- 8 - -Sự thất vọng
Lyra phải làm quen với cảm nhận mới của bản thân về câu chuyện của chính mình, mà việc đó thì không thể làm được trong ngày một ngày hai. Nhìn nhận Ngài Asriel là cha mình là một chuyện, nhưng để chấp nhận Phu nhân Coulter là mẹ mình thì không hề dễ dàng chút nào. Nếu là vài tháng trước thì cô hẳn đã rất vui mừng, và cô biết điều đó nên càng cảm thấy bối rối.
Nhưng với bản tính của mình, Lyra không bị việc đó làm phiền muộn quá lâu, vì còn có thị trấn Fen để khám phá và rất nhiều trẻ con du mục để làm kinh ngạc. Trước khi đến hạn ba ngày, cô đã sử dụng thành thạo thuyền thúng (ít nhất trong mắt cô là như thế), cô còn tụ tập được một đám trẻ lang thang xung quanh mình để kể chuyện về người cha vĩ đại đang bị bắt giữ một cách bất công.
“Và rồi vào một buổi tối, Đại sứ Turk đến làm khách trong bữa tối ở Jordan. Ông ta đã nhận lệnh từ chính Vua Turk phải giết cha tớ, phải, nên ông ta đã chuẩn bị một chiếc nhẫn đính đá rỗng chứa đầy độc tố. Khi rượu được chuyền đến, ông ta làm ra vẻ với qua cốc của cha tớ, rồi vẩy độc vào trong. Việc đó được thực hiện nhanh đến mức không ai khác nhìn thấy ông ta, nhưng…”
“Độc kiểu gì cơ?” Một cô bé mặt mũi gầy gò gặng hỏi.
“Độc chiết từ một loài rắn Turk đặc biệt,” Lyra bịa ra, “người ta bắt nó bằng cách chơi sáo để dụ nó ra rồi ném một miếng xốp tẩm đầy mật ong, con rắn sẽ cắn vào đó và không gỡ được răng ra nữa. Sau đó họ bắt lấy nó và chiết lấy chất độc của nó. Nói chung là, cha tớ đã nhìn thấy việc làm của tên người Turk, ông ấy nói: Các quý ngài, tôi muốn đề xuất nâng cốc chúc mừng tình hữu nghị giữa Học viện Jordan và Học viện Izmir, nơi Đại sứ Turk thuộc về. Và để thể hiện sự sẵn sàng kết bạn, ông nói, hãy trao đổi cốc và uống rượu của nhau.
“Vậy là tên Đại sứ bị dồn vào thế tiến thoái lưỡng nan, vì hắn không thể từ chối uống mà không biến nó thành một sự sỉ nhục nghiêm trọng, mà hắn cũng chẳng thể uống được vì biết nó có độc. Hắn ta tái nhợt đi rồi lăn ra ngất ngay trên bàn. Khi hắn tỉnh lại, tất cả mọi người vẫn đang ngồi đó, nhìn hắn chờ đợi. Vậy là hắn sẽ phải uống chất độc hoặc thú nhận.”
“Vậy hắn đã làm gì?”
“Hắn uống nó. Phải mất năm phút hắn mới chết, và suốt thời gian đó hắn bị giày vò đau đớn.”
“Cậu chứng kiến nó xảy ra à?”
“Không, vì con gái không được phép ngồi ở bàn trên. Nhưng sau đó tớ đã thấy xác của hắn khi người ta đưa đi. Da hắn héo quắt như một quả táo già, còn mắt thì lồi ra khỏi đầu. Thật ra người ta đã phải nhét chúng lại vào hốc mắt…”
Và mọi chuyện cứ thế tiếp diễn.
Trong lúc đó, bên rìa của xứ Fen, cảnh sát đang gõ cửa các nhà, lục soát gác xép và nhà phụ, kiểm tra giấy tờ và chất vấn tất cả những người tự nhận là đã thấy một bé gái tóc vàng; ở Oxford việc tìm kiếm còn diễn ra ác liệt hơn. Học viện Jordan bị càn quét từ phòng kho bụi bặm nhất đến trần nhà tối tăm nhất, cả Học viện Gabriel và Thánh Michael cũng chung số phận, cho đến khi lãnh đạo các học viện cùng bắt tay khởi phát một cuộc chống đối đòi quyền lợi xa xưa của họ. Khái niệm duy nhất Lyra có về cuộc tìm kiếm cô là tiếng kêu o o không dứt của những động cơ khí cầu chạy gas bay chằng chịt trên trời. Không ai thấy được chúng, vì mây quá thấp và theo luật, khí cầu phải giữ một độ cao nhất định phía trên xứ Fen, nhưng ai mà biết được chúng có thể mang theo thứ thiết bị do thám xảo quyệt nào chứ? Tốt nhất là nên trốn đi khi nghe thấy tiếng chúng, hoặc đội chiếc mũ đi mưa bằng vải dầu lên che mái tóc sáng màu nổi bật của cô.
Lyra hỏi Má Costa mọi chi tiết về lúc cô sinh ra. Cô đan kết những chi tiết đó vào tấm thảm thêu tưởng tượng thậm chí còn rõ ràng và sắc nét hơn những câu chuyện cô dựng lên, và liên tục tái hiện lại cuộc tẩu thoát khỏi căn nhà nhỏ, sự ẩn náu trong tủ đồ, tiếng hét thách đấu chói tai, tiếng kiếm va vào nhau chan chát…
“Kiếm á? Chúa ơi, nhóc, cháu đang mơ à?” Má Costa nói. “Ông Coulter có súng, Ngài Asriel đã đánh bật nó ra khỏi tay ông ta và hạ gục ông ta chỉ bằng một cú đấm. Sau đó hai phát súng vang lên. Ta nghĩ chắc cháu không nhớ; cũng phải, cháu còn nhỏ quá mà. Phát đầu tiên là khi Edward Coulter với được súng của ông ta và bắn, còn phát thứ hai là khi Ngài Asriel giật nó ra khỏi tay ông ta lần thứ hai và chĩa nó vào ông ta. Bắn ông ta vỡ óc ngay giữa hai mắt. Rồi ông ấy nói, thản nhiên như không: ‘Ra đi, bà Costa, mang theo đứa trẻ nữa,’ vì cả cháu lẫn con linh thú đó đều đang gào tướng lên. Ông ấy bồng cháu lên nựng rồi đặt cháu ngồi lên vai, vui vẻ đi lên đi xuống mặc cho gã đàn ông đã chết nằm dưới chân, sau đó ông ấy gọi rượu và sai ta đi lau sàn.”
Sau lần thứ tư câu chuyện được nhắc lại thì Lyra đã hoàn toàn bị thuyết phục rằng cô thật ra có nhớ sự việc đó, cô thậm chí còn tình nguyện thêm chi tiết màu áo khoác của ông Coulter, của những bộ áo choàng và áo lông treo trong tủ đồ. Má Costa cười lớn.
Cứ khi nào ở một mình, Lyra lại lấy chiếc Chân Kế ra và ngắm nghía nó như ngắm ảnh người yêu. Vậy mỗi bức hình đều mang vài ý nghĩa, phải không nào? Sao cô lại không tìm hiểu thử nhỉ? Chẳng phải cô là con gái Ngài Asriel sao?
Vừa nhớ lại những điều Farder Coram nói, cô vừa cố gắng tập trung trí óc lên ba biểu tượng được chọn ngẫu nhiên, rồi xoay các kim để chỉ vào chúng. Cô nhận ra rằng nếu giữ chiếc Chân Kế một cách cẩn thận trong lòng bàn tay và chăm chú nhìn nó theo một kiểu lười biếng đặc biệt trong lúc nghĩ về nó, kim dài sẽ bắt đầu di chuyển có chủ định hơn. Thay vì quay loanh quanh một cách bất thường, nó nhẹ nhàng xoay từ bức hình này sang bức hình khác. Đôi khi cái kim sẽ dừng tại ba bức, có khi là hai, năm hoặc nhiều hơn thế, và mặc dù chẳng hiểu chút gì, cô bé cảm thấy khoan khoái dễ chịu từ việc làm đó, hoàn toàn khác với những điều cô từng biết. Pantalaimon sẽ cúi xuống nhìn chiếc máy, đôi khi trong dạng một chú mèo, có khi lại là một con chuột, lắc lư cái đầu theo chuyển động của kim; một hay hai lần gì đó hai đứa cùng thoáng cảm nhận được ẩn ý của chiếc máy, giống như một tia sáng rẽ mây chiếu rực một dải đồi rộng lớn tráng lệ ở phía xa - một thứ gì đó thật xa xôi, không bao giờ hoài nghi. Cứ mỗi lần như thế, Lyra lại thấy xúc động sâu sắc giống như mỗi lần nghe thấy từ Phương Bắc trong suốt cuộc đời mình.
Vậy là ba ngày trôi qua với rất nhiều đợt viếng thăm và ra về giữa vô vàn tàu thuyền và Zaal. Rồi thì buổi tối diễn ra buổi Roping thứ hai cũng tới. Hội trường thậm chí còn đông người hơn lần trước, nếu điều đó có thể xảy ra. Lyra và nhà Costa đã đến kịp lúc để ngồi được ở phía trước. Khi ánh sáng lập lòa cho thấy căn phòng đã chật kín, John Faa và Farder Coram liền bước lên bục diễn thuyết rồi ngồi xuống phía sau bàn. John Faa không cần phải ra hiệu trật tự; ông chỉ cần đặt đôi bàn tay đồ sộ lên bàn và nhìn xuống những người bên dưới là tiếng huyên náo lập tức lặng xuống.
“Chà,” ông nói, “các vị đã thực hiện những điều tôi dặn. Thậm chí còn tốt hơn tôi mong đợi. Tôi sẽ gọi lãnh đạo các gia tộc lên đây để giao vàng và thuật lại những lời hứa của họ. Nicholas Rokeby, mời ông lên trước.”
Một người đàn ông râu đen cường tráng trèo lên bục diễn thuyết và đặt một chiếc túi da nặng chịch lên bàn.
“Đây là vàng của chúng tôi,” ông nói. “Ngoài ra chúng tôi xin cung cấp ba mươi tám người.”
“Cảm ơn ông, Nicholas,” John Faa nói trong khi Farder Coram ghi chép lại. Người đầu tiên ngồi lại phía sau bục diễn thuyết khi John Faa gọi tới người kế tiếp, và cứ như thế, mỗi người đi lên lại đặt một chiếc túi lên bàn rồi thông báo số lượng người ông ta có thể thu thập được. Nhà Costa thuộc gia tộc Stefanski, và lẽ dĩ nhiên Tony là một trong những người đầu tiên tình nguyện. Lyra để ý thấy linh thú diều hâu của anh cứ bồn chồn đổi hết chân này sang chân kia rồi dang cánh ra khi tiền và lời hứa cử hai mươi ba người của gia tộc Stefanski được đặt ra trước John Faa.
Khi lãnh đạo của cả sáu gia tộc đều đã lên, Farder Coram đưa mảnh giấy của ông cho John Faa, người vừa đứng dậy để phát biểu trước quần chúng nhân dân.
“Các bạn, vậy là chúng ta đã thu thập được một trăm bảy mươi người. Tôi tự hào cảm ơn tất cả mọi người. Còn về số vàng, chỉ nhìn cân nặng của chúng là tôi biết chắc các bạn đều đã vét hết ngân khố, và tôi xin gửi lời cảm tạ nồng nhiệt đến cả điều đó nữa.
“Còn đây là điều chúng ta sẽ làm tiếp theo. Chúng ta sẽ thuê một chiếc tàu và tiến về Phương Bắc, tìm bọn trẻ rồi trả tự do cho chúng. Theo như chúng tôi được biết thì có lẽ chúng ta sẽ phải chiến đấu. Đây không phải là lần đầu tiên, cũng sẽ không phải là lần cuối cùng, nhưng chúng ta chưa bao giờ phải chiến đấu với những kẻ bắt cóc trẻ con, chúng ta sẽ phải mưu mẹo hơn bao giờ hết. Nhưng chúng ta sẽ không quay về mà không có đám trẻ. Vâng, Dirk Vries?”’
Một người đàn ông đứng dậy và nói: “Ngài Faa, ông có biết tại sao chúng bắt cóc trẻ con không?”
“Chúng tôi nghe nói rằng đó là một vấn đề có liên quan tới thần học. Người ta đang thực hiện một cuộc thí nghiệm, nhưng bản chất nó là gì thì chúng tôi không biết. Xin nói thật là chúng tôi thậm chí còn không biết thí nghiệm đó có gây tổn hại gì đến cho đám trẻ không. Nhưng dù nó là gì, tốt hay xấu, thì chúng cũng không có quyền lén lút trong đêm tối cướp đi trẻ nhỏ khỏi trái tim của gia đình chúng. Vâng, Raymond van Gerrit?”
Người đàn ông đã phát biểu tại cuộc họp đầu tiên đứng dậy nói: “Đứa trẻ đó, thưa Ngài Faa, đứa mà ông nói rằng đang bị săn lùng, đứa trẻ lúc này đang ngồi ở hàng trên cùng. Tôi nghe đồn rằng tất cả cư dân sống quanh rìa vùng Fen đều đang bị lục soát tung nhà vì nó. Tôi còn nghe rằng đúng vào hôm nay, Nghị viện có động thái bãi bỏ những đặc quyền xa xưa của chúng ta cũng vì đứa trẻ này. Phải, các bạn ạ,” ông nói át những tiếng thì thầm hoảng hốt, “người ta đang định ra một đạo luật chấm dứt quyền di chuyển tự do ra vào vùng Fen của chúng ta. Vậy, Ngài Faa, đây là điều chúng tôi muốn biết: đứa trẻ này là ai mà chúng ta lại phải vì nó mà chịu đựng điều này? Nó đâu phải con dân du mục, theo như tôi biết thì không. Sao lại để một đứa trẻ đất liền khiến chúng ta lâm vào tình thế hiểm nguy?”
Lyra ngước nhìn khung người đồ sộ của John Faa. Tim cô bé đang đập thình thịch, mạnh đến mức cô gần như không thể nghe nổi những từ đầu tiên trong câu trả lời của ông.
“Hãy nói rõ xem nào, Raymond, đừng ngại,” ông đáp. “Ông muốn chúng ta giao nộp đứa trẻ này cho những kẻ mà cô bé đang chạy trốn khỏi, có phải không?”
Người đàn ông đứng đó ngoan cố cau mày nhưng không nói gì.
“Được rồi, có thể anh muốn thế, mà cũng có thể không phải,” John Faa nói tiếp. “Nhưng nếu có bất cứ người đàn ông hay phụ nữ nào cần một lí do để làm điều tốt, thì hãy cân nhắc việc này. Cô bé đó không ai khác chính là con gái của Ngài Asriel. Với những ai đã quên thì tôi xin nhắc lại rằng chính Ngài Asriel đã làm trung gian hòa giải với người Turk để cứu mạng sống của Sam Broekman. Chính Ngài Asriel đã cho phép thuyền du mục đi lại tự do trên những con kênh xuyên qua đất đai của mình. Chính Ngài Asriel đã đánh bại phe Dự luật Dòng chảy tại Nghị viện, dành lại lợi ích to lớn và lâu dài cho chúng ta. Và cũng chính Ngài Asriel là người đã ngày đêm chiến đấu trong nạn lụt của năm ’53, không chần chừ lao vào dòng nước hai lần liền để kéo các cậu bé Ruud và Nellie Koopman ra. Mọi người đã quên rồi sao? Thật hổ thẹn, thật đáng hổ thẹn cho các bạn.
“Và giờ cũng chính Ngài Asriel đó đang bị giam giữ trong những vùng xa nhất, lạnh nhất, tối tăm nhất giữa hoang vu, trong pháo đài của Svalbard. Tôi có cần phải nói với các bạn thứ sinh vật đang canh gác ông ấy ở đó không? Vậy mà khi cô con gái nhỏ của ông ấy ở đây để chúng ta chăm sóc thì Raymond van Gerrit lại muốn giao nộp cô bé cho chính quyền để đổi lấy chút bình yên và tĩnh lặng. Phải vậy không, Raymond? Đứng dậy và trả lời đi, ông bạn.”
Nhưng Raymond van Gerrit đã ngồi sụp xuống ghế, và không gì có thể khiến ông đứng lên nữa. Một tiếng huýt sáo phản đối khẽ vang vọng qua hội trường rộng lớn. Lyra cảm nhận được nỗi hổ thẹn mà ông hẳn đang cảm thấy, cùng với một cảm giác nóng rực lên từ sâu bên trong vì tự hào về người cha dũng cảm của mình.
John Faa quay đi, nhìn về phía những người còn lại trên bục diễn thuyết.
“Nicholas Rokeby, tôi giao cho ông trọng trách tìm một chiếc tàu lớn và điều khiển nó khi chúng ta ra khơi. Adam Stefanski, tôi muốn ông phụ trách binh khí đạn dược và chỉ huy chiến đấu. Roger van Poppel, ông lưu ý đến tất cả các hàng dự trữ khác, từ lương thực cho đến quần áo rét. Simon Hartmann, ông sẽ là thủ quỹ, có nhiệm vụ ghi chép kĩ lưỡng cho tất cả chúng ta về việc phân phối vàng. Benjamin de Ruyter, tôi muốn ông đảm nhiệm việc do thám. Sẽ có rất nhiều thứ chúng ta cần phải tìm hiểu, và tôi giao cho ông nhiệm vụ đó, hãy báo cáo lại với Farder Coram. Michael Canzona, ông sẽ chịu trách nhiệm tổ chức công việc cho bốn lãnh đạo đầu tiên và báo cáo lại cho tôi. Nếu tôi chết, ông là phó thủ lĩnh và sẽ thay tôi lãnh đạo mọi việc.
“Vậy là tôi đã thực hiện việc bố trí theo phong tục của chúng ta. Nếu có bất cứ đàn ông hay phụ nữ nào muốn phản đối thì xin cứ tự nhiên.”
Một lúc sau một người phụ nữ đứng dậy.
“Ngài Faa, ông không định đưa bất cứ phụ nữ nào theo chuyến thám hiểm này để chăm sóc bọn trẻ sau khi đã tìm thấy chúng sao?”
“Không, Nell ạ. Trong tình hình này chúng ta sẽ có rất ít không gian. Bất cứ đứa trẻ nào chúng ta cứu thoát sẽ được chăm sóc tốt hơn là tại nơi chúng đang ở.”
“Nhưng giả sử ông nhận ra rằng các ông không thể cứu chúng nếu không có vài phụ nữ cải trang làm lính hay y tá hay gì đó thì sao?”
“À, tôi chưa hề nghĩ về việc đó,” John Faa thừa nhận. “Chúng tôi sẽ cân nhắc điều đó thật cẩn thận sau khi vào phòng hội đàm, tôi xin hứa với bà.”
Bà ta ngồi xuống và một người đàn ông đứng dậy.
“Ngài Faa, tôi nghe ông nói rằng Ngài Asriel đang bị bắt giữ. Có phải một phần kế hoạch của ông là giải cứu ông ấy không? Bởi vì nếu như vậy, nếu ông ấy đang nằm trong tay lũ gấu như tôi nghĩ ông đã nói, thì việc đó sẽ cần nhiều hơn một trăm bảy mươi người. Mà Ngài Asriel lại là một người bạn tốt đến như vậy với chúng ta, tôi không biết liệu có lời kêu gọi nào đáng hưởng ứng hơn thế này không.”
“Adriaan Braks, ông nói không sai. Điều tôi đang dự tính làm là để mắt và nghe ngóng xem liệu có thể lượm lặt được chút thông tin gì khi đang ở trên Phương Bắc hay không. Có thể chúng ta sẽ làm được gì đó giúp cho ông ấy, mà cũng có thể là không, nhưng các bạn có thể tin rằng tôi sẽ không dùng những gì các bạn cung cấp, người và vàng, cho bất cứ mục đích nào ngoài việc tìm kiếm bọn trẻ của chúng ta và đưa chúng về nhà như đã nói.”
Một người phụ nữ khác đứng dậy.
“Ngài Faa, chúng tôi không biết cái lũ Những Kẻ háu ăn có thể đã làm gì với con cái của chúng tôi. Chúng tôi đã nghe được các câu chuyện và lời đồn về những thứ khủng khiếp. Chúng tôi nghe về những đứa trẻ không đầu, hay về tụi nhỏ bị chặt làm đôi rồi khâu lại, hoặc về các thứ quá kinh khủng để có thể nhắc tới. Tôi thành thật xin lỗi nếu khiến ai đó lo lắng, nhưng tất cả chúng tôi đều nghe được về sự việc như thế, nên tôi muốn làm rõ. Vậy trong trường hợp ngài tìm thấy bất cứ thứ gì khủng khiếp như thế, thưa Ngài Faa, tôi hi vọng ngài sẽ cực lực trả thù. Tôi hi vọng ngài sẽ không để những suy nghĩ của lòng từ bi và sự hòa nhã ngăn cản mình xuống tay thật mạnh mẽ, táng thật lực vào tâm điểm cái địa ngục thâm hiểm đó. Tôi tin chắc rằng mình đang đại diện cho bất cứ người mẹ nào đã mất con cho Những Kẻ háu ăn kia.”
Tiếng rì rầm tán thành rộ lên khi bà ngồi xuống. Những cái gật đầu hưởng ứng khắp hội trường Zaal.
John Faa đợi cho gian phòng im lặng trở lại rồi nói:
“Không gì ngăn cản được tôi đâu, Margaret ạ, có chăng chỉ là sự phán đoán. Nếu tôi có ngưng tay ở Phương Bắc thì cũng chỉ là để đánh mạnh hơn ở Phương Nam. Tấn công quá sớm một ngày cũng tệ hại chẳng kém đánh từ cách xa cả trăm dặm. Quả thật đằng sau những lời bà nói là một nhiệt huyết sôi sục. Nhưng các bạn của tôi, nếu để cho thứ nhiệt huyết đó lấn át thì các bạn đang làm điều mà tôi luôn cảnh báo phải tránh: các bạn đang đặt sự thỏa mãn cảm xúc riêng lên trên công việc phải hoàn thành. Công việc của chúng ta ở đây đầu tiên là giải cứu, sau mới đến trừng trị. Nó không phải là để xoa dịu cảm giác bứt rứt. Cảm xúc của chúng ta không quan trọng. Nếu cứu được bọn trẻ nhưng không trừng phạt được Những Kẻ háu ăn, chúng ta cũng đã hoàn thành được nhiệm vụ chính. Nhưng nếu chỉ chăm chăm đi trừng trị Những Kẻ háu ăn trước mà vì thế đánh mất cơ hội giải cứu bọn trẻ thì chúng ta thất bại hoàn toàn.
“Nhưng hãy an tâm về việc này Margaret ạ. Khi thời khắc trừng phạt tới, ta sẽ đánh mạnh đến mức khiến chúng hồn bay phách lạc. Ta sẽ đập tan sức lực ra khỏi chúng. Ta sẽ để mặc chúng tàn lụi và hao mòn, tuyệt vọng và tan vỡ, bị xé nát bươm thành ngàn mảnh và tung lên cho bốn ngọn gió cuốn đi. Búa của chính tôi cũng đang khát máu đây các bạn ạ. Nó chưa được thưởng máu kể từ khi tôi giết tên chiến sĩ người Tartar trên thảo nguyên Kazakhstan, nó đang treo mình trong thuyền của tôi và mơ mộng; nhưng nó có thể ngửi thấy mùi máu tanh trong ngọn gió tới từ Phương Bắc. Đêm qua nó nói chuyện với tôi và kể về cơn khát của mình, và tôi đáp, sẽ sớm thôi, bé yêu, sớm thôi. Margaret, bà có thể lo lắng về trăm ngàn thứ, nhưng đừng có lo trái tim John Faa quá mềm mỏng để có thể táng một cú trời giáng khi thời khắc điểm. Thời khắc đó sẽ đến qua sự phán đoán. Không phải qua nhiệt huyết.
“Có còn ai muốn phát biểu nữa không? Hãy nói cho thỏa đi.”
Nhưng không ai nói gì nữa. Chẳng mấy chốc John Faa đã với lấy chiếc chuông báo kết thúc rồi rung nó thật mạnh, giơ nó lên cao và lắc từng hồi vang vọng khắp khán phòng và rung động lên tận mái nhà.
John Faa cùng những người khác rời khỏi bục diễn thuyết để lui về phòng hội đàm. Lyra cảm thấy hơi thất vọng. Chẳng lẽ họ không muốn cô bé cũng có mặt ở đó sao? Tony cười vang.
“Họ có kế hoạch cần phải lập,” anh nói. “Em xong phần của mình rồi, Lyra ạ. Bây giờ đến lượt John Faa và hội đồng.”
“Nhưng em đã làm được gì đâu!” Lyra phản đối trong lúc miễn cưỡng theo những người khác ra khỏi Hội trường, xuống con đường rải sỏi về phía cầu tàu. “Em mới chỉ làm được mỗi việc chạy thoát khỏi Phu nhân Coulter! Đó mới chỉ là khởi đầu. Em muốn lên Phương Bắc!”
“Nghe này,” Tony nói, “anh sẽ mang về cho em một cái răng của con moóc, đó là việc anh sẽ làm.”
Lyra quắc mắt giận dữ. Về phần mình, Pantalaimon đang bận rộn với việc làm mặt khỉ với linh thú của Tony, trong khi nó thì nhắm nghiền đôi mắt màu hung lại, vẻ đầy khinh miệt. Lyra lờ đờ tiến về phía đê và lang thang với những người bạn mới của mình, lắc lư chuỗi đèn lồng trên mặt nước đen ngòm để thu hút đám cá mắt lồi đang chậm rãi bơi đến. Chúng phóng những chiếc que sắc nhọn về phía đám cá nhưng không phát nào trúng.
Nhưng tâm trí của Lyra vẫn ở chỗ John Faa và phòng hội đàm. Chẳng bao lâu sau, cô đã lủi đi, trèo lên con đường rải sỏi tới Zaal. Có ánh sáng phát ra từ cửa sổ phòng hội đàm. Nó quá cao để có thể nhìn qua, nhưng cô có thể nghe thấy tiếng nói lầm rầm bên trong.
Cô bé bước lên tới cửa và dõng dạc gõ lên đó năm lần. Những tiếng nói ngừng lại, một chiếc ghế được kéo trên sàn, và rồi cánh cửa mở ra, để tràn thứ ánh sáng ấm áp của đèn dầu lên bậc thang ẩm ướt.
“Vâng?” Người đàn ông vừa mở cửa nói.
Phía sau ông ta Lyra có thể thấy những người khác đang ngồi xung quanh bàn, trên đó là những túi vàng được chồng lên gọn gàng, giấy bút, kính mắt và một bình sành đựng rượu jenniver.
“Cháu muốn lên Phương Bắc,” Lyra nói đủ lớn để tất cả bọn họ đều nghe được. “Cháu muốn đi giúp giải thoát trẻ con. Đó là mục đích của cháu khi chạy trốn khỏi Phu nhân Coulter. Thậm chí cả trước đó cháu đã muốn giải cứu bạn cháu, cậu bé phụ bếp Roger ở trường Jordan. Cháu muốn đi giúp mọi người. Cháu có thể điều hướng và có thể giải mã mạch từ trường của Cực Quang, cháu còn biết phần nào của gấu ăn được, và rất nhiều thứ hữu ích khác nữa. Các ngài sẽ hối hận khi lên tới đó mới phát hiện ra các ngài cần cháu nhưng đã để cháu ở lại mất rồi. Hơn nữa, cũng như người phụ nữ đó đã nói, các ngài có thể sẽ cần một phụ nữ để phụ việc - có khi cần cả trẻ con nữa. Ai mà biết được chứ. Nên các ngài phải đưa cháu đi cùng. Ngài Faa, xin thứ lỗi vì đã làm gián đoạn cuộc nói chuyện của các ngài.”
Lúc này cô bé đã vào hẳn trong phòng. Tất cả mọi người và linh thú của họ đều đang dồn ánh mắt về phía cô, vài người tỏ ra thích thú còn có người lại thấy bực dọc, nhưng cô bé chỉ để mắt đến mình John Faa. Pantalaimon ngồi trên vòng tay cô, đôi mắt mèo rừng của nó lóe lên ánh xanh.
John Faa nói: “Lyra, chẳng có lí do gì lại phải đưa cháu vào vùng nguy hiểm cả, nên đừng tự lừa dối chính mình nữa, cô nhóc. Hãy ở lại đây giúp Má Costa và giữ an toàn đi. Đó là nhiệm vụ của cháu.”
“Nhưng cháu cũng đang học cả cách đọc Chân Kế nữa. Nó ngày càng trở nên rõ ràng hơn rồi! Các ngài nhất định sẽ cần đến nó - nhất định đấy!”
John Faa lắc đầu.
“Không,” ông đáp. “Ta biết cháu đã dồn hết tâm lực vào việc tiến về Phương Bắc, nhưng ta tin là kể cả Phu nhân Coulter cũng sẽ không đưa cháu đi. Nếu muốn nhìn thấy vùng đất đó, cháu sẽ phải chờ đến khi tất cả những rắc rối này trôi qua. Giờ thì đi đi.”
Pantalaimon kẽ rít lên, nhưng linh thú của John Faa đã vọt lên từ sau lưng ghế ông ngồi và dang đôi cánh đen xì bay về phía chúng, không phải để hăm dọa mà như một lời nhắc nhở phải giữ đúng phép tắc; Lyra quay gót bỏ đi khi con quạ sượt qua đầu cô bé rồi lượn vòng trở lại chỗ John Faa. Cánh cửa đóng lại phía sau cô với một tiếng cách đầy dứt khoát.
“Chúng ta sẽ đi,” cô bé nói với Pantalaimon. “Cứ để họ thử ngăn chúng ta xem. Chúng ta vẫn sẽ đi!”