← Quay lại trang sách

- 12 - Cậu bé bị bắt cóc

Họ đi được vài tiếng đồng hồ thì dừng lại để ăn. Trong lúc những người khác nhóm lửa để rã tuyết lấy nước, Iorek Byrnison xem Lee Scoresby nướng thịt hải cẩu gần đó, John Faa nói với Lyra.

“Lyra, cháu có nhìn rõ được chiếc máy để đọc nó không?” Ông hỏi.

Mặt trăng đã lặn từ lâu. Ánh sáng từ Cực Quang sáng hơn ánh trăng nhưng lại không ổn định. Tuy nhiên, mắt của Lyra rất tinh. Cô bé lần trong bộ áo lông rồi lôi ra chiếc túi nhung đen.

“Có, cháu nhìn được ạ,” cô đáp. “Dù sao thì giờ cháu cũng đã biết vị trí hầu hết các biểu tượng rồi. Cháu nên hỏi nó điều gì, thưa Ngài Faa?”

“Ta muốn biết thêm về cách chúng phòng thủ pháo đài Bolvangar này,” ông nói.

Cô bé thậm chí chẳng cần suy nghĩ mà lập tức vặn kim chỉ về mũ sắt, con điểu sư, và chiếc nồi nấu kim loại. Cô thấy trí óc mình tập trung vào những ý nghĩa đúng như một biểu đồ ba chiều phức tạp. Cái kim dài ngay lập tức quay tròn, giật ngược lại, lại quay tròn xa thêm một chút, giống như một chú ong đang múa thông điệp của mình cho cả đàn. Cô điềm tĩnh quan sát, hài lòng với việc không biết kết quả ngay mà hiểu rằng một ý nghĩa đang dần xuất hiện, và rồi mọi thứ bắt đầu rõ ràng dần. Cô cứ để nó nhảy múa cho tới khi đã chắc chắn.

“Giống như linh thú của cô phù thủy đã nói, Ngài Faa ạ. Có một toán người Tartar đang canh gác trạm, chúng chăng dây thép khắp xung quanh đó nữa. Chúng không thật sự nghĩ rằng mình sẽ bị tấn công, đó là điều chiếc máy đọc biểu tượng nói. Nhưng Ngài Faa…”

“Gì vậy, cô bé?”

“Nó còn nói cho cháu một chuyện khác nữa. Tại thung lũng sắp tới có một ngôi làng bên hồ, người dân ở đó đang bị một con ma quấy phá.”

John Faa nôn nóng lắc đầu và nói: “Chuyện đó không quan trọng vào lúc này. Trong những khu rừng này kiểu gì cũng có đủ loại linh hồn. Hỏi lại lần nữa về bọn Tartar đi. Như chúng có bao nhiêu tên chẳng hạn? Chúng được trang bị vũ khí gì?”

Lyra ngoan ngoãn hỏi rồi báo cáo lại câu trả lời:

“Có sáu mươi tên dùng súng trường, chúng còn có vài khẩu súng lớn hơn kiểu dạng như đại bác. Chúng có cả máy ném lửa nữa. Và… linh thú của chúng đều là sói, nó nói vậy ạ.”

Câu nói đó khiến đám người du mục lớn tuổi, những người đã từng tham gia chiến dịch, xôn xao cả lên.

“Các trung đoàn Sibirsk có linh thú sói,” một người lên tiếng.

John Faa nói: “Tôi chưa từng gặp đám nào dữ tợn hơn thế. Chúng ta sẽ phải chiến đấu như những con mãnh hổ. Phải tham khảo ý kiến con gấu; ông ta là một chiến binh khôn ngoan đó.”

Lyra sốt ruột nói: “Nhưng Ngài Faa, con ma này - cháu nghĩ nó là hồn ma của một trong số những đứa trẻ!”

“Chà, kể cả nó có là vậy, Lyra ạ, ta cũng không biết liệu ai có thể làm gì về điều đó được không. Sáu mươi xạ thủ súng trường Sibirsk, và máy ném lửa… Ông Scoresby, ông có thể tới đây một chút được không?”

Trong lúc ông phi công tới chỗ chiếc xe kéo, Lyra lủi đi nói chuyện với con gấu.

“Iorek, ông đã từng đi đường này bao giờ chưa?”

“Một lần,” nó trả lời bằng giọng trầm đều đều.

“Gần đây có một ngôi làng đúng không?”

“Bên kia ngọn núi,” nó nói rồi nhìn lên qua những thân cây thưa thớt.

“Có xa không?”

“Với tôi hay với cô?”

“Với tôi,” cô đáp.

“Quá xa. Với tôi thì chẳng xa chút nào.”

“Vậy ông mất bao lâu để tới đó?”

“Trước lần trăng mọc tiếp theo, tôi có thể đến và về ba lần.”

“Nghe này, Iorek, bởi vì: tôi có một chiếc máy đọc biểu tượng có thể nói cho tôi biết nhiều chuyện, và nó nói rằng có một việc quan trọng tôi cần phải làm tại ngôi làng đó, nhưng Ngài Faa không để tôi đi. Ông ấy chỉ muốn tiến lên thật nhanh, và tôi cũng biết rằng điều đó quan trọng. Nhưng nếu tôi không đi tìm hiểu xem nó là cái gì, chúng ta có thể sẽ không biết được Những Kẻ háu ăn đang thực sự làm gì.”

Con gấu không nói gì cả. Nó đang ngồi thẳng lưng như người, đôi tay khổng lồ khoanh lại trong lòng, đôi mắt sẫm màu của nó nhìn vào mắt cô bé đang đứng dưới mõm mình. Nó biết cô bé muốn điều gì đó.

Pantalaimon lên tiếng: “Ông có thể đưa chúng tôi tới ngôi làng rồi sau đó đuổi theo đoàn xe kéo được không?”

“Được. Nhưng ta đã hứa với Ngài Faa là sẽ tuân lệnh ông ấy chứ không phải bất kì ai khác.”

“Nếu tôi xin phép được ông ấy thì sao?” Lyra hỏi.

“Thì không vấn đề gì.”

Cô bé quay người rồi chạy trở lại trên nền tuyết.

“Ngài Faa! Nếu Iorek Byrnison đưa cháu qua đỉnh núi tới ngôi làng, chúng cháu có thể tìm ra đó là gì, sau đó sẽ đuổi theo đoàn xe kéo. Ông ấy biết đường,” cô bé cố gắng thuyết phục. “Cháu đáng ra đã không yêu cầu việc này, chỉ vì nó giống với một việc cháu đã từng làm, Farder Coram, ông có nhớ vụ với con tắc kè hoa không? Lúc đó cháu đã không hiểu ý nghĩa của nó, nhưng đó là sự thật, và không lâu sau chúng ta đã tìm ra. Hiện giờ cháu cũng đang có cảm giác như vậy. Cháu không thể hiểu rõ nó nói gì, cháu chỉ biết rằng việc này rất quan trọng, Iorek Byrnison biết đường, ông ấy nói có thể đến đó và trở lại ba lần vào lần trăng mọc tiếp theo, mà ở cạnh ông ấy thì an toàn nhất rồi, đúng không ạ? Nhưng ông ấy không chịu đi nếu không có sự cho phép của Ngài Faa.”

Tất cả im lặng. Farder Coram thở dài. John Faa cau mày, môi mím chặt lại trong chiếc mũ trùm lông.

Nhưng trước khi ông kịp lên tiếng, người phi công khí cầu đã thêm vào:

“Ngài Faa, nếu Iorek Byrnison mang cô bé đi, cô bé sẽ được an toàn như khi ở đây với chúng ta. Toàn bộ loài gấu đều rất trung thành. Tôi đã quen biết Iorek hàng năm trời, và không gì dưới bầu trời này có thể khiến ông ta nuốt lời. Giao cho ông ta nhiệm vụ chăm sóc cô bé và ông ta sẽ làm thế, tôi chắc chắn. Còn về tốc độ, ông ta có thể phóng đi hàng giờ liền mà không thấy mệt.”

“Nhưng sao không để vài người đàn ông khác đi?” John Faa hỏi.

“Thì họ sẽ phải đi bộ,” Lyra chỉ ra, “vì chúng ta đâu thể chạy xe kéo qua đỉnh núi được. Iorek Byrnison có thể đi nhanh hơn bất cứ ai trên địa hình đó, còn cháu thì đủ nhẹ để không làm giảm tốc độ của ông ấy. Cháu hứa đấy, Ngài Faa, cháu hứa sẽ không ở lâu hơn cần thiết, và không để lộ bất cứ thông tin gì về chúng ta, hay rơi vào bất cứ nguy hiểm nào.”

“Cháu chắc chắn cần phải làm việc này sao? Cái máy đọc biểu tượng không đánh lừa cháu đấy chứ?”

“Không bao giờ, Ngài Faa ạ, mà cháu cũng không nghĩ nó có thể làm thế.”

John Faa xoa cằm.

“Chà, nếu mọi việc ổn thoả, chúng ta sẽ có thêm một chút kiến thức so với bây giờ. Iorek Byrnison,” ông gọi, “ông có muốn làm theo lời cô bé này không?”

“Tôi nghe theo lệnh của ông, Ngài Faa. Cứ bảo tôi đưa đứa trẻ đến đó, và tôi sẽ làm theo.”

“Tôi hiểu rồi. Ông sẽ đưa cô bé đến nơi nó muốn đi và làm theo điều nó bảo. Lyra, giờ ta sẽ ra lệnh cho cháu, cháu hiểu chứ?”

“Vâng, thưa Ngài Faa.”

“Cháu đi tìm hiểu điều đó, và khi tìm ra rồi phải lập tức quay trở lại. Iorek Byrnison, vào lúc đó chúng tôi đã lên đường rồi, nên ông sẽ phải đuổi theo đoàn.”

Con gấu gật cái đầu đồ sộ của mình.

“Có lính tráng gì trong làng không?” Con gấu hỏi Lyra. “Tôi có cần giáp không? Chúng ta sẽ đi nhanh hơn nếu không có nó.”

“Không,” cô bé đáp. “Tôi chắc chắn điều đó, Iorek ạ. Cảm ơn Ngài Faa, cháu xin hứa sẽ làm đúng theo lời ông.”

Tony Costa đưa cho cô bé một miếng thịt hải cẩu phơi khô để nhai. Cùng với Pantalaimon dưới dạng chuột trong mũ trùm, Lyra leo lên lưng con gấu khổng lồ, tóm chặt lấy bộ lông bằng đôi tay đeo găng và kẹp hai đầu gối vào tấm lưng hẹp nhưng cuồn cuộn cơ bắp của nó. Bộ lông của nó dày đến đáng kinh ngạc. Cảm giác về một sức mạnh vô hạn từ con gấu khiến cô choáng ngợp, như thể cô chẳng hề nặng chút nào vậy. Nó quay người lao đi thành từng sải dài về phía đỉnh núi và vào trong rặng cây thấp.

Phải mất một lúc cô bé mới quen với cử động của con gấu, đến lúc đó cô cảm thấy một sự hứng khởi tột độ. Cô đang cưỡi một con gấu! Cực Quang đang đung đưa trên đầu họ thành những dải hình cung và tròn lấp lánh vàng. Bốn bề xung quanh là cái lạnh cắt da cắt thịt của vùng cực và sự tĩnh mịch mênh mang của Phương Bắc.

Bàn chân của Iorek Byrnison gần như không tạo ra tiếng động nào khi di chuyển trên tuyết. Cây cối ở đây rất thưa thớt và còi cọc, vì chúng nằm trên vùng rìa của lãnh nguyên, nhưng trên đường đi cũng có những bụi mâm xôi và bụi gai. Con gấu đâm xuyên qua chúng như thể chúng chỉ là đám mạng nhện vậy.

Họ trèo lên đỉnh núi thấp, giữa những lớp đá đen trồi lên xung quanh. Chẳng mấy chốc đoàn người phía sau đã khuất khỏi tầm mắt. Lyra muốn nói chuyện với con gấu, nếu nó là con người thì cô bé hẳn đã trở nên thân thiết với nó lắm rồi; nhưng con gấu thật kì lạ, hoang dã và lạnh lùng đến mức khiến cô gần như là lần đầu tiên trong cuộc đời cảm thấy ngượng ngùng. Vậy là trong lúc nó phóng đi, hai đôi chân đồ sộ hoạt động không mệt mỏi, cô bé ngồi đu đưa theo từng chuyển động và không nói gì. Có lẽ nó thích như thế hơn, cô bé nghĩ; chắc hẳn trông cô chẳng khác gì một con gấu con ngờ nghệch chỉ vừa qua khỏi tuổi sơ sinh trong mắt một con gấu mặc giáp.

Trước đây cô rất hiếm khi suy xét về bản thân, cô thấy trải nghiệm này thú vị nhưng cũng khá là không thoải mái; thật ra nó rất giống với việc cưỡi trên lưng một con gấu. Iorek Byrnison đang phi nhanh, cùng một lúc di chuyển cả hai chân ở cùng một phía của cơ thể, người lắc lư từ bên này sang bên kia trong một nhịp điệu đều đặn và mạnh mẽ. Cô bé nhận ra mình không thể chỉ ngồi không được: cô phải cưỡi một cách chủ động.

Họ đã đi được một giờ hoặc hơn thế, cả người Lyra cứng đờ và đau nhức. Cô thấy hạnh phúc vô cùng khi Iorek Byrnison giảm tốc rồi dừng lại.

“Nhìn lên kia kìa,” nó nói.

Lyra ngước lên nhìn nhưng lại phải dùng má trong của cổ tay quẹt mắt đi vì cô đang bị lạnh đến nỗi nước mắt đã làm mờ tầm nhìn. Khi có thể nhìn rõ, cô bé há hốc mồm trước cảnh tượng trên bầu trời. Vầng Cực Quang đã nhòa thành một dải sáng vàng lờ mờ rung rinh, nhưng những ngôi sao lại sáng rõ như những viên kim cương. Ngang qua mái vòm tối thẫm rải kim cương vĩ đại, hàng trăm hàng nghìn bóng hình màu đen nhỏ xíu đang bay ra từ phía đông và nam, hướng về phía bắc.

“Chúng là chim à?” Cô hỏi.

“Phù thủy đấy,” con gấu đáp.

“Phù thủy! Họ đang làm gì vậy?”

“Bay đi tham chiến, có lẽ vậy. Tôi chưa từng thấy cùng một lúc nhiều phù thủy thế này.”

“Ông có quen phù thủy nào không, Iorek?”

“Tôi đã phục vụ vài người. Và chiến đấu với vài người nữa. Cảnh tượng này sẽ khiến Ngài Faa phải kinh hãi. Nếu họ đang bay tới trợ giúp cho kẻ thù của các cô, tất cả các cô đều nên e sợ.”

“Ngài Faa sẽ không sợ đâu. Ông không sợ đúng không?”

“Chưa. Đến lúc đó ta sẽ làm chủ nỗi sợ. Nhưng chúng ta nên nói với Ngài Faa về các phù thủy, vì đám đàn ông có thể đã không nhìn thấy họ.”

Con gấu tiến tới chậm hơn, còn cô bé tiếp tục nhìn bầu trời cho tới khi đôi mắt cô lại nhòa đi vì nước mắt do cái lạnh tạo nên. Đoàn phù thủy đang bay về hướng bắc dường như kéo dài vô tận.

Cuối cùng Iorek Byrnison cũng dừng lại và nói: “Ngôi làng kia rồi.”

Họ đang nhìn xuống một con dốc gồ ghề mấp mô hướng tới một cụm những tòa nhà bằng gỗ bên cạnh khoảng tuyết rộng phẳng lì, phẳng đến mức Lyra cho rằng đó là một cái hồ đóng băng. Một cầu tàu bằng gỗ cho thấy rằng cô đã đoán đúng. Họ đang ở cách địa điểm đó không quá năm phút đường.

“Cô muốn làm gì?” Con gấu hỏi.

Lyra tuột khỏi lưng nó và thấy mình đứng không vững. Mặt cô cứng lại vì lạnh còn đôi chân thì đang run lẩy bẩy, cô liền bám vào bộ lông của con gấu rồi giậm chân cho tới khi cảm thấy khỏe lên.

“Có một đứa trẻ, một con ma hay một thứ gì đấy bên dưới ngôi làng đó,” cô đáp, “hoặc có thể là ở gần đó, tôi không chắc lắm. Tôi muốn đi tìm nó và dẫn nó về cho Ngài Faa và những người khác nếu có thể. Tôi nghĩ nó là một con ma, nhưng chiếc máy đọc biểu tượng có thể đã nói cho tôi một điều mà tôi không hiểu được.”

“Nếu nó ở bên ngoài,” con gấu nói, “nó nên có chỗ nào đó trú.”

“Tôi không nghĩ nó đã chết…” Lyra nói nhưng không hề dám chắc về điều đó. Chiếc Chân Kế đã biểu lộ một thứ gì đó kì lạ và trái tự nhiên, điều đó khiến cô hoảng sợ; nhưng cô là ai chứ? Là con gái của Ngài Asriel. Còn ai ở dưới quyền của cô? Một con gấu hùng mạnh. Sao cô có thể để lộ nỗi sợ của mình được?

“Chúng ta đi xem thôi,” cô nói.

Cô bé trèo lại lên lưng gấu, và nó bắt đầu đi xuống con dốc gập ghềnh, lần này không chạy nữa mà chỉ bước đi một cách đều đặn. Lũ chó của làng đánh hơi được hoặc nghe thấy hay cảm nhận rằng họ đang đến, liền tru lên hoảng sợ; đám tuần lộc trong khu đất bị rào bồn chồn đi qua đi lại, những bộ sừng va vào nhau chan chát như củi khô. Trong không khí tĩnh lặng, mọi cử động có thể được nghe thấy từ khoảng cách xa.

Khi họ tới được căn nhà đầu tiên, Lyra nhìn trái nhìn phải, chăm chú nhòm vào ánh sáng lờ mờ vì Cực Quang đã tan dần và trăng thì còn lâu mới mọc. Đây đó le lói một nguồn sáng lập loè dưới mái nhà phủ dày tuyết. Lyra nghĩ cô đã thấy những khuôn mặt nhợt nhạt đằng sau vài khung cửa sổ, và tưởng tượng ra sự kinh ngạc của họ khi thấy một đứa trẻ cưỡi trên con gấu trắng vĩ đại.

Ở trung tâm của ngôi làng nhỏ có một khoảng không gian mở bên cạnh cầu tàu, nơi tàu bè đã được kéo lên thành từng đống dưới tuyết. Lũ chó đang sủa inh ỏi. Khi Lyra vừa nghĩ rằng tiếng ồn hẳn đã đánh thức cả làng thì một cánh cửa bật mở, một người đàn ông bước ra với khẩu súng trường trên tay. Con linh thú chồn gulo của ông ta nhảy lên đống củi bên cạnh cửa khiến tuyết bắn tung tóe.

Lyra lập tức tuột xuống rồi đứng giữa ông ta và Iorek Byrnison, ý thức được rằng chính cô đã nói với con gấu là không cần dùng đến bộ giáp.

Người đàn ông nói những từ mà cô không hiểu. Iorek Byrnison trả lời lại bằng cùng một thứ ngôn ngữ, và ông ta rên lên sợ sệt.

“Ông ta nghĩ chúng ta là ma quỷ,” Iorek nói với Lyra. “Tôi nên nói gì đây?”

“Nói với ông ta chúng ta không phải ma quỷ, nhưng chúng ta có bạn như vậy. Và chúng ta đang tìm kiếm… Chỉ là một đứa trẻ thôi. Một đứa trẻ kì lạ. Nói với ông ta như vậy.”

Ngay khi con gấu vừa nói vậy, người đàn ông liền chỉ về bên phải, ám chỉ một nơi cách xa chỗ đó, và nói vội vàng.

Iorek Byrnison dịch lại: “Ông ta hỏi có phải chúng ta tới đưa đứa trẻ đi không. Họ sợ nó. Họ đã cố đuổi nó đi, nhưng nó cứ liên tục quay lại.”

“Nói với ông ta chúng ta sẽ đưa nó đi cùng, nhưng họ thật xấu vì đã đối xử với nó như thế. Nó ở đâu?”

Người đàn ông giải thích, hoảng hốt khoa tay múa chân. Lyra cứ sợ ông ta sẽ lỡ tay bóp cò, nhưng khi vừa nói xong ông liền vội vàng chạy vào trong nhà rồi đóng cửa lại. Lyra có thể thấy những gương mặt hiện lên trên mọi ô cửa sổ.

“Đứa trẻ ở đâu?” Cô bé hỏi.

“Trong nhà chứa cá,” con gấu nói với cô rồi quay người bước xuống phía cầu tàu.

Lyra đi theo. Cô đang căng thẳng tột độ. Con gấu tiến đến một cái lán gỗ hẹp, nghếch đầu lên hít hà đủ hướng, rồi khi họ tới trước cửa, nó dừng lại và nói: “Trong đó.”

Tim Lyra đập nhanh đến mức cô gần như không thể thở nổi. Cô bé đưa tay lên gõ cửa và rồi, cảm thấy việc đó thật nực cười, liền lấy một hơi thật dài để gọi, nhưng lại nhận ra mình chẳng biết phải nói gì. Ồ, trời đã tối mất rồi! Đáng ra cô nên mang theo đèn lồng…

Chẳng còn cách nào khác, mà cô cũng không muốn con gấu thấy mình đang sợ hãi. Nó đã nói về việc làm chủ nỗi sợ; đó là thứ cô sẽ phải làm. Cô nhấc chiếc đai da tuần lộc giữ then cửa lên rồi giật mạnh để làm bung lớp băng kết dính giữa khe cửa. Cánh cửa bật tung ra. Cô phải đạp đống tuyết chất dày dưới chân cửa sang một bên mới có thể kéo rộng nó ra được, mà Pantalaimon thì chẳng phụ được gì, chỉ chạy tới chạy lui trong hình dạng chồn ermine, một cái bóng trắng trên nền đất trắng xoá, khẽ phát ra những tiếng kêu hoảng hốt.

“Pan, vì Chúa!” Cô thốt lên. “Biến thành dơi đi. Vào trong xem xét cho tớ…”

Nhưng Pantalaimon không làm thế, mà cũng chẳng nói chẳng rằng. Cô chưa từng thấy nó như thế bao giờ trừ một lần, khi cô và Roger xuống dưới hầm mộ ở Jordan và tráo những đồng xu linh thú vào các hộp sọ vốn không phải của chúng. Pantalaimon còn hoảng sợ hơn cả cô nữa. Về phần Iorek Byrnison, nó đang nằm dưới tuyết, quan sát trong im lặng.

“Ra đi,” Lyra cố gắng nói bằng giọng to nhất mà cô dám phát ra. “Ra đi!” Chẳng có âm thanh nào đáp lại. Cô bé vừa kéo cửa rộng ra một chút nữa thì Pantalaimon nhảy vọt lên vòng tay cô, đẩy lấy đẩy để vào người cô trong dạng mèo và nói: “Đi thôi! Đừng ở lại đây! Ôi, Lyra, đi ngay thôi! Quay lại đi!”

Trong lúc đang cố giữ im con linh thú, cô bé nhận thấy Iorek Byrnison vừa đứng dậy và quay lại nhìn một bóng người đang vội vã lao xuống con đường từ làng, mang theo một chiếc đèn lồng. Khi đã tới đủ gần để nói, ông giơ chiếc đèn lên và giữ để nó chiếu sáng lên khuôn mặt mình: đó là một ông già với bản mặt to và nhăn nheo, đôi mắt gần như mất hút trong hàng nghìn nếp nhăn. Linh thú của ông là một con cáo Bắc Cực.

Ông nói, rồi Iorek Byrnison thuật lại:

“Ông ta nói rằng đó không phải là đứa trẻ duy nhất thuộc dạng này. Ông ta đã thấy những đứa khác trong rừng. Có lúc chúng chết đi rất nhanh, nhưng có khi lại không chết. Đứa này rất khó nhằn, ông nghĩ vậy. Nhưng sẽ tốt hơn cho nó nếu nó chết.”

“Hỏi ông ta xem liệu tôi có thể mượn đèn lồng của ông ta không,” Lyra nói.

Con gấu vừa nói là người đàn ông lập tức đưa cái đèn cho cô, đầu gật lia lịa. Cô nhận ra rằng ông ta đến để mang nó cho cô nên đã cảm ơn ông. Ông già gật đầu một cái nữa rồi đứng lùi lại, tránh xa cô bé và cái lán, tránh xa cả con gấu.

Lyra đột nhiên nghĩ: nếu đứa trẻ là Roger thì sao? Nghĩ vậy, cô liền tập trung hết tinh thần và cầu nguyện rằng sẽ không phải như vậy. Pantalaimon, đã hóa lại thành chồn ermine, đang bám chặt lấy cô, những cái móng nhỏ xíu của nó cắm sâu vào lớp áo choàng.

Cô bé nâng chiếc đèn lên cao rồi bước vào trong lán. Cô liền thấy việc mà Ủy ban Hiến tế đang làm, và bản chất của việc hiến tế trẻ con sẽ dẫn đến điều gì.

Thằng bé đang rúc vào cái giá phơi bằng gỗ treo hàng dải cá đã được rút ruột, tất cả đều cứng đờ như đá. Nó đang ôm ghì vào người một miếng cá như Lyra đang ôm lấy Pantalaimon, bằng hai tay, thật chặt, vào tim mình; nhưng đó là tất cả những gì mà nó có, một miếng cá khô; vì thằng bé không hề có linh thú. Những Kẻ háu ăn đã cắt nó. Đó là phẫu thuật cắt đứt, còn đây là một đứa trẻ bị cắt.