← Quay lại trang sách

- 11 - Bộ giáp

Khi họ trở lại tàu, Farder Coram, John Faa và các lãnh đạo khác dành thời gian dài hội đàm trong phòng khách, còn Lyra thì về buồng ngủ của mình để tham khảo ý kiến chiếc Chân Kế. Chỉ trong vòng năm phút, cô bé đã biết được chính xác nơi cất giữ bộ giáp của con gấu, và lí do vì sao việc lấy lại nó lại khó khăn.

Cô bé tự hỏi không biết có nên đến phòng khách để kể lại với John Faa và những người khác hay không, nhưng lại quyết định rằng nếu muốn biết họ sẽ hỏi cô. Có lẽ họ đã biết rồi.

Cô nằm trên giường nghĩ về con gấu hùng mạnh và tàn bạo đó, về sự cẩu thả của nó khi uống thứ rượu nặng khé cổ, về nỗi cô độc trong căn nhà chái bẩn thỉu. Làm người thật khác biệt, luôn có linh thú bên cạnh để trò chuyện! Trong sự tĩnh lặng của con tàu đang đứng yên, không có tiếng kim loại và gỗ cọt kẹt, tiếng ì ầm của động cơ hay tiếng nước xô bên mạn tàu, Lyra dần chìm vào giấc ngủ, Pantalaimon nằm trên gối của cô cũng thiếp đi.

Cô bé vừa mơ thấy người cha vĩ đại đang bị cầm tù của mình thì đột nhiên, chẳng vì lí do gì, cô bật tỉnh. Cô không biết lúc đó là mấy giờ. Có một thứ ánh sáng yếu ớt trong buồng ngủ mà cô nghĩ là ánh trăng, chiếu lên những bộ đồ rét mới bằng lông thú đang nằm đờ trong góc buồng. Vừa nhìn thấy là cô bé lại muốn khoác chúng lên mình.

Khi đã mặc đồ xong, cô bé phải lên boong. Một phút sau cô đã mở cửa trên đỉnh cầu thang nối các tầng và bước ra ngoài.

Ngay lập tức cô thấy điều kì lạ đang diễn ra trên bầu trời. Cô nghĩ đó là mây, đang di chuyển và rung rinh trong một sự lay động mạnh mẽ, nhưng Pantalaimon lại nói khẽ:

“Hiện tượng Cực Quang đấy!”

Cô bé kinh ngạc đến nỗi phải bám chặt lấy tay vịn lan can để khỏi bị ngã.

Cảnh tượng đó choán hết cả bầu trời phương bắc, sự bao la của nó thật khó mà tưởng tượng nổi. Như thể từ chính Thiên Đường, những bức màn khổng lồ của thứ ánh sáng mỏng manh đang rủ xuống và rung rinh. Mang màu lục nhạt và hồng tươi, trong suốt như loại vải mảnh nhất, và ở viền đáy là một sắc đỏ thắm rực rỡ như lửa Địa Ngục, chúng đu đưa và khẽ lung linh với sự uyển chuyển vượt xa người vũ công tài năng nhất. Lyra nghĩ cô thậm chí còn có thể nghe thấy chúng nói: một tiếng thì thầm xa xăm và mênh mang. Trong vẻ thanh thú chóng tàn ấy, cô cảm nhận được một điều gì đó rất sâu sắc, giống như cảm giác khi ở gần con gấu vậy. Điều đó khiến cô cảm động: nó đẹp tới mức gần như thánh thiện; cô cảm thấy nước mắt đang ứa ra, và chính những giọt nước mắt lại khiến ánh sáng vỡ òa thành những vầng cầu vồng khúc xạ qua lăng kính. Không lâu sau cô nhận ra rằng mình đang rơi vào trạng thái mê mẩn giống như khi tham khảo chiếc Chân Kế. Có lẽ, cô bình tĩnh nghĩ, yếu tố khiến kim Chân Kế quay hẳn cũng đang làm Cực Quang tỏa sáng. Thậm chí đó có thể chính là Bụi nữa. Cô có suy nghĩ đó một cách vô thức nên đã sớm quên bẵng đi, và phải sau đó rất lâu mới nhớ đến.

Trong lúc cô chăm chú nhìn, hình ảnh về một thành phố dường như tự hình thành đằng sau những bức màn và dòng chảy màu sắc trong mờ: những tòa tháp và mái vòm, các ngôi chùa và hàng cột màu mật ong, những đại lộ rộng lớn và công viên ngập nắng. Cô cảm thấy choáng váng khi nhìn ngắm nó, như thể mình đang không phải nhìn lên mà là nhìn xuống, và qua một vực thẳm rộng tới mức chẳng có gì có thể vượt qua được. Đó là cả một vũ trụ khác biệt.

Nhưng có thứ gì đó đang bay ngang qua. Khi cố gắng tập trung ánh nhìn vào chuyển động đó, cô thấy hoa mắt chóng mặt, vì vật thể nhỏ xíu đang chuyển động kia không phải một phần của Cực Quang hay của vũ trụ phía sau nó. Nó ở trong bầu trời phía trên thị trấn. Khi có thể nhìn thấy rõ vật đó, cô đã tỉnh hẳn còn thành phố trên trời đã tan biến.

Vật thể bay tới gần hơn và lượn vòng quanh con tàu trên đôi cánh dang rộng. Sau đó nó lướt xuống, quạt nhanh đôi cánh khỏe khoắn để ghìm đà rồi đỗ lại trên sàn boong bằng gỗ cách Lyra vài mét.

Trong ánh sáng Cực Quang cô nhìn thấy một con chim khổng lồ, một con ngỗng xám tuyệt đẹp với vòng lông trắng muốt trên đầu như một chiếc vương miện. Thế nhưng nó lại không phải là chim: đó là một linh thú, mặc dù ở đó chẳng có ai ngoài Lyra cả. Ý nghĩ này khiến một nỗi sợ khủng khiếp dâng lên trong cô.

Con chim cất tiếng:

“Farder Coram đang ở đâu?”

Đột nhiên Lyra hiểu ra đó là ai. Đó là linh thú của Serafina Pekkala, nữ hoàng bộ tộc, người bạn phù thủy của Farder Coram.

Cô bé lắp bắp trả lời:

“Tôi - ông ấy - tôi sẽ đi kiếm ông ấy…”

Cô quay người chạy vụt xuống cầu thang, tới buồng ngủ của Farder Coram rồi mở cửa nói vọng vào bóng tối:

“Farder Coram! Linh thú của cô phù thủy đến rồi! Nó đang đợi trên boong! Nó bay đến một mình - cháu đã thấy nó đến từ bầu trời…”

Ông già đáp: “Bảo nó đợi trên boong phía đuôi tàu đi, bé con.”

Con ngỗng oai vệ bước về phía đuôi tàu. Tại đó nó nhìn ngó xung quanh, vừa thanh nhã lại vừa hoang dại. Nó khiến cho một nỗi kinh sợ đầy mê hoặc dấy lên trong lòng Lyra, cô bé cảm giác như mình đang tiếp đãi một hồn ma vậy.

Farder Coram bước lên boong, quấn mình trong bộ đồ rét, theo sát phía sau là John Faa. Cả hai ông già đều kính cẩn cúi đầu, linh thú của họ cũng chào vị khách tới thăm.

“Xin chào mừng,” Farder Coram nói. “Tôi rất mừng và tự hào được gặp lại ông, Kaisa ạ. Ông có muốn vào trong không, hay là muốn ở ngoài trời hơn?”

“Tôi muốn ở bên ngoài hơn, cảm ơn, Farder Coram. Các vị có mặc đủ ấm để chịu đựng một lát không?”

Phù thủy và linh thú của họ không cảm thấy lạnh, nhưng họ ý thức được rằng những người khác thì có.

Farder Coram cam đoan rằng họ mặc đủ ấm và nói: “Serafina Pekkala có khỏe không?”

“Cô ấy gửi lời chào đến ông, Farder Coram ạ, và cô ấy vẫn khỏe mạnh. Hai người này là ai vậy?”

Farder Coram giới thiệu cả hai bọn họ. Con linh thú ngỗng nhìn xoáy vào Lyra.

“Tôi có nghe nói đến đứa trẻ này rồi,” nó nói. “Giới phù thủy đang bàn tán về nó. Vậy là các ông tới để gây chiến?”

“Không phải gây chiến, Kaisa ạ. Chúng tôi dự định giải cứu những đứa trẻ bị bắt cóc. Tôi hi vọng các phù thủy sẽ giúp.”

“Không phải tất cả sẽ giúp đâu. Vài bộ tộc đang làm ăn với đám thợ săn Bụi.”

“Có phải đó là thứ các vị gọi là Ủy ban Hiến tế không?”

“Tôi không biết cái Ủy ban này là gì. Họ là các thợ săn Bụi. Họ tới vùng của chúng tôi mười năm trước cùng với các thiết bị khoa học. Họ trả tiền để được phép lập trạm trong đất của chúng tôi, và họ đối xử với chúng tôi rất lịch sự.”

“Cái thứ Bụi này là gì vậy?”

“Nó tới từ bầu trời. Có người nói nó vẫn luôn ở đó, có người lại bảo nó chỉ mới rơi xuống thôi. Có điều chắc chắn là khi người ta ý thức được sự tồn tại của nó, một nỗi sợ hãi to lớn đã bao trùm lên họ, và họ sẽ không ngừng tìm hiểu bản chất của nó. Nhưng đó chẳng phải là mối bận tâm đối với giới phù thủy.”

“Vậy bây giờ họ đang ở đâu rồi, những thợ săn Bụi ấy?”

“Bốn ngày đường từ đây về phía đông bắc, tại một nơi gọi là Bolvangar. Bộ tộc của chúng tôi không có giao ước gì với họ cả, và bởi vì nghĩa vụ lâu đời đối với ông, Farder Coram ạ, tôi tới để chỉ cho ông cách tìm những tên thợ săn Bụi này.”

Farder Coram mỉm cười, còn John Faa vỗ hai bàn tay đồ sộ lại với nhau vẻ hài lòng.

“Cảm ơn ông rất nhiều,” ông nói với con ngỗng. “Nhưng xin hãy nói cho chúng tôi điều này: ông có biết thêm bất cứ điều gì về các thợ săn Bụi này không? Họ làm gì ở Bolvangar vậy?”

“Họ đã dựng lên những tòa nhà bằng kim loại và bê tông, cùng vài hầm chứa dưới lòng đất. Họ tốn rất nhiều tiền để nhập tinh than vào rồi đốt nó. Tôi không biết họ làm gì, nhưng có một bầu không khí thù hằn lẫn sự hãi bao trùm lên nơi đó và hàng dặm xung quanh. Phù thủy có thể thấy những điều này trong khi những người khác thì không. Động vật cũng lánh xa nơi đó. Chim không bay tới; chuột lemming và cáo cao chạy xa bay. Bởi vậy mới có cái tên Bolvangar: những vùng đất quỷ ác. Mặc dù họ không gọi nó như vậy. Họ gọi nó là Trạm. Nhưng với tất cả những người khác thì nó là Bolvangar.”

“Họ phòng vệ như thế nào?”

“Họ có một toán người Tartar Phương Bắc được trang bị súng trường. Đó là những chiến binh cừ khôi nhưng lại thiếu luyện tập, vì từ khi được xây dựng đến giờ chưa có ai tấn công khu trạm đó cả. Ngoài ra còn có hàng rào dây thép chạy mạch bao quanh khu tổ hợp. Có thể có những phương thức phòng vệ khác mà chúng tôi không biết, vì như tôi đã nói, chúng tôi không có hứng thú gì với họ cả.”

Lyra đang sốt sắng muốn hỏi một câu, con linh thú ngỗng biết điều đó nên đã nhìn sang cô như thể cho phép cô nói.

“Tại sao các phù thủy lại bàn tán về tôi?” Cô hỏi.

“Vì cha của cô, và kiến thức của ông ấy về những thế giới khác,” con linh thú đáp.

Câu trả lời đó khiến cả ba bọn họ ngạc nhiên. Lyra nhìn sang Farder Coram, người cũng đang nhìn lại cô với vẻ hơi kinh ngạc, rồi sang John Faa, lúc này đang tỏ ra rất bối rối.

“Những thế giới khác ư?” Ông lên tiếng. “Xin thứ lỗi, thưa ông, nhưng những thế giới đó là gì vậy? Ý ông là các ngôi sao?”

“Thật ra là không.”

“Có lẽ là thế giới các linh hồn?” Farder Coram nói.

“Cũng không phải nó.”

“Có phải là thành phố trong ánh sáng không?” Lyra hỏi. “Là nó đúng không?”

Con ngỗng quay cái đầu oai vệ về phía cô bé. Nó có đôi mắt màu đen, được bao viền bởi một đường mảnh màu xanh da trời trong vắt, ánh nhìn của nó thật dữ dội.

“Phải,” nó đáp. “Giới phù thủy đã biết về những thế giới khác được vài nghìn năm rồi. Đôi khi người ta có thể nhìn thấy chúng trong Bắc Cực Quang. Chúng hoàn toàn không thuộc về hệ vũ trụ này; kể cả những ngôi sao xa xôi nhất cũng là một phần của vũ trụ này, nhưng những luồng ánh sáng kia cho chúng ta thấy một vũ trụ hoàn toàn khác biệt. Không hề xa xôi, mà lại đan xen với vũ trụ của chúng ta. Ngay tại đây, trên boong tàu này, hàng triệu vũ trụ khác tồn tại mà chẳng hề ý thức được nhau…”

Nó nâng đôi cánh lên rồi sải rộng chúng ra trước khi gập lại.

“Đó,” nó nói, “tôi vừa mới quẹt qua mười triệu thế giới khác mà họ có biết gì đâu. Chúng ta đang ở ngay sát nhau nhưng lại chẳng bao giờ có thể chạm vào, nhìn ngắm hay nghe thấy các thế giới khác này ngoại trừ trong Bắc Cực Quang.”

“Tại sao lại là ở đó?” Farder Coram hỏi.

“Bởi vì các hạt mạch tích trong Cực Quang có đặc tính làm vật chất của thế giới này mỏng đi, khiến chúng ta có thể nhìn xuyên qua nó trong một khoảng thời gian ngắn. Các phù thủy vẫn luôn biết điều này, nhưng chúng tôi hiếm khi nói về nó.”

“Cha cháu tin vào điều đó,” Lyra nói. “Cháu biết vì cháu đã nghe ông ấy nói và trình bày các bức hình về Cực Quang.”

“Việc này có liên quan gì đến Bụi không?” John Faa hỏi.

“Ai mà biết được?” Con linh thú ngỗng nói. “Tất cả những gì tôi có thể nói là đám thợ săn Bụi đang sợ chết khiếp như thể nó là chất độc giết người vậy. Đó là lí do họ bắt giữ Ngài Asriel.”

“Nhưng tại sao chứ?” Lyra hỏi.

“Họ nghĩ ông ấy định sử dụng Bụi theo cách nào đó để tạo một cầu nối giữa thế giới này và thế giới đằng sau Cực Quang.”

Lyra thấy đầu óc mình quay cuồng.

Cô nghe thấy Farder Coram nói: “Ông ấy có định làm vậy không?”

“Có,” con linh thú ngỗng đáp. “Họ không tin rằng ông ấy có thể, vì họ cho rằng chỉ có điên mới đi tin vào sự tồn tại của các thế giới khác. Nhưng quả thật, đó là ý định của ông ấy. Ông ấy còn là một nhân vật quyền lực nên họ lo sợ ông sẽ làm đảo lộn kế hoạch của chính họ, vì vậy họ đã lập một hiệp ước với lũ gấu mặc giáp để bắt cóc và giam giữ ông tại pháo đài Svalbard, tránh làm cản đường họ. Có người nói họ đã giúp vua gấu mới giành được ngai vàng, như một phần của giao kèo.”

Lyra nói: “Các phù thủy có muốn ông ấy dựng chiếc cầu nối này không? Họ ở phe ông ấy hay chống đối lại ông ấy?”

“Đó là một câu hỏi quá phức tạp để có thể trả lời. Thứ nhất, phù thủy chúng tôi không hợp nhất. Có những khác biệt về ý kiến giữa chúng tôi. Thứ hai, cây cầu của Ngài Asriel sẽ liên quan đến một cuộc chiến đang diễn ra hiện nay giữa vài phù thủy và nhiều thế lực khác, một vài trong số đó đến từ thế giới linh hồn. Việc sở hữu cây cầu, nếu nó tồn tại, sẽ mang đến cho chủ nhân của nó lợi thế to lớn. Thứ ba, bộ tộc Serafina Pekkala - tộc của tôi - chưa thuộc về bất cứ khối liên minh nào, mặc dù chúng tôi đang phải chịu áp lực lớn phải tuyên bố về phe này hay phe khác. Các vị thấy đấy, đó là các vấn đề của chính trị cấp cao, không dễ gì trả lời được.”

“Còn những con gấu thì sao?” Lyra hỏi. “Chúng theo phe của ai?”

“Phe của bất cứ ai trả công cho chúng. Chúng không có chút hứng thú nào trong những chuyện này; chúng không có linh thú; chúng không quan tâm đến những vấn đề của loài người, ít nhất thì lũ gấu đã từng như thế, nhưng chúng tôi cũng nghe được rằng quốc vương mới của chúng đang muốn thay đổi những phương cách cũ… Dù sao thì các thợ săn Bụi cũng đã trả công cho chúng để bắt giam Ngài Asriel, và chúng sẽ giữ ông ấy ở Svalbard cho tới khi giọt máu cuối cùng chảy ra khỏi cơ thể của con gấu cuối cùng còn sống.”

“Nhưng không phải tất cả gấu đều vậy!” Lyra nói. “Có một con không hề ở Svalbard. Đó là một con gấu bị ruồng bỏ, và ông ấy sẽ đi cùng với chúng tôi.”

Con ngỗng lại một lần nữa nhìn xoáy vào Lyra. Lần này cô có thể cảm thấy sự ngạc nhiên lạnh lùng của nó.

Farder Coram xoay người một cách không thoải mái rồi nói: “Thật ra là, Lyra ạ, ta không nghĩ là ông ta sẽ đến đâu. Chúng ta nghe nói rằng ông ta đang làm việc như một nhân công hợp đồng theo điều khoản chứ không tự do như ta tưởng, ông ta đang bị kết án. Cho tới khi được tha, ông ta sẽ không thể đến được, dù có bộ giáp hay không; mà ông ta cũng sẽ chẳng bao giờ có lại được nó đâu.”

“Nhưng ông ấy nói đã bị người ta lừa mà! Họ đã khiến ông ấy say khướt rồi cướp bộ giáp đi!”

“Chúng ta thì nghe được một câu chuyện khác,” John Faa nói. “Ông ta là một kẻ lừa đảo nguy hiểm, đó là điều chúng ta nghe được.”

“Nếu…” Lyra sôi máu lên; cô bé gần như không nói nổi vì giận dữ: “… nếu chiếc Chân Kế có nói điều gì thì cháu biết đó đều là thật. Cháu đã hỏi nó, và nó nói rằng con gấu đã nói sự thật, họ có lừa ông ấy, và họ mới là kẻ dối trá chứ không phải ông ấy. Cháu tin con gấu, Ngài Faa ạ! Farder Coram - ông cũng gặp ông ấy rồi, và ông tin ông ấy đúng không?”

“Ta nghĩ là ta có tin, cô bé ạ. Ta không dám chắc về mọi việc như cháu.”

“Nhưng họ sợ cái gì chứ? Chẳng lẽ họ cho rằng ông ấy sẽ đi loanh quanh giết người một khi đã khoác lên mình bộ giáp? Ông ấy đã có thể giết hàng chục người rồi!”

“Ông ta đã làm vậy,” John Faa nói. “À, nếu không phải là hàng chục thì là vài người. Khi người ta mới lấy bộ giáp đi, ông ta đã điên cuồng lùng sục khắp nơi, phá toang đồn cảnh sát, ngân hàng, còn ở đâu nữa thì ta không biết, ít nhất đã có hai người chết. Lí do duy nhất mà người ta không bắn hạ là bởi kĩ năng phi thường của ông ta với kim loại; họ muốn dùng ông ta làm nhân công.”

“Như một tên nô lệ vậy!” Lyra nóng nảy nói. “Họ đâu có quyền đó!”

“Dù vậy họ có thể đã bắn ông ta vì tội giết người, nhưng họ đã không làm vậy. Họ ràng buộc và bắt ông ta phải lao động vì quyền lợi của thị trấn cho đến khi bù đắp được những tổn thất về người và của.”

“John,” Farder Coram lên tiếng, “tôi không biết anh thấy thế nào, nhưng tôi tin rằng họ sẽ không bao giờ để ông ta có lại bộ giáp đó. Họ càng giữ lâu thì ông ta sẽ càng giận dữ khi có lại nó.”

“Nhưng nếu chúng ta lấy lại cho ông ấy bộ giáp, ông ấy sẽ đi với chúng ta và không bao giờ làm phiền họ nữa, Lyra nói. “Cháu hứa đấy, Ngài Faa.”

“Vậy chúng ta sẽ thực hiện điều đó như thế nào?”

“Cháu biết nó ở đâu!”

Tất cả im bặt, họ chợt nhận ra con linh thú của cô phù thủy và ánh nhìn chòng chọc của nó về phía Lyra. Cả ba người đều quay về phía con ngỗng, và đám linh thú của họ, cho tới tận lúc đó vẫn đang giả bộ cực kì lịch sự bằng cách nhũn nhặn tránh nhìn về phía sinh vật kì dị đang ở đây một mình mà không có chủ này, cũng quay sang nhìn nó.

“Cô sẽ không ngạc nhiên,” con ngỗng nói, “khi biết rằng chiếc Chân Kế là một lí do khác khiến các phù thủy hứng thú với cô, Lyra ạ. Lãnh sự của chúng tôi đã kể về cuộc viếng thăm của các vị sáng nay. Tôi tin rằng chính Tiến sĩ Lanselius đã nói với các vị về con gấu.”

“Đúng vậy,” John Faa nói. “Cô bé và Farder Coram đã đích thân đến nói chuyện với con gấu. Tôi dám khẳng định là những điều Lyra nói đều là sự thật, nhưng nếu phạm luật của những người ở đây, chúng tôi chỉ tổ bị vướng vào một cuộc tranh cãi với họ, trong khi việc cần làm bây giờ là thúc đẩy việc tiến tới Bolvangar, dù có gấu hay không.”

“À, nhưng ông chưa gặp ông ta mà, John,” Farder Coram nói. “Tôi thì tin Lyra. Chúng tôi có thể thay mặt ông ta hứa, có lẽ vậy. Có thể ông ta sẽ tạo nên mọi sự khác biệt.”

“Ông thấy thế nào?” John Faa hỏi con linh thú phù thủy.

“Chúng tôi có vài cuộc giao dịch với lũ gấu. Ham muốn của chúng đối với chúng tôi cũng kì lạ như của chúng tôi đối với chúng vậy. Nếu đó là một con gấu bị ruồng bỏ thì nó có thể không đáng tin cậy như người ta nói. Các vị phải tự quyết định thôi.”

“Vâng,” John Faa nói chắc nịch. “Nhưng giờ, thưa ông, ông có thể chỉ cho chúng tôi cách đi từ đây đến Bolvangar được không?”

Con linh thú ngỗng bắt đầu giải thích. Nó nói về những thung lũng và ngọn đồi, về hàng cây và lãnh nguyên, về cách nhìn sao trời. Cô bé lắng nghe một lúc rồi dựa vào chiếc ghế trên boong cùng với Pantalaimon cuộn tròn quanh cổ. Cô nghĩ về cảnh tượng hùng vĩ mà con linh thú ngỗng mang tới. Một cầu nối giữa hai thế giới… Điều này còn tuyệt vời hơn nhiều so với những thứ cô đã mong ngóng! Và chỉ có người cha vĩ đại của cô mới có thể thấu hiểu được. Ngay khi giải cứu xong đám trẻ con, cô bé sẽ tới Svalbard cùng với con gấu, mang chiếc Chân Kế cho Ngài Asriel và dùng nó để giúp trả tự do cho ông; rồi họ sẽ cùng nhau xây dựng cây cầu, và sẽ là những người đầu tiên bước qua…

Vào một lúc nào đó trong đêm, John Faa hẳn đã bế Lyra về giường, vì đó là nơi cô tỉnh dậy. Ánh mặt trời mờ ảo đang ở trên cao nhất có thể, chỉ cách đường chân trời một sải tay, nên lúc đó hẳn đã gần trưa, cô bé nghĩ. Chẳng bao lâu sau khi họ tiến xa hơn về phía bắc, mặt trời đã hoàn toàn biến mất.

Cô bé vội vàng vận đồ rồi chạy lên boong nhưng lại thấy rằng chẳng có gì mấy đang diễn ra. Tất cả hàng dự trữ đã được dỡ, xe trượt tuyết và các đội chó kéo đã được thuê và đang chờ để đi; mọi thứ đều đã sẵn sàng và chẳng có thứ gì chuyển động cả. Hầu hết những người du mục đều đang ngồi trong một quán cà phê mờ mịt khói hướng về phía biển, ăn bánh ngọt tẩm gia vị và uống thứ cà phê ngọt sắc bên những chiếc bàn gỗ dài trong tiếng xì xì và tanh tách của vài ngọn đèn mạch cổ lỗ sĩ.

“Ngài Faa đâu rồi ạ?” Cô bé hỏi khi ngồi xuống với Tony Costa và đám bạn của cậu. “Cả Farder Coram nữa? Có phải họ đang đi lấy áo giáp cho con gấu không?”

“Họ đang nói chuyện với Sysselman. Đó là từ người ta dùng để chỉ thống đốc. Vậy em đã gặp con gấu đó rồi à, Lyra?”

“Vâng!” Cô nói rồi giải thích mọi điều về nó. Trong lúc cô nói, có ai đó kéo một chiếc ghế đến và gia nhập nhóm tại bàn.

“Vậy là cô bé đã nói chuyện với ông bạn Iorek rồi à?”

Cô ngạc nhiên nhìn người mới tới. Đó là một người đàn ông cao gầy với bộ ria mép mảnh màu đen và đôi mắt híp màu xanh dương, vẻ mặt ông có một biểu hiện thường trực đầy xa cách và mỉa mai châm biếm. Cô bé lập tức nhận thấy một cảm xúc mạnh mẽ đối với ông, nhưng cô không chắc liệu đó là thích hay ghét nữa. Linh thú của ông là một con thỏ rừng tiều tụy, cũng gầy và cứng cỏi giống hệt chủ.

Ông chìa tay ra và cô thận trọng bắt lấy nó.

“Lee Scoresby,” ông tự giới thiệu.

“Ông phi công khí cầu!” Cô bé thốt lên. “Khí cầu của ông đâu? Cháu có thể lên được không?”

“Nó đang được cất đi rồi, cô gái ạ. Cháu chắc hẳn là Lyra nổi tiếng. Mọi việc với Iorek Byrnison thế nào rồi?”

“Ông biết ông ấy ạ?”

“Ta đã chiến đấu bên cạnh ông ta trong chiến dịch Tunguska. Lạy trời, ta đã biết Iorek nhiều năm rồi. Dù gì thì gấu cũng là những sinh vật khó chiều, nhưng ông ta thì là một vấn đề lớn, không nhầm đâu. Nào, có ai trong các quý cậu ở đây có nhã hứng làm một ván đỏ đen không?”

Một sập bài không hiểu từ đâu hiện ra trên tay ông. Ông lạch xạch xào bài.

“Tôi đã nghe nói về năng lực chơi bài của dân du mục các vị,” Lee Scoresby nói, một tay thoăn thoắt chia và gộp các quân bài lại, trong khi tay còn lại lấy một điếu xì gà từ trong túi áo ngực ra, “tôi nghĩ các vị sẽ không phản đối việc cho một du khách Texas đơn thuần cơ hội được thử sức với kĩ năng của các vị và thách thức lĩnh vực đấu bài. Các vị thấy sao?”

Dân du mục rất hãnh diện với khả năng đấu bài của mình, vài người trông có vẻ hứng thú và kéo ghế lại. Trong lúc họ đang thỏa thuận với Lee Scoresby về việc chơi gì và cược gì, linh thú của ông vẩy tai về phía Pantalaimon. Nó hiểu tín hiệu đó và khẽ nhảy về phía con thỏ trong dạng một con sóc.

Hẳn nhiên là nó cũng nói để Lyra nghe thấy nữa. Cô bé nghe thấy nó nói khẽ: “Đi thẳng tới chỗ con gấu và nói trực tiếp với ông ta. Người ta mà biết được chuyện gì đang diễn ra thì sẽ di dời bộ giáp đi chỗ khác ngay.”

Lyra đứng dậy, mang theo miếng bánh tẩm gia vị, chẳng có ai nhận ra điều đó; Lee Scoresby đang chia bài, mọi con mắt ngờ vực đều dồn cả vào hai bàn tay ông.

Trong ánh sáng lờ mờ đang nhòa dần theo buổi chiều vô tận, cô bé tìm đường đến nhà kho chứa xe kéo. Đó là việc cô biết mình phải làm, nhưng lại thấy lo lắng về nó, và cả e sợ nữa.

Bên ngoài cái lán bê tông lớn nhất, con gấu đồ sộ đang làm việc. Lyra đứng bên cánh cổng mở quan sát nó. Iorek Byrnison đang tháo dỡ một chiếc máy kéo chạy bằng gas bị đâm hỏng; lớp kim loại bọc bên ngoài đầu máy bị xoắn vặn và oằn cong, một vòng trượt bị vênh lên. Con gấu nhấc tấm kim loại ra như thể đấy chỉ là một tấm bìa, rồi xoay nó theo đủ hướng trong đôi bàn tay vĩ đại của mình, có vẻ như đang kiểm tra chất lượng. Sau đó con gấu đặt chân sau lên một góc rồi bẻ cả tấm kim loại theo cách khiến tất cả các vết lõm bật ra và hình dạng vốn có được khôi phục. Sau khi đặt tấm kim loại dựa vào tường, con gấu nâng cả cái máy kéo nặng như chì lên bằng một tay rồi đặt nó nằm nghiêng ra trước khi cúi xuống kiểm tra vòng trượt bị méo.

Khi làm việc đó, nó phát hiện ra Lyra. Cô bé cảm thấy một tia sét sợ hãi tột cùng giáng thẳng vào mình, vì con gấu quá đồ sộ và khác lạ. Cô bé đang nhìn qua hàng rào buộc xích cách nó tầm bốn mươi mét. Khi nghĩ tới việc nó có thể rút ngắn khoảng cách chỉ bằng một hay hai cú chồm và gạt đống dây thép sang một bên như gạt mạng nhện, cô suýt nữa đã quay đầu bỏ chạy. Nhưng đúng lúc đó Pantalaimon nói: “Khoan! Để tớ đi nói chuyện với ông ấy.”

Hiện giờ Pantalaimon đang là một con nhạn biển, trước khi cô kịp trả lời, nó đã bay khỏi hàng rào xuống nền đất băng giá phía xa. Trước đó một chút có một cánh cổng mở, Lyra đã có thể đi theo con linh thú, nhưng cô miễn cưỡng chùn lại. Pantalaimon nhìn cô rồi hóa thành một con lửng.

Cô biết nó đang định làm gì. Linh thú chỉ có thể rời khỏi chủ thể của chúng không quá vài mét, nên nếu cô đứng bên hàng rào còn Pantalaimon vẫn là một con chim thì nó không thể đến gần con gấu; vì vậy nó sẽ kéo cô lại.

Cô bé cảm thấy tức giận và khổ sở. Bộ móng lửng của Pantalaimon cắm sâu vào mặt đất, nó đang tiến về phía trước. Thật là một cảm giác giày vò kì lạ khi linh thú của mình giằng co mối liên kết giữa cả hai; một phần là nỗi đau thể xác sâu hoắm trong lồng ngực, phần nữa là sự buồn bã và tình yêu mãnh liệt. Cô bé biết Pantalaimon cũng cảm thấy như vậy. Tất cả mọi người đều đã kiểm tra điều đó khi họ lớn lên: thử xem họ có thể rời nhau bao xa rồi quay trở lại với sự khuây khỏa mãnh liệt.

Pantalaimon giật mạnh hơn một chút.

“Đừng, Pan!”

Nhưng Pantalaimon không dừng lại. Con gấu đứng lặng im quan sát. Nỗi đau trong trái tim Lyra ngày càng trở nên không thể chịu đựng nổi, một tiếng thổn thức khát khao dâng lên trong họng cô.

“Pan…”

Rồi cô đã bước qua cửa và bò trên lớp bùn đóng băng về phía con linh thú. Pantalaimon biến thành một con mèo rừng và nhảy bật vào vòng tay cô. Hai đứa níu chặt lấy nhau, cùng kêu lên những tiếng run rẩy khe khẽ đầy bất hạnh.

“Tớ cứ nghĩ cậu thật sự sẽ…”

“Không…”

“Tớ không thể tin nó lại đau đớn đến thế…”

Nói rồi cô tức giận gạt nước mắt đi và sụt sịt thật mạnh. Pantalaimon rúc người vào vòng tay cô, cô bé biết rằng mình thà chết chứ không chịu để hai đứa bị chia tách và phải đối diện với nỗi buồn đó một lần nữa; nó sẽ khiến cô phát điên vì đau buồn và kinh sợ. Nếu cô có chết thì chúng vẫn sẽ ở bên nhau, giống như các Học giả trong hầm mộ ở Jordan vậy.

Rồi cô gái và con linh thú ngước lên nhìn con gấu cô độc. Nó không có linh thú. Nó đơn độc, luôn luôn đơn độc. Trong cô dấy lên một sự cảm thương và dịu dàng đối với con gấu, đến mức cô suýt nữa đã với tay tới để chạm vào bộ lông xỉn màu của nó, và chỉ nhờ ý thức phải lịch sự trước đôi mắt lạnh lẽo dữ tợn kia mới ngăn cô làm vậy.

“Iorek Byrnison,” cô gọi.

“Sao?”

“Ngài Faa và Farder Coram đã đi thử giành lại bộ giáp cho ông.”

Con gấu không nhúc nhích hay nói năng gì. Rõ ràng là nó đang cân nhắc cơ hội của họ.

“Nhưng tôi biết nó ở đâu,” cô nói, “nếu tôi nói cho ông, có lẽ ông có thể tự đi lấy nó về, tôi không biết nữa.”

“Làm sao cô biết nó ở đâu được chứ?”

“Tôi có một chiếc máy đọc biểu tượng. Tôi nghĩ tôi phải nói với ông, Iorek Byrnison ạ, vì thấy họ mới là người lừa dối ông từ đầu. Tôi không nghĩ điều đó là đúng. Họ đáng ra không nên làm vậy. Ngài Faa sẽ tranh luận với Sysselman, nhưng có thể họ sẽ không để ông có được nó dù ông ấy có nói gì đi nữa. Vậy nên nếu tôi nói cho ông biết, ông sẽ đi cùng chúng tôi và giúp giải cứu trẻ con khỏi Bolvangar chứ?”

“Được.”

“Tôi…” Cô bé không định tọc mạch, nhưng cô không thể ngăn mình tò mò. Cô hỏi: “Sao ông không làm thêm vài bộ giáp từ số kim loại ở đây đi, Iorek Byrnison?”

“Vì đám này vô giá trị. Nhìn đây,” con gấu nói rồi dùng một tay nhấc tấm bọc đầu máy lên, tay còn lại xoè một móng ra rồi chọc thủng nó như một cái mở hộp. “Bộ giáp của tôi được làm từ sắt trời, dành riêng cho tôi. Bộ giáp của một con gấu là linh hồn của anh ta, giống như linh thú của cô là linh hồn của chính cô vậy. Cô cũng có thể đem nó đi…” ám chỉ Pantalaimon “… và thay thế nó bằng một con búp bê nhồi đầy mùn cưa. Đó là sự khác biệt. Vậy, giáp của tôi đang ở đâu?”

“Nghe này, ông phải hứa sẽ không trả thù đấy nhé. Họ đã sai khi lấy nó đi, nhưng ông chỉ cần phải chịu đựng việc đó thôi.”

“Được rồi. Không trả thù về sau. Nhưng lúc lấy lại nó tôi cũng không nương tay đâu. Nếu họ chống trả, họ sẽ chết.”

“Nó được giấu trong hầm chứa tại nhà của thầy tu,” cô bé nói với con gấu. “Ông ta nghĩ rằng có một linh hồn ám trong đó, và đang cố gọi nó ra. Đó là nơi nó được giấu.”

Con gấu đứng cao lừng lững trên hai chân sau và nhìn về phía tây, những tia nắng cuối cùng phủ lên gương mặt u ám của nó một sắc trắng vàng mịn màng và rực rỡ. Cô có thể cảm nhận thấy sức mạnh đang phát ra từ người sinh vật to lớn này như những luồng sóng nhiệt.

“Tôi phải làm việc đến lúc mặt trời lặn,” nó nói. “Sáng nay tôi đã hứa với ông chủ ở đây như thế. Tôi vẫn còn nợ vài phút làm việc nữa.”

“Ở chỗ tôi thì mặt trời lặn rồi,” cô bé chỉ ra, vì từ điểm nhìn của cô, mặt trời đã biến mất sau mũi đất lởm chởm đá về phía tây nam.

Con gấu liền hạ người xuống đứng trên bốn chân.

“Đúng thật,” nó nói, khuôn mặt giờ đã chìm trong bóng râm giống như cô. “Tên cô là gì, nhóc?”

“Lyra Belacqua.”

“Vậy thì tôi nợ cô một lần, Lyra Belacqua ạ,” con gấu nói.

Sau đó nó quay người rồi tròng trành bước qua mặt đất giá lạnh, lẹ làng đến mức Lyra dù có chạy cũng không đuổi theo nổi. Cô đành phải chạy theo, còn Pantalaimon thì bay lên trong dạng một con mòng biển để xem con gấu đi đâu rồi nói vọng xuống cho cô bé biết đường theo sau.

Iorek Byrnison nhảy vọt ra khỏi kho chứa rồi chạy dọc theo con phố nhỏ trước khi rẽ vào phố chính của thị trấn, qua sân trong dinh thự của Sysselman, nơi một lá cờ rủ xuống trong không khí tĩnh lặng và người lính gác bước lên bước xuống một cách nghiêm trang, xuống sườn đồi qua cuối con phố nơi Lãnh sự Phù thủy sống. Người lính gác lúc này đã nhận thấy chuyện gì đang xảy ra, anh ta đang cố gắng trấn tĩnh lại thì Iorek Byrnison đã rẽ sang góc phố gần bến cảng rồi.

Dân chúng dừng lại nhìn hoặc nhanh chóng thoát khỏi đường chạy của nó. Người lính gác bắn chỉ thiên hai phát rồi lao xuống đồi đuổi theo con gấu. Anh ta không đạt được mục đích do phải phanh gấp trên con dốc phủ đầy băng và chỉ lấy lại được thăng bằng sau khi đã tóm được song sắt gần nhất. Lyra chạy cách phía sau không xa. Khi đi qua nhà của Sysselman, cô bé nhận thấy một nhóm người vừa chạy ra phía sân trong để xem chuyện gì đang diễn ra, cô nghĩ mình đã thấy Farder Coram trong số họ; nhưng rồi cô phóng qua khỏi đó, lao rầm rầm xuống con phố về phía góc đường nơi người lính gác đang rẽ vào để đuổi theo con gấu.

Nhà của thầy tu cổ kính hơn hầu hết các căn nhà khác, được dựng từ thứ gạch đắt tiền. Bậc tam cấp dẫn lên cửa chính lúc này đã tan tác thành những mảnh gỗ vụn, từ phía trong nhà vọng ra những tiếng gào thét, đổ vỡ loảng xoảng và tiếng gỗ bị xé toạc. Người lính gác lưỡng lự ở bên ngoài, súng đã giương lên sẵn; nhưng rồi khi người qua đường bắt đầu tụ tập lại còn những người khác nhòm qua cửa sổ từ phía bên kia đường, anh ta nhận ra mình phải hành động nên đã bắn chỉ thiên một phát trước khi xông vào.

Một chốc sau, cả căn nhà dường như rung chuyển. Kính vỡ vụn từ ba khung cửa sổ, một miếng ngói rụng khỏi mái, rồi một người hầu gái hoảng hốt chạy ra, linh thú gà mái vỗ cánh bồm bộp đuổi theo.

Một phát đạn nữa nổ lên trong căn nhà, rồi tiếng gầm long trời cất lên khiến người hầu phải hét lên hoảng sợ. Như thể được phóng ra từ khẩu đại bác, vị thầy tu lao ra cùng với con linh thú bồ nông đập cánh điên loạn với lòng kiêu hãnh bị tổn thương. Lyra nghe thấy tiếng các mệnh lệnh được hét lên, cô quay lại và thấy một toán cảnh sát được vũ trang đang gấp rút chạy quanh góc phố, người mang súng ngắn kẻ cầm súng trường. Sau đó không xa là John Faa và dáng người to béo, kiểu cách của Sysselman.

Một tiếng xé toạc và vỡ vụn khiến tất cả quay lại nhìn căn nhà. Một ô cửa sổ ở tầng trệt, rõ ràng là mở vào một hầm chứa, đang bị giật tung ra trong tiếng loảng xoảng của kính vỡ và tiếng rít của gỗ bị xé toang. Người lính gác đã theo Iorek Byrnison vào trong nhà chạy ra đứng đối diện với cửa sổ hầm chứa, súng kề trên vai; rồi ô cửa sổ hoàn toàn bị rách toạc, Iorek Byrnison trèo ra, người bọc giáp sắt.

Không có bộ giáp, nó là một kẻ dữ dội. Có bộ giáp, nó trở thành một nỗi kinh hoàng. Bộ giáp đã bị gỉ đỏ, được tán vào nhau một cách thô sơ: những tấm và phiến kim loại cong vênh, xỉn màu kêu lên kèn kẹt, rin rít khi chúng cọ vào nhau. Chiếc mũ sắt nhọn như mõm của con gấu, với hai khe hở dành cho mắt, phần dưới của hàm để trống để cắn xé dễ dàng hơn.

Người lính gác khai hỏa vài phát, phía cảnh sát cũng vào thế ngắm bắn, nhưng Iorek Byrnison chỉ đơn thuần rũ người là đạn rơi lả tả như mưa. Nó lao tới trong tiếng rít và leng keng của kim loại trước khi người lính kịp trốn thoát, rồi đập anh ta ngã xuống đất. Con chó husky, linh thú của anh ta, phóng tới cổ họng của con gấu, nhưng Iorek Byrnison coi đó chỉ như ruồi nhặng bay qua nên chẳng thèm bận tâm. Nó lôi người lính về phía mình bằng một bàn tay khổng lồ rồi cúi xuống, kẹp đầu anh ta trong bộ hàm đồ sộ. Lyra có thể đoán chính xác điều gì sẽ diễn ra tiếp theo: con gấu sẽ nghiền hộp sọ của người đàn ông như nghiền trứng, rồi một cuộc chiến đẫm máu sẽ nối tiếp, thêm nhiều thương vong, thêm chậm trễ; và họ sẽ không bao giờ được tự do, dù có hay không có con gấu.

Chẳng buồn suy tính, cô bé lao đến đặt tay lên một điểm yếu trên bộ giáp của con gấu, đó là khe hở giữa chiếc mũ sắt và tấm kim loại lớn bảo vệ vai khi con gấu cúi đầu, ở đó cô có thể nhìn thấy lớp lông trắng vàng lờ mờ lộ ra giữa những lớp kim loại hoen gỉ. Cô chọc các ngón tay vào trong khi Pantalaimon ngay lập tức lao tới cùng một điểm và biến thành mèo rừng, thủ thế để bảo vệ chủ; nhưng Iorek Byrnison đứng im, còn các xạ thủ thì ngừng bắn.

“Iorek!” Cô nói bằng một giọng trầm dữ dội. “Nghe này! Ông nợ tôi một lần đúng không? Vậy giờ ông có thể đền đáp được đó. Hãy làm như tôi yêu cầu. Đừng giao chiến với những người này. Hãy quay lại và đi cùng với tôi. Chúng tôi cần ông, Iorek ạ, ông không thể ở lại đây. Hãy xuống dưới cảng với tôi và đừng ngoái đầu lại. Hãy cứ để Farder Coram và John Faa lo việc đàm phán, họ sẽ giải quyết mọi việc êm thấm. Thả người này ra và đi với tôi…”

Con gấu từ từ há miệng ra. Người lính ngất lịm đi, đầu anh ta gục xuống đất, ướt đẫm máu và tái nhợt. Linh thú của anh ta chạy quanh vuốt ve chăm sóc chủ trong khi con gấu bỏ đi bên cạnh Lyra.

Không có bất cứ ai khác cử động. Họ đều đứng nhìn con gấu quay đi khỏi nạn nhân của nó theo lệnh của cô gái nhỏ cùng con linh thú mèo. Rồi họ lùi sang hai bên nhường chỗ cho Iorek Byrnison nặng nề bước qua giữa cả đám, bên cạnh Lyra, để tiến tới bến cảng.

Toàn bộ tâm trí của cô bé dồn vào con gấu nên cô đã không nhận ra sự bối rối phía sau mình, nỗi sợ và sự tức giận dè dặt dâng lên sau khi con gấu đã đi khỏi. Cô sóng bước cùng nó, còn Pantalaimon thì đi phía trước cả hai như để dẹp đường.

Khi họ tới bến cảng, Iorek Byrnison cúi đầu xuống rồi dùng móng tháo chiếc mũ sắt ra, để cho nó rơi đánh xoảng xuống mặt đất đóng băng. Dân du mục nhận thấy có biến bèn ùa ra khỏi quán cà phê và đứng nhìn trong ánh sáng lập loè của đèn mạch trên boong tàu. Trong lúc đó Iorek Byrnison rũ bỏ phần còn lại của bộ giáp rồi để nó chất đống trên bãi đất rìa bến cảng. Không nói không rằng, con gấu bước tới mặt nước rồi đầm mình vào đó mà không tạo ra một gợn sóng nào. Chẳng mấy chốc nó đã mất hút.

“Chuyện gì vậy?” Tony Costa hỏi, anh nghe thấy những giọng nói phẫn nộ từ khu phố phía trên khi dân thị trấn và cảnh sát tiến tới bến cảng.

Lyra kể lại câu chuyện một cách rõ ràng nhất có thể.

“Nhưng ông ta đi đâu mất rồi?” Anh hỏi. “Không phải ông ta tính cứ để mặc bộ giáp trên nền đất thế chứ? Họ mà tới đây là sẽ lấy lại nó ngay!”

Lyra cũng sợ rằng họ sẽ làm vậy, vì từ phía góc đường, viên cảnh sát đầu tiên đã xuất hiện, rồi thêm nhiều cảnh sát nữa, theo sau đó là Sysselman, thầy tu và hai hay ba mươi người đến xem, cùng với John Faa và Farder Coram đang cố đuổi kịp.

Nhưng khi thấy nhóm người trên bãi đất cảng họ liền dừng lại, vì có một người khác đã xuất hiện. Đang ngồi trên đống giáp của con gấu với chân này vắt lên chân kia là dáng người chân tay dài lòng thòng của Lee Scoresby, trong tay ông là khẩu súng lục dài nhất mà Lyra từng thấy nó đang thản nhiên chĩa vào cái bụng tròn quay của Sysselman.

“Tôi thấy có vẻ các vị không chăm sóc bộ giáp của ông bạn tôi tốt lắm nhỉ,” ông thân mật nói. “Trời ạ, nhìn cái đống gỉ sét này! Kể cả có tìm thấy mấy con ngài trong đó tôi cũng không lấy gì làm ngạc nhiên đâu. Giờ thì các vị cứ thoải mái đứng nguyên tại chỗ đi, không ai được cử động cho tới khi con gấu mang chút chất bôi trơn đến. Hoặc tôi nghĩ tất cả các vị có thể về nhà đọc báo cũng được. Tùy các vị.”

“Ông ta kia rồi!” Tony nói, chỉ về phía một con dốc phía tít cuối bến cảng, nơi Iorek Byrnison đang trồi dần lên khỏi mặt nước, kéo theo một thứ gì đó tối màu. Khi đã lên tới bờ, nó giũ người khiến những dải nước bự chảng bắn tung tóe, cho tới khi bộ lông dựng thẳng dậy dày dặn như cũ. Rồi nó cúi xuống ngoạm lấy vật thể màu đen và lôi tới chỗ bộ giáp. Đó là một con hải cẩu đã chết.

“Iorek,” người phi công khí cầu nói, uể oải đứng lên trong lúc vẫn giữ súng chĩa thẳng vào Sysselman. “Chào.”

Con gấu ngước lên nhìn rồi khẽ gầm gừ trước khi dùng một móng rạch toang con hải cẩu ra. Lyra ngây người nhìn nó lột da con hải cẩu rồi giật đứt vài dải mỡ mà sau đó nó dùng để chà lên khắp bộ giáp của mình, cẩn thận luồn vào cả chỗ các tấm kim loại chồng lên nhau.

“Ông đi cùng mấy người này à?” Con gấu vừa làm vừa hỏi Lee Scoresby.

“Phải. Tôi đoán cả hai chúng ta cùng được thuê rồi nhỉ, Iorek.”

“Khí cầu của ông đâu rồi?” Lyra hỏi người đàn ông Texas.

“Đóng gọn trên hai xe kéo rồi,” ông đáp. “Sếp đến rồi kìa.”

John Faa và Farder Coram, cùng với Sysselman, bước xuống bến cùng bốn cảnh sát vũ trang.

“Gấu!” Sysselman nói bằng một giọng cao đến chói tai. “Tạm thời, ngươi được phép khởi hành cùng với những người này. Nhưng để ta cho ngươi hay, nếu còn dám xuất hiện trong phạm vi thị trấn một lần nữa, đừng trách bọn ta không nương tay.”

Iorek Byrnison chẳng buồn để ý mà cứ tiếp tục bôi mỡ hải cẩu lên khắp bộ giáp; sự chu đáo và cẩn thận mà nó dành cho công việc này khiến Lyra nghĩ đến sự tận tụy của chính bản thân đối với Pantalaimon. Đúng y như lời con gấu đã nói: bộ giáp là linh hồn của nó. Sysselman và đám cảnh sát rút lui, những người dân thị trấn khác cũng dần bỏ đi, dù một vài người vẫn nán lại quan sát.

John Faa đưa hai tay lên miệng gọi: “Du mục!”

Tất cả bọn họ đều đã sẵn sàng di chuyển. Họ đã nóng lòng được khởi hành kể từ khi vừa lên bờ; xe trượt tuyết đã được chất đồ, chó kéo đã được thắng cương.

John Faa nói: “Đến giờ xuất phát rồi, các bạn. Giờ chúng ta đã tề tựu đầy đủ, con đường phía trước đã trải sẵn. Scoresby, ông xếp đồ xong rồi chứ?”

“Sẵn sàng đi rồi, thưa Ngài Faa.”

“Còn ông, Iorek Byrnison?”

“Đợi tôi mặc giáp đã,” con gấu đáp.

Nó đã bôi trơn bộ giáp xong xuôi. Không muốn lãng phí đống thịt hải cẩu, nó dùng răng nhấc lấy cái xác rồi hất lên phía sau chiếc xe kéo lớn hơn của Lee Scoresby trước khi khoác bộ giáp lên người. Cái cách con gấu giải quyết bộ giáp nhẹ nhàng như chơi quả thực đáng kinh ngạc: những tấm kim loại có vài chỗ phải dày đến gần một tấc mà con gấu vung nó lên rồi khoác vào mình như thể đó là một tấm áo choàng lụa mỏng manh vậy. Công việc đó tốn chưa đầy một phút, và lần này thì không hề có tiếng kêu chói tai của gỉ sắt nữa.

Vậy là trong vòng chưa đầy nửa giờ đồng hồ, đoàn thám hiểm đã lên đường về phía bắc. Dưới bầu trời lấp lánh hàng triệu ngôi sao và ánh trăng tỏa sáng rực rỡ, những chiếc xe kéo lao rầm rầm vào các rãnh đường và đá sỏi cho tới khi họ tới được vùng tuyết mịn bên rìa thị trấn. Sau đó âm thanh chuyển thành tiếng lạo xạo khe khẽ của tuyết và tiếng cót két của gỗ; lũ chó bắt đầu hăm hở dấn bước, chuyển động trở nên nhanh chóng và trôi chảy hơn.

Lyra, người quấn dày cộp đằng sau xe kéo của Farder Coram đến mức chỉ hở mỗi đôi mắt, thì thầm với Pantalaimon:

“Cậu có thấy Iorek không?”

“Ông ấy đang đi bên cạnh xe kéo của Lee Scoresby,” con linh thú trong dạng chồn ermine trả lời, ngoái lại phía sau trong lúc đang bám lấy mũ trùm đầu trên áo lông chồn gulo của cô bé.

Phía trước họ, trên các rặng núi về phía bắc, những vòng cung mờ ảo của Bắc Cực Quang bắt đầu tỏa sáng và rung rinh. Cô bé nhìn chúng qua đôi mắt mở hé, cảm thấy một cơn buồn ngủ râm ran trong nỗi hạnh phúc tột cùng vì được tiến về phía bắc dưới màn Cực Quang. Pantalaimon cố gắng cưỡng lại cơn buồn ngủ mạnh mẽ nhưng không thể, nó biến thành chuột rồi cuộn tròn người bên trong mũ trùm đầu của cô. Nó có thể kể với cô sau khi tỉnh dậy, mà đó có khi chỉ là một con chồn mactet, một giấc mơ, hay một loại thần linh địa phương vô hại nào đó; nhưng có thứ gì đấy đang theo đuôi đoàn xe kéo, nhẹ nhàng bay từ cành này sang cành khác trên những cây thông chụm sát lại nhau, và sinh vật đó khiến nó lo lắng nghĩ đến một con khỉ.