bắt ta đi, Lyra ạ, nhưng ta đúng là đồ ngớ ngẩn.”

Ông lục trong tủ buffet và tìm thấy một hộp thiếc đựng lá thuốc có đường kính khoảng tám centimét. Nó vốn được dùng để đựng những gói thuốc nhỏ, nhưng ông đổ chỗ đó ra rồi lau phần bên trong bằng một cái giẻ trước khi úp ngược cốc bia lên trên đó với tấm thẻ vẫn được đặt trên miệng.

Sau một khoảng khắc rắc rối khi một trong những cái chân của con vật lọt được ra ngoài và đẩy cái hộp thiếc đi bằng một sức mạnh đáng kinh ngạc, họ đã nhốt được nó và vặn chặt nắp hộp xuống.

“Khi nào đến gần tàu, ta sẽ hàn mép lại cho chắc chắn,” Farder Coram nói.

“Chẳng lẽ bộ máy đồng hồ không yếu đi ạ?”

“Bộ máy thông thường thì có. Nhưng như ta đã nói, nó bị trói buộc bởi một linh hồn cho tới tận giây phút cuối cùng. Nó càng vùng vẫy thì sự ràng buộc càng chắc và sức ảnh hưởng càng trở nên mạnh mẽ. Giờ thì dẹp anh chàng này sang một bên thôi…”

Ông bọc chiếc hộp thiếc trong một tấm vải flanen để bịt bớt tiếng ù ù vo vo không ngớt, rồi xếp gọn nó xuống dưới giường của mình.

Lúc này trời đã tối hẳn, Lyra nhìn qua cửa sổ trong lúc ánh sáng từ Colby tiến lại gần. Không khí nặng nề đặc quánh lại thành dạng sương mù. Vào lúc họ neo thuyền tại khu bến tàu dọc theo Chợ Khói, mọi thứ trong tầm mắt đã dịu bớt và mờ đi. Bóng tối chuyển sắc thành những bức màn xám bạc điểm màu ngọc trai phủ xuống các kho hàng và cần trục, những quầy hàng chợ bằng gỗ và tòa nhà bằng đá granit có rất nhiều ống khói mà khu chợ lấy tên theo, nơi cả ngày lẫn đêm cá được ướp muối và hun trong làn khói gỗ sồi thơm phức. Các ống khói đang góp phần làm bầu không khí ẩm ướt càng trở nên đặc sệt, thứ mùi dễ chịu của cá trích, cá thu và cá tuyết hun khói dường như bốc ra từ từng viên sỏi đường.

Lyra quấn mình trong lớp vải dầu với chiếc mũ trùm lớn che đi mái tóc nổi bật, bước đi giữa Farder Coram và người lái thuyền. Cả ba con linh thú đều cảnh giác cao độ, thám thính xung quanh các góc phố phía trước, quan sát phía sau, lắng nghe tiếng bước chân dù là nhỏ nhất.

Nhưng họ là những bóng người duy nhất trong tầm ngắm. Các công dân của Colby đều ở trong nhà, có lẽ đang nhấm nháp rượu jenniver bên cạnh các bếp lò reo vang. Họ không thấy ai cho tới khi đến được xưởng đóng tàu, và người đầu tiên họ thấy ở đó là Tony Costa đang canh gác các cánh cổng.

“May quá, mọi người đến rồi,” anh khẽ nói trong lúc để họ đi qua. “Chúng tôi vừa được tin là Jack Verhoeven bị bắn và thuyền của ông ấy đã chìm, mà chẳng có ai biết các vị ở đâu cả. John Faa đã lên thuyền và đang nóng lòng muốn xuất phát.”

Đối với Lyra, con tàu trông thật vĩ đại: một phòng lái và ống khói ở giữa tàu, sàn boong cao ở mũi tàu và cần trục lớn phía trên cửa sập được che vải bạt; ánh sáng vàng lập loè trong các lỗ cửa sổ và phòng chỉ huy, còn ánh sáng trắng phát ra từ đỉnh cột buồm; trên boong, ba hay bốn người đàn ông đang hối hả làm việc gì đó mà cô bé không nhìn thấy được.

Cô bé vội vàng leo lên chiếc cầu lên tàu bằng gỗ phía trước Farder Coram, vừa đi vừa hào hứng nhìn xung quanh. Pantalaimon biến thành một con khỉ rồi lập tức leo lên cần trục, nhưng lại bị cô chủ gọi xuống; Farder Coram muốn chúng vào trong, hay như cách người ta nói trên tàu là xuống dưới.

Bên dưới vài tầng cầu thang là một phòng khách nhỏ nơi John Faa đang trao đổi khẽ khàng với Nicholas Rokeby, người du mục phụ trách con tàu này. John Faa không làm gì hấp tấp cả. Lyra đợi ông chào đón mình, nhưng trước khi quay ra phía những người vừa vào, ông phải nhận xét xong về thủy triều và công việc hoa tiêu cái đã.

“Chào buổi tối, các bạn,” ông nói. “Thật tiếc cho cái chết của Jack Verhoeven, có lẽ mọi người đã nghe kể. Người của ông ấy còn bị bắt giữ nữa.”

“Chúng tôi cũng có tin xấu,” Farder Coram nói rồi kể lại với họ cuộc chạm trán với những linh hồn biết bay.

John Faa lắc cái đầu đồ sộ của mình, nhưng không trách mắng họ.

“Sinh vật đó giờ ở đâu rồi?” Ông hỏi.

Farder Coram lấy ra chiếc hộp thiếc đựng lá thuốc rồi đặt nó lên bàn. Tiếng vo vo phát ra từ đó mạnh tới mức khiến cái hộp tự di chuyển chậm chạp trên mặt gỗ.

“Tôi đã từng nghe nói về lũ ác quỷ ngụ trong bộ máy đồng hồ, nhưng chưa từng thấy cái nào cả,” John Faa nói. “Tôi chỉ biết là chẳng có cách nào thuần hóa hay đưa nó về trạng thái cũ được. Kể cả có bọc chì thật nặng rồi thả xuống biển cũng vô ích, vì một ngày nào đó nó sẽ bị gỉ, con quỷ sẽ lại thoát ra và nhắm tới cô bé kể cả nó có ở đâu đi nữa. Không, chúng ta sẽ phải giữ nó bên cạnh và rèn luyện sức cảnh giác của bản thân.”

Là phái nữ duy nhất trên tàu (vì John Faa quyết định không tuyển phụ nữ sau khi đã suy tính kĩ càng), Lyra có cả một phòng riêng cho bản thân. Hẳn nhiên không phải là một phòng ngủ lớn; thật ra nó chỉ lớn hơn phòng kho một tí, có giường và lỗ thông trên thành tàu - đó mới là tên chính xác của lỗ cửa sổ. Cô bé cất số hành lí ít ỏi của mình vào ngăn kéo phía dưới giường ngủ rồi hăm hở chạy lên dựa vào lan can để ngắm nhìn nước Anh khuất dần phía sau, nhưng cô nhận thấy rằng phần lớn nước Anh đã biến mất sau màn sương trước cả khi cô tới được đó.

Nhưng chỉ riêng tiếng nước ì oạp phía dưới, sự chuyển động của không khí, ánh đèn của tàu bất chấp màn đêm mà tỏa sáng rực rỡ, tiếng ì ì của máy chạy, mùi muối, cá và tinh than, cũng đủ gây kích thích lắm rồi. Chẳng bao lâu sau một cảm giác khác cùng hòa vào khi con tàu vĩ đại bắt đầu tròng trành trong sóng cồn Biển Đức. Khi có ai đó gọi Lyra xuống ăn nhẹ, cô nhận ra mình không đói như đã nghĩ. Cô lập tức quyết định rằng nằm xuống nghỉ là một ý tốt để giúp Pantalaimon, vì đáng buồn là con vật tội nghiệp đang thấy khó chịu.

Và như vậy hành trình về Phương Bắc của Lyra bắt đầu.