- 3 - Thế giới của trẻ con
Lyra dậy sớm. Cô bé đã có một giấc mơ tồi tệ: cô được nhận cái bình hút chân không mà mình từng thấy Ngài Asriel cho Hiệu trưởng và các Học giả của Học viện Jordan xem.
Khi chuyện đó thực sự xảy ra, Lyra đang trốn trong tủ quần áo, cô đã quan sát Ngài Asriel mở cái bình để cho các Học giả xem cái đầu đứt lìa của Stanislaus Grumman, nhà thám hiểm bị mất tích; nhưng trong giấc mơ của mình, Lyra phải tự mở cái bình ra, mà cô bé không muốn làm vậy. Thật ra cô đã rất hoảng sợ, nhưng cô phải làm việc đó dù có muốn hay không. Cô bé cảm thấy đôi tay mình yếu đi vì kinh hãi khi mở nắp ra, và nghe thấy tiếng không khí ùa vào khoảng không đóng băng. Rồi cô nhấc cái nắp lên, suýt nghẹt thở vì sợ, nhưng ý thức được rằng cô phải làm, cô phải làm việc này. Nhưng chẳng có gì bên trong cả. Cái đầu đã biến mất. Chẳng có gì phải sợ hãi cả.
Mặc dù vậy cô vẫn bật tỉnh, gào thét và đổ mồ hôi đầm đìa, trong căn phòng ngủ nhỏ nóng nực nhìn ra cảng biển, với ánh trăng tuôn chảy qua ô cửa sổ. Cô bé đang nằm trên giường của một ai đó, ôm gối của người nào đấy, bên chú chồn ermine Pantalaimon đang rúc vào mình và thở đều đều dễ chịu. Ôi, thật đáng sợ làm sao! Mà chuyện này thật kì lạ, trong thực tại cô đã rất háo hức được thấy đầu của Stanislaus Grumman, còn năn nỉ Ngài Asriel mở cái bình ra một lần nữa để cô được nhìn, vậy mà trong giấc mơ cô lại kinh hãi đến vậy.
Khi trời sáng, cô hỏi chiếc Chân Kế về ý nghĩa của giấc mơ, nhưng tất cả những gì nó nói là Đó là giấc mơ về một cái đầu.
Cô bé nghĩ đến việc đánh thức cậu bé lạ kia, nhưng cậu đang ngủ ngon lành nên cô quyết định không làm vậy. Thay vào đó, cô xuống dưới bếp và thử làm trứng tráng. Hai mươi phút sau, cô ngồi xuống chiếc bàn trên vỉa hè và ăn cái thứ cháy đen, lạo xạo một cách đầy tự hào trong lúc con chim sẻ Pantalaimon mổ mổ những mẩu vỏ trứng.
Lyra nghe thấy tiếng động phía sau lưng, rồi Will xuất hiện với đôi mắt nặng trĩu vì ngủ.
“Tớ có thể làm trứng tráng này,” cô nói. “Nếu cậu muốn tớ sẽ làm cho cậu một ít.”
Cậu bé nhìn đĩa của cô và nói: “Thôi, tớ sẽ ăn ngũ cốc. Trong tủ lạnh vẫn còn sữa chưa hỏng. Họ chắc mới chỉ rời khỏi đây thôi, những người sống ở đây ấy.”
Cô nhìn cậu bé rắc bỏng ngũ cốc vào một cái bát rồi đổ sữa lên chúng: lại một thứ cô chưa nhìn thấy bao giờ.
Cậu mang cái bát ra ngoài và nói: “Nếu cậu không đến từ thế giới này thì thế giới của cậu ở đâu? Làm thế nào cậu đến được đây?”
“Qua một cây cầu. Cha tớ đã dựng nên cây cầu này, rồi… tớ đi qua theo ông ấy. Nhưng ông ấy đã đi đâu mất mà tớ không biết. Tớ cũng chẳng bận tâm lắm. Nhưng trong lúc đi sang, ở đó dày đặc sương mù nên tớ đã bị lạc, có lẽ vậy. Tớ đã đi quanh quẩn trong đám sương nhiều ngày trời mà chỉ ăn quả mọng và vài thứ tìm được. Rồi một ngày sương tan và chúng tớ đang đứng trên vách núi ở đó…”
Cô bé chỉ về phía sau lưng mình. Will nhìn dọc theo bãi biển, qua ngọn hải đăng, và thấy bờ biển dâng cao lên thành một dãy những vách đá đang dần chìm vào nền trời xa xăm.
“Rồi chúng tớ thấy thị trấn này và đi xuống, nhưng chẳng có ai ở đây cả. Ít nhất thì cũng có đồ để ăn và giường để ngủ. Chúng tớ không biết tiếp theo nên làm gì.”
“Cậu có chắc đây không phải một phần nào đó của thế giới mình không?”
“Đương nhiên. Đây không phải thế giới của tớ, tớ biết chắc chắn đấy.”
Will nhớ lại cảm giác chắc chắn tuyệt đối mà mình có khi nhìn vào mảng cỏ qua ô cửa trên không trung, rằng nó không thuộc về thế giới của cậu, và cậu gật đầu.
“Vậy là có ít nhất ba thế giới nối thông với nhau,” cậu bé nhận xét.
“Có hàng triệu hàng triệu cái ấy chứ,” Lyra nói. “Một con linh thú nọ đã nói cho tớ biết. Nó là linh thú của phù thủy. Không ai có thể đếm được có bao nhiêu thế giới, tất cả đều ở trong một không gian, nhưng không ai có thể đi từ thế giới này sang thế giới kia trước khi cha tớ dựng nên cây cầu.”
“Vậy còn cái cửa sổ mà tớ đã tìm thấy thì sao?”
“Cái đó thì tớ không biết. Có khi tất cả các thế giới đang bắt đầu dịch chuyển vào nhau.”
“Vậy còn lí do cậu đi tìm bụi?”
Cô bé lạnh lùng nhìn cậu. “Một lúc nào đó tớ có thể sẽ kể cho cậu,” cô đáp.
“Được rồi. Nhưng cậu định tìm nó như thế nào?”
“Tớ sẽ tìm một học giả biết về nó.”
“Hả, học giả nào cũng được à?”
“Không. Một nhà thần học thực nghiệm cơ,” cô nói. “Ở Oxford của tớ, họ là những người biết về nó. Nên theo logic thì ở Oxford của cậu cũng vậy. Tớ sẽ tới Học viện Jordan trước, vì Jordan là học viện tốt nhất.”
“Tớ chưa từng nghe tới thần học thực nghiệm,” cậu nói.
“Họ biết tất cả về các hạt và lực cơ bản,” cô giải thích. “Cả hiện tượng mạch từ, những thứ kiểu như vậy. Năng lượng nguyên tử nữa.”
“Hiện tượng cái gì từ cơ?”
“Mạch từ. Giống như mạch ấy. Mấy cái đèn kia,” cô chỉ lên ngọn đèn đường trang trí, “chúng là đèn mạch.”
“Chúng tớ thì gọi là đèn điện.”
“Điện à… Nghe giống điện thạch nhỉ. Đó là một loại đá, một thứ đồ trang sức làm từ nhựa cây. Thỉnh thoảng có cả côn trùng trong đó nữa.”
“Ý cậu là hổ phách,” cậu bé nói, rồi cả hai cùng đồng thanh: “Phách… mạch…”
Cả hai đứa đều nhìn thấy biểu cảm của chính mình trên gương mặt của người còn lại. Mãi về sau Will vẫn còn ghi nhớ khoảnh khắc đó.
“Vậy là điện từ à,” cậu nói tiếp trong lúc nhìn đi chỗ khác. “Nghe giống như thứ chúng tớ gọi là vật lí học thì các cậu lại gọi là thần học thực nghiệm. Cậu sẽ cần các nhà khoa học chứ không phải nhà thần học đâu.”
“À thì,” cô bé thận trọng nói. “Tớ sẽ đi tìm họ.”
Hai đứa trẻ ngồi trong buổi sáng thoáng đãng, mặt trời bình lặng tỏa sáng lấp lánh trên bến cảng. Có lẽ sau đó mỗi đứa trong chúng đều sẽ lên tiếng vì cả hai đều đang nhức nhối muốn được hỏi; nhưng đúng lúc đó chúng nghe thấy một tiếng nói vọng lại từ xa dọc theo con đường đi dạo bên cảng, về phía những khu vườn của khu sòng bạc.
Cả hai liền giật mình quay về hướng đó. Đó là giọng một đứa trẻ, nhưng chẳng có ai ở đó cả.
Will khẽ nói với Lyra: “Cậu nói cậu đã ở đây bao lâu rồi ấy nhỉ?”
“Ba ngày, bốn, tớ không đếm nổi nữa. Tớ chưa từng thấy ai cả. Chẳng có ai ở đây hết. Tớ đã kiểm tra gần như mọi chỗ rồi.”
Nhưng hóa ra lại có. Hai đứa trẻ, một đứa con gái tầm tuổi Lyra và đứa còn lại là một bé trai nhỏ tuổi hơn, bước ra từ một trong những con phố dẫn tới cảng. Chúng mang theo những cái giỏ, cả hai đứa đều có mái tóc đỏ. Chúng đến cách khoảng một trăm mét thì nhìn thấy Will và Lyra đang ngồi bên bàn quán cà phê.
Pantalaimon biến từ chim sẻ vàng sang dạng chuột rồi chạy lên cánh tay Lyra để trốn vào túi áo cô. Nó nhận thấy rằng những đứa trẻ mới đến này cũng giống như Will: không ai trong số chúng có linh thú hữu hình.
Hai đứa trẻ lại gần rồi ngồi xuống cái bàn cạnh đó.
“Các cậu đến từ Ci’gazze à?” Đứa con gái hỏi.
Will lắc đầu.
“Từ Sant’Elia?”
“Không,” Lyra nói. “Chúng tớ đến từ nơi khác.”
Đứa con gái gật đầu. Đó là một câu trả lời hợp lí.
“Có chuyện gì vậy?” Will hỏi. “Người lớn đâu hết rồi?”
Đứa con gái nheo mắt lại. “Bọn Quỷ hút hồn không đến thành phố của cậu à?” Nó hỏi.
“Không,” Will đáp. “Chúng tớ mới đến đây. Chúng tớ không biết gì về Quỷ hút hồn hết. Thành phố đó tên là cái gì cơ?”
“Ci’gazze,” đứa con gái ngờ vực trả lời. “Được rồi, là Cittàgazze.”
“Cittàgazze,” Lyra nhắc lại. “Ci’gazze. Tại sao người lớn lại phải bỏ đi vậy?”
“Vì lũ Quỷ hút hồn,” con bé ngán ngẩm đáp. “Tên các cậu là gì?”
“Lyra. Cậu ấy là Will. Còn các cậu?”
“Angelica. Em trai tớ là Paolo.”
“Các cậu từ đâu tới?”
“Trên những quả đồi. Một đợt sương mù và bão lớn kéo đến khiến mọi người hoảng sợ, nên tất cả chúng tớ đều bỏ chạy lên đồi. Sau đó khi sương mù tan, những người lớn có thể thấy qua kính viễn vọng rằng thành phố đang đầy kín lũ Quỷ hút hồn, nên họ không thể trở về. Nhưng trẻ con chúng tớ không hề sợ Quỷ hút hồn. Những đứa khác cũng đang đến. Họ sẽ tới đây sau, chúng tớ đến đầu tiên.”
“Chúng tớ và Tullio,” Paolo bé nhỏ tự hào nói.
“Tullio là ai cơ?”
Điều đó khiến Angelica cáu: đáng ra Paolo không nên nhắc tới anh ta; nhưng giờ thì lộ bí mật mất rồi.
“Anh lớn của chúng tớ,” con bé đáp. “Anh ấy không đi cùng chúng tớ. Anh ấy đang trốn chừng nào còn có thể… Anh ấy chỉ đang trốn thôi.”
“Anh ấy sẽ lấy…” Paolo lên tiếng nhưng liền bị Angelica đánh cho một phát thật mạnh. Nó lập tức ngậm miệng, đôi môi run rẩy mím chặt lại với nhau.
“Các cậu đã nói gì về thành phố cơ?” Will hỏi. “Nó đầy Quỷ hút hồn sao?”
“Phải, Ci’gazze, Sant’Elia, tất cả các thành phố, lũ Quỷ hút hồn đi tới nơi nào có người. Các cậu từ đâu tới?”
“Winchester,” Will đáp.
“Chưa nghe thấy bao giờ. Ở đó không có Quỷ hút hồn à?”
“Không. Ở đây tớ cũng đâu thấy có con nào.”
“Đương nhiên là không rồi!” Angelica kêu lên. “Cậu chưa trưởng thành mà! Khi nào lớn lên chúng ta mới nhìn thấy Quỷ hút hồn.”
“Em không sợ Quỷ hút hồn, đảm bảo luôn,” cậu nhóc nói, chìa cái cằm bẩn thỉu của mình ra. “Xử hết lũ đáng ghét đó đi.”
“Người lớn sẽ không về nữa à?” Lyra hỏi.
“Có chứ, vài ngày nữa,” Angelica đáp. “Khi đám Quỷ hút hồn đi chỗ khác. Chúng tớ rất thích khi lũ Quỷ này đến, vì chúng tớ có thể chạy quanh thành phố, làm những gì mình thích, thật đấy.”
“Nhưng người lớn nghĩ đám Quỷ hút hồn sẽ làm gì họ?” Will hỏi.
“À, lúc Quỷ hút hồn bắt được người lớn thì nhìn kinh lắm. Chúng sẽ lập tức nuốt gọn sinh lực của người đó ngay tại đấy luôn, thật đấy. Chắc chắn là tớ không muốn lớn lên rồi. Đầu tiên họ biết được rằng chuyện đó đang xảy ra, rồi họ sợ hãi, khóc lóc, họ cố gắng nhìn tránh đi và giả bộ như nó không hề xảy ra, nhưng đã quá muộn. Hơn nữa, sẽ chẳng có ai dám lại gần họ, họ hoàn toàn đơn độc. Sau đó da họ bắt đầu nhợt nhạt và họ ngừng cử động. Họ vẫn sống, nhưng kiểu như đã bị ăn rỗng từ bên trong vậy. Khi nhìn vào mắt họ, người ta sẽ nhìn xuyên tới phía sau đầu luôn. Chẳng có gì ở đó cả.”
Con bé quay sang cậu em rồi dùng tay áo của thằng bé lau mũi cho nó.
“Tớ và Paolo định đi kiếm kem,” nó nói. “Các cậu có muốn đi cùng không?”
“Thôi,” Will đáp, “bọn tớ có việc khác cần làm rồi.”
“Vậy thì chào nhé,” nó nói, rồi đến Paolo: “Xử bọn Quỷ hút hồn đi!”
“Tạm biệt,” Lyra nói.
Ngay khi Angelica và cậu nhóc vừa biến mất, Pantalaimon liến ló ra khỏi túi áo Lyra, cái đầu chuột của nó xù lên còn đôi mắt sáng rực.
Nó nói với Will: “Họ không biết về cái cửa sổ mà cậu tìm thấy.”
Đó là lần đầu tiên Will nghe thấy Pantalaimon nói, điều đó khiến cậu giật mình hơn tất cả những thứ từng chứng kiến. Lyra phá lên cười trước vẻ kinh ngạc của cậu.
“Nó - nó nói được - linh thú nào cũng nói được cả à?” Will hỏi.
“Đương nhiên rồi!” Lyra đáp. “Cậu nghĩ cậu ấy chỉ là một con thú cưng thôi sao?”
Will xoa xoa tóc và chớp mắt. Rồi cậu lắc đầu. “Không,” cậu nói với Pantalaimon. “Cậu nói đúng, tớ nghĩ vậy. Họ không biết về nó.”
“Vậy chúng ta nên cẩn thận với cách mình đi qua,” Pantalaimon nói.
Nói chuyện với chuột cũng kì lạ thật đấy, nhưng chỉ một lúc thôi. Sau đó nó cũng không kì lạ hơn mấy so với việc nói vào ống điện thoại, vì thực ra người cậu đang nói chuyện cùng là Lyra. Nhưng con chuột lại tách rời khỏi cô bé; trong biểu hiện của nó có phần nào đó của Lyra, nhưng lại là một phần rất khác. Thật khó có thể suy tính cặn kẽ được khi có quá nhiều điều lạ lùng cùng xảy ra một lúc. Will cố gắng khớp nối các suy nghĩ lại với nhau.
“Cậu cần phải kiếm ít quần áo đã,” cậu nói với Lyra, “trước khi vào Oxford của tớ.”
“Vì sao?” Cô bướng bỉnh hỏi.
“Vì cậu không thể đi bắt chuyện với người ở thế giới tớ trong cái bộ dạng như thế được, người ta sẽ không để cậu đến gần đâu. Cậu phải trông như người ở thế giới đó chứ. Cậu phải ngụy trang. Nghe này, tớ biết rõ việc này. Tớ đã làm thế hàng năm trời rồi. Cậu nên lắng nghe tớ nếu không muốn bị tóm. Nhỡ mà họ tìm ra nơi cậu xuất thân, về cái cửa sổ và mọi thứ… Nói chung, thế giới này là một nơi ẩn náu khá tốt. Nghe này, tớ… tớ phải trốn một vài người. Đây là chỗ trốn lí tưởng nhất mà tớ có thể mơ tới, và tớ không muốn nó bị phát hiện. Vì vậy tớ không muốn cậu làm lộ nơi này bằng vẻ ngoài chẳng giống ai hay trông như thể cậu không thuộc về nơi đó. Tớ cũng có việc cần làm ở Oxford nên cậu mà dám để lộ, tớ sẽ giết cậu.”
Lyra nuốt nước miếng. Chiếc Chân Kế không bao giờ nói dối: cậu chàng này chính là một kẻ giết người, và nếu đã từng giết người, cậu ta cũng có thể giết cả cô nữa. Cô bé nghiêm túc gật đầu, hoàn toàn thật lòng.
“Được rồi,” cô nói.
Pantalaimon đã biến thành vượn cáo, và đang nhìn cậu bé chòng chọc với đôi mắt mở to đầy lúng túng. Will lườm lại nó, khiến con lính thú liền hóa lại thành chuột rồi bò vào túi áo cô chủ.
“Tốt,” cậu bé nói. “Giờ thì trong lúc còn ở đây, chúng ta sẽ giả bộ với những đứa trẻ kia là mình vừa mới tới từ một nơi nào đó thuộc thế giới của họ. Cũng may là không có người lớn nào ở đây. Chúng ta có thể cứ đến và đi mà không bị ai để ý tới. Nhưng ở thế giới của tớ thì cậu sẽ phải nghe lời tớ nói. Điều đầu tiên là cậu nên đi tắm rửa đi. Cậu cần phải trông sạch sẽ nếu không sẽ gây chú ý mất. Chúng ta cần ngụy trang ở mọi nơi mình đến. Phải tỏ ra mình thuộc về nơi đó một cách thật tự nhiên để không ai bận tâm đến chúng ta cả. Nên đầu tiên là hãy đi gội đầu đi. Trong phòng tắm có dầu gội đó. Sau đó chúng ta sẽ đi kiếm vài bộ đồ khác nhau.”
“Tớ không biết cách,” cô bé nói. “Tớ chưa bao giờ tự gội đầu cả. Ở Jordan thì cô bảo mẫu lo việc này, còn sau đó tớ cũng chẳng bao giờ cần phải làm cả.”
“Chậc, cậu phải tự tìm cách thôi,” cậu bé nói. “Tắm cả người đi đấy. Mọi người ở thế giới của tớ ai cũng sạch sẽ cả.”
“Hừmm,” Lyra lầm bầm rồi leo lên tầng. Một khuôn mặt chuột hung tợn lườm cậu qua vai cô bé, nhưng cậu chỉ lạnh lùng nhìn đáp lại.
Một phần trong cậu muốn đi thơ thẩn khám phá thành phố trong buổi sáng tĩnh lặng ngập tràn nắng này, phần khác thì run rẩy vì lo lắng cho mẹ mình, còn phần nữa lại vẫn đang đờ đẫn vì choáng váng trước cái chết mình đã gây ra. Và treo lơ lửng trên tất cả là nhiệm vụ mà cậu cần phải hoàn thành. Nhưng tốt hơn hết là cứ nên bận rộn, vì vậy trong lúc chờ Lyra, cậu bé kì cọ mặt bếp, lau sàn, rồi đổ sạch rác vào cái thùng mà cậu tìm thấy trong con hẻm bên ngoài.
Rồi cậu lấy cái kẹp tài liệu da màu xanh từ trong túi mua sắm ra và nhìn nó đầy khao khát. Ngay sau khi chỉ cho Lyra cách đi qua ô cửa sổ vào Oxford của mình, cậu sẽ quay trở lại kiểm tra nội dung bên trong; nhưng trong lúc đó, cậu nhét nó dưới đệm giường mình. Ở thế giới này, nó sẽ được an toàn.
Khi Lyra đi xuống, sạch sẽ nhưng ướt rượt, chúng đi kiếm quần áo cho cô bé. Hai đứa tìm thấy một cửa hàng bách hóa, cũng tồi tàn như mọi nơi khác. Trong mắt Will thì quần áo ở đây khá lỗi mốt rồi, nhưng chúng vẫn tìm được cho Lyra một cái váy kẻ carô và chiếc áo không tay màu xanh lá có túi cho Pantalaimon trú. Cô không chịu mặc quần bò, thậm chí còn không chịu tin Will khi cậu nói rằng hầu như đứa con gái nào cũng mặc.
“Đó là quần dài mà,” cô nói. “Tớ là con gái. Đừng có ngớ ngẩn.”
Cậu bé nhún vai; cái váy kẻ carô trông không có gì nổi bật, và đó là điểm mấu chốt. Trước khi rời khỏi cửa hàng, Will thả vài đồng xu vào ngăn kéo đựng tiền phía sau quầy thu ngân.
“Cậu làm gì vậy?” Cô bé hỏi.
“Trả tiền. Cậu phải trả khi mua đồ. Ở thế giới của cậu người ta không trả tiền mua đồ à?”
“Ở thế giới này người ta có trả đâu! Tớ dám cá là mấy đứa kia không hề trả tiền cho bất cứ thứ gì hết.”
“Họ có thể không, nhưng tớ thì có.”
“Cậu mà bắt đầu cư xử như người lớn là đám Quỷ hút hồn sẽ đến bắt đi đấy,” cô nói, nhưng không biết liệu mình đã có thể trêu chọc cậu ta chưa, hay là nên e sợ cậu.
Trong ánh sáng ban ngày, Will có thể thấy những tòa nhà trong trung tâm thành phố trông cổ kính đến thế nào, một vài trong số đó đã gần như hoang phế. Ổ trâu ổ gà trên đường chưa được sửa; kính cửa sổ bị vỡ, vữa trát thì bong tróc. Vậy nhưng nơi này đã từng có thời lộng lẫy và cao sang: qua các cổng vòm chạm trổ, chúng có thể thấy những khoảnh sân rộng ngập tràn cây cỏ, những tòa nhà đồ sộ trông như cung điện, nhưng bất chấp những điều đó, các bậc thang đã nứt nẻ còn bản lề cửa thì rời ra khỏi tường. Cảnh vật ở đây trông như thể thay vì đập một tòa nhà đi và xây mới lại, cư dân của Ci’gazze lại thích chắp vá vô hạn định.
Đến lúc nọ, hai đứa trẻ tới một tòa tháp đứng độc lập trong một quảng trường nhỏ. Đó là tòa nhà cũ kĩ nhất mà chúng từng thấy: một tòa tháp đơn giản có tường đục lỗ châu mai cao bốn tầng. Có thứ gì đó khơi gợi trí tò mò trong sự tĩnh tại của nó dưới ánh nắng rực rỡ, cả Will và Lyra đều bị hấp dẫn bởi cánh cửa mở hé trên cùng của những bậc thang rộng; nhưng chúng không nhắc đến việc đó và tiếp tục tiến bước, dù có phần miễn cưỡng.
Khi tới đại lộ lớn trồng cọ dọc đường, cậu bé bảo cô đi tìm một quán cà phê nhỏ ở góc phố, với những chiếc bàn kim loại sơn xanh trên vỉa hè phía bên ngoài. Cô bé tìm thấy nó chỉ trong vòng một phút. Trong ánh sáng ban ngày trông nó nhỏ và tồi tàn hơn, nhưng vẫn là chỗ đó, với quầy bar tráng kẽm, chiếc máy pha espresso, đĩa risotto ăn dở giờ đang bắt đầu bốc mùi khó chịu trong không khí ấm.
“Nó ở trong này à?” Cô hỏi.
“Không. Nó ở giữa đường cơ. Phải chắc chắn là không có đứa nhóc nào khác xung quanh…”
Nhưng ở đó chỉ có mình chúng. Will đưa cô tới dải phân cách giữa đường dưới bóng những cây cọ rồi nhìn quanh để định hướng.
“Tớ nghĩ nó ở khoảng chỗ này thôi,” cậu nói. “Khi bước qua, tớ gần như có thể thấy ngọn đồi lớn phía sau lưng căn nhà màu trắng trên kia, còn khi nhìn phía này sẽ thấy quán cà phê đằng kia, và…”
“Trông nó như thế nào? Tớ chẳng thấy gì cả.”
“Cậu sẽ không nhìn nhầm được đâu. Trông nó không giống bất cứ thứ gì cậu từng thấy.”
Cậu bé nhìn lên nhìn xuống. Nó biến mất rồi sao? Hay bị đóng mất rồi? Cậu chẳng thể thấy nó đâu cả.
Rồi đột nhiên cậu hiểu ra. Cậu đi tới đi lui, tìm kiếm cái gờ nổi lên. Cũng giống như khi cậu tìm thấy nó vào đêm hôm trước ở bên phía Oxford, nó chỉ có thể được nhìn thấy ở một phía: nếu đi ra phía sau, nó sẽ trở nên vô hình. Và mặt trời chiếu lên thảm cỏ phía bên kia ô trống cũng y hệt như mặt trời ở bên này, nhưng lại khác biệt một cách không thể lí giải nổi.
“Đây rồi,” cậu reo lên khi đã biết chắc chắn.
“A! Tớ thấy nó rồi!”
Lyra đang rất sốt ruột: trông cô cũng sửng sốt chẳng kém gì Will khi cậu nghe thấy Pantalaimon nói. Linh thú của cô, không thể ở yên trong túi áo, bèn chui ra trong dạng ong bắp cày. Nó vo ve bay đến cái lỗ rồi trở lại vài lần, trong lúc cô vê vê mái tóc còn hơi ướt thành từng lọn.
“Đứng sang một bên đi,” cậu nói với cô. “Nếu cậu đứng trước mặt nó, người ta sẽ chỉ thấy một đôi chân, và điều đó sẽ khiến họ tò mò. Tớ không muốn bất cứ ai nhận ra nó.”
“Tiếng ồn gì vậy?”
“Tiếng xe cộ đấy. Đó là một phần của đường vành đai Oxford. Lúc nào nó cũng rất tấp nập. Cúi xuống mà nhìn nó từ bên hông đi. Bây giờ quả thật không phải thời điểm thuận lợi để đi qua, có quá nhiều người ở khắp nơi. Nhưng nếu đi qua vào giữa đêm thì lại khó tìm được chỗ để tới. Ít nhất thì khi đã đi qua, chúng ta có thể dễ dàng hòa vào dòng người. Cậu qua trước đi. Cứ lao qua thật nhanh rồi đứng tránh ra khỏi ô cửa.”
Cô bé có một cái balô nhỏ màu xanh dương mà cô vẫn đeo từ khi hai đứa rời khỏi quán cà phê, cô gỡ nó xuống khỏi người rồi ôm trong tay trước khi cúi xuống để nhìn qua.
“Ôi…” Cô há hốc mồm. “Đó là thế giới của cậu à? Trông chẳng giống phần nào của Oxford cả. Cậu có chắc mình đã ở Oxford không?”
“Đương nhiên là chắc rồi. Khi nào đi qua, cậu sẽ thấy một con đường ngay trước mặt. Đi sang bên trái, thêm một đoạn nữa thì rẽ vào con đường đâm xuống phía bên phải. Nó dẫn tới trung tâm thành phố. Nhớ đảm bảo cậu có thể nhìn thấy vị trí của ô cửa sổ này và ghi nhớ, được chứ? Đó là đường về duy nhất đấy.”
“Được rồi,” cô đáp. “Tớ sẽ không quên đâu.”
Ôm cái balô trong tay, cô chui qua ô cửa sổ trong không khí rồi biến mất. Will cúi xuống nhìn xem cô đi hướng nào.
Kia rồi, cô bé đang đứng trên thảm cỏ xứ Oxford của cậu cùng với Pan vẫn trong dạng ong bắp cày đang đậu trên vai. Theo như cậu thấy thì không ai nhìn thấy cô vừa xuất hiện. Ô tô và xe tải phóng qua cách đó vài mét, chẳng có tài xế nào tại khu đường giao nhau tấp nập này lại có thời gian liếc nhìn sang bên để thấy một mẩu không khí kì quặc, kể cả họ có nhìn thấy đi nữa, và chính xe cộ lại chắn tầm nhìn tới ô cửa của bất cứ ai ở phía xa bên kia đường.
Một tiếng phanh kít, một tiếng hét, rồi một tiếng đâm sầm. Cậu bé nhào xuống nhìn qua.
Lyra đang nằm sõng soài trên cỏ. Một chiếc xe hơi vừa phanh gấp khiến cái xe tải đằng sau đâm sầm vào nó, hất chiếc xe về phía trước, và Lyra ở đó, nằm im lìm…
Will lao qua theo cô bé. Không ai thấy cậu cả; toàn bộ ánh mắt đều đổ dồn lên chiếc xe hơi, thanh hãm xung méo mó, người tài xế xe tải đang bước ra, và tiến tới cô gái nhỏ.
“Tôi không làm khác được - con bé chạy ra ngay trước đầu xe…” Tài xế xe hơi, một phụ nữ trung tuổi, phân trần. “Anh lái gần quá đó,” bà vặn lại tài xế xe tải.
“Thôi bỏ qua đi,” ông nói; “đứa bé thế nào rồi?”
Ông tài xế xe tải nói với Will, người đang quỳ bên cạnh Lyra. Will nhìn lên và ra xung quanh, nhưng chẳng có lựa chọn nào khác, cậu phải chịu trách nhiệm. Trên bãi cỏ cạnh cậu, Lyra đang xoay đầu, mắt chớp lia lịa. Will thấy con ong Pantalaimon đang choáng váng bò lên một cọng cỏ bên cạnh cô.
“Cậu không sao chứ?” Will hỏi. “Cử động chân tay đi.”
“Đồ ngốc!” Người phụ nữ nói vọng ra từ trong xe. “Cứ thế chạy ra trước mũi xe. Không thèm nhìn lấy một lần. Ta biết phải làm gì cơ chứ?”
“Cháu vẫn tỉnh táo chứ, bé yêu?” Ông tài xế xe tải hỏi.
“Vâng,” Lyra thì thào.
“Không xây xát gì chứ?”
“Cử động chân tay đi,” Will khăng khăng.
Cô bé làm theo. Không cái nào bị gãy cả.
“Em ấy không sao đâu,” Will nói, “cháu sẽ chăm sóc em ấy. Sẽ ổn thôi ạ.”
“Cháu biết cô bé à?” Tài xế xe tải hỏi.
“Đây là em gái cháu,” Will đáp. “Không sao đâu ạ. Chúng cháu sống ở ngay góc phố thôi. Cháu sẽ đưa em ấy về nhà.”
Lyra giờ đã ngồi dậy. Khi thấy cô bé rõ ràng là không bị thương nặng, người phụ nữ hướng sự chú ý trở lại phương tiện của mình. Dòng xe cộ di chuyển vòng qua hai chiếc xe đang đứng yên. Khi vượt qua, các tài xế quay sang tò mò nhìn cảnh tượng này, như mọi người vẫn luôn làm vậy. Will đỡ Lyra dậy: chúng càng sớm đi khỏi đó thì càng tốt. Người phụ nữ và tài xế xe tải nhận ra rằng cuộc tranh cãi của họ cần phải được công ty bảo hiểm của mình phân xử, họ đang trao đổi địa chỉ thì người phụ nữ nhìn thấy Will đỡ Lyra tập tễnh rời khỏi đó.
“Đợi đã!” Bà gọi. “Các cháu sẽ là nhân chứng. Ta cần tên và địa chỉ của các cháu.”
“Cháu là Mark Ransom,” Will quay lại đáp, “còn em gái cháu là Lisa. Chúng cháu sống ở số 26 Ngõ Bourne.”
“Mã bưu chính?”
“Cháu chẳng bao giờ nhớ nổi,” cậu đáp. “Bà xem này, cháu muốn đưa em ấy về nhà.”
“Leo lên buồng lái đi,” tài xế xe tải nói, “ta sẽ đưa các cháu về.”
“Thôi, không vấn đề gì đâu ạ, đi bộ sẽ nhanh hơn, thật đấy ạ.”
Lyra chỉ hơi tập tễnh một chút. Cô bé đi cùng với Will, trở lại bãi cỏ dưới hàng cây duyên mộc, rồi rẽ sang góc phố đầu tiên chúng tới được.
Cả hai ngồi xuống một bức tường thấp bao quanh vườn.
“Cậu có đau không?” Will hỏi.
“Chân bị đập. Đầu tớ cũng bị va lúc ngã xuống nữa,” cô bé đáp.
Nhưng cô bé lo lắng về thứ ở trong balô hơn. Cô lần tìm bên trong rồi lôi ra một bọc nhỏ nặng nề quấn trong vải nhung đen rồi cởi nó ra. Đôi mắt Will mở to khi nhìn thấy chiếc Chân Kế: những biểu tượng nhỏ xíu được vẽ xung quanh, các cây kim bằng vàng, chiếc kim dài dò tìm, vẻ lộng lẫy bề thế của lớp vỏ khiến cậu nín thở.
“Cái gì vậy?” Cậu bé hỏi.
“Đây là chiếc Chân Kế của tớ. Nó là một cái máy nói sự thật. Máy đọc biểu tượng. Hi vọng nó không bị hỏng…”
Nhưng cái máy không hề hấn gì. Ngay cả trong đôi tay run rẩy của cô, cái kim dài vẫn quay một cách chắc chắn. Cô bé cất nó đi rồi nói: “Tớ chưa từng thấy nhiều xe thồ và các loại khác đến vậy… Tớ chẳng bao giờ nghĩ chúng lại chạy nhanh đến thế.”
“Ở Oxford của cậu không có xe hơi và xe tải à?”
“Không nhiều lắm. Không giống những cái này. Tớ không quen với nó, nhưng giờ thì ổn rồi.”
“Ừ, từ giờ nhớ cẩn thận nhé. Nếu cậu đi dưới một cái xe buýt hay bị lạc hoặc đại loại thế, người ta sẽ nhận ra rằng cậu không đến từ thế giới này, và sẽ bắt đầu lùng tìm đường nối qua…”
Cậu đang giận dữ hơn nhiều so với cần thiết. Cuối cùng cậu chốt:
“Được rồi, nghe này. Nếu cậu giả bộ làm em gái tớ, nó sẽ giúp tớ ngụy trang, vì người mà họ đang tìm không hề có em gái. Còn nếu tớ đi cùng với cậu, tớ có thể chỉ cho cậu cách băng qua đường mà không bị cán chết.”
“Được rồi,” cô nhũn nhặn đáp.
“Còn tiền nữa. Tớ dám cá cậu không có - mà, làm sao cậu có tiền được chứ? Cậu định đi lại rồi ăn uống thế nào?”
“Tớ có tiền mà,” cô bé nói rồi dốc vài đồng tiền vàng ra khỏi ví.
Will nhìn chúng đầy ngờ vực.
“Là vàng đấy à? Đúng không? Chậc, nó sẽ khiến người ta đặt câu hỏi, chắc chắn luôn. Cậu sẽ không được an toàn đâu. Tớ sẽ cho cậu ít tiền. Cất mấy đồng đó đi, đừng cho ai nhìn thấy hết. Và nhớ lấy - cậu là em gái tớ, tên cậu là Lisa Ransom.”
“Lizzie. Hồi trước tớ từng tự gọi mình là Lizzie. Tớ có thể nhớ được cái tên đó.”
“Được rồi, vậy thì Lizzie. Còn tớ là Mark. Đừng quên đấy.”
“Hiểu rồi,” cô bé hiền hòa đáp.
Chân cô bắt đầu đau; chỗ bị xe tông đang đỏ và sưng tấy lên, một vết bầm lớn tối màu dần hình thành. Với vết tím trên má nơi Will đập vào tối hôm trước, trông cô bé như đang bị đối xử tệ bạc, và điều đó cũng khiến cậu lo lắng: nhỡ có tay cảnh sát nào trở nên hiếu kì thì sao?
Cậu bé cố gắng gạt suy nghĩ đó ra khỏi tâm trí, rồi cả hai khởi hành, băng qua đường tại đèn giao thông và chỉ liếc nhìn một lần duy nhất về phía ô cửa sổ dưới hàng cây duyên mộc. Chúng hoàn toàn không thể nhìn thấy nó. Ô cửa sổ đã trở nên vô hình, và dòng xe đã trôi chảy trở lại.
Tại Summertown, cách mười phút đi bộ xuống Đường Banbury, Will dừng lại trước một ngân hàng.
“Cậu định làm gì vậy?” Lyra hỏi.
“Tớ sẽ đi lấy ít tiền. Có lẽ tớ không nên làm việc này quá thường xuyên, nhưng chưa đến cuối ngày thì người ta sẽ không lưu sổ, tớ không nên nghĩ nữa.”
Cậu nhét thẻ ngân hàng của mẹ mình vào máy rút tiền tự động rồi ấn số PIN của bà. Có vẻ mọi thứ đều ổn nên cậu rút lấy một trăm bảng, cái máy cứ thế mà nhả tiền ra. Lyra há hốc mồm quan sát. Cậu đưa cho cô một tờ hai mươi bảng.
“Để dùng sau này,” cậu nói. “Mua gì đó rồi đổi lấy ít tiền lẻ. Bọn mình đi tìm xe buýt vào thành phố đi.”
Lyra để cho Will lo vụ xe buýt, cô bé ngồi thật im, nhìn ngắm những căn nhà và mảnh vườn trong cái thành phố của cô nhưng lại chẳng phải của cô. Cô giống như đang lạc vào giấc mơ của ai đó vậy. Chúng xuống xe tại trung tâm thành phố nằm cạnh một nhà thờ đá cổ kính mà Lyra biết, đối diện với một cửa hàng bách hóa lớn mà cô chưa thấy bao giờ.
“Mọi thứ thay đổi cả rồi,” cô nói. “Kiểu như… Đó chằng phải Phố Cornmarket sao? Còn đây là Broad. Đó là Học viện Balliol. Rồi dưới kia là Thư viện Bodley. Nhưng Jordan đâu mất rồi?”
Lúc này người cô đang run lẩy bẩy. Có lẽ đó là phản ứng chậm từ vụ tai nạn, hoặc là sự choáng váng hiện thời khi thấy một tòa nhà hoàn toàn khác tại vị trí của Học viện Jordan mà cô vẫn coi là nhà.
“Thật không đúng chút nào,” Lyra thốt lên. Cô nói rất khẽ vì Will đã nhắc không được làm ầm và kêu ca về việc mọi thứ không giống với thế giới của mình. “Đây là một Oxford hoàn toàn khác.”
“Thì, bọn mình đều biết điều đó mà,” cậu đáp.
Cậu đã không lường trước được vẻ sửng sốt bất lực của Lyra. Cậu không thể biết được tuổi thơ cô đã chạy quanh những con phố gần như giống hệt những con phố này nhiều đến thế nào, hay cô đã tự hào ra sao vì thuộc về Học viện Jordan, nơi có những học giả thông thái nhất, những kho bạc giàu có nhất, mang vẻ đẹp tráng lệ hơn tất thảy; thế mà giờ đây nó lại chẳng hề tồn tại, còn cô thì chẳng còn là Lyra của Jordan nữa, cô chỉ là một cô gái nhỏ bị lạc trong một thế giới xa lạ, chẳng thuộc về nơi nào.
“Ôi,” cô run rẩy nói. “Nếu nó không có ở đó…”
Sẽ mất nhiều thời gian hơn cô tưởng, tất cả chỉ có vậy.