← Quay lại trang sách

- 4 - Khoan sọ

Ngay sau khi Lyra đi khỏi, Will tìm một buồng điện thoại và gọi tới số văn phòng luật sư trên bức thư cậu đang cầm.

“Xin chào. Cháu muốn nói chuyện với ông Perkins.”

“Xin hỏi ai đang gọi vậy?”

“Việc có liên quan đến ông John Parry ạ. Cháu là con trai ông ấy.”

“Xin đợi một chút…”

Một phút trôi qua, rồi một giọng đàn ông vang lên: “Xin chào. Alan Perkins xin nghe. Tôi đang nói chuyện với ai đây?”

“William Parry ạ. Xin thứ lỗi cho cháu vì đã gọi. Đây là vấn đề về ông John Parry, bố cháu. Cứ mỗi ba tháng ông lại gửi tiền từ bố cháu vào tài khoản ngân hàng của mẹ.”

“Phải…”

“Vâng, cháu muốn biết bố mình đang ở đâu, xin ông. Ông ấy còn sống hay đã chết vậy?”

“Cháu bao nhiêu tuổi rồi, William?”

“Mười hai ạ. Cháu muốn biết về ông ấy.”

“Ừ… Mẹ cháu có, bà ấy, bà ấy có biết cháu đang gọi điện cho ta không?”

Will cẩn thận suy nghĩ.

“Không ạ,” cậu đáp. “Nhưng sức khỏe mẹ cháu đang không tốt lắm. Bà ấy không kể được mấy mà cháu thì lại muốn biết.”

“Ừ, ta hiểu rồi. Bây giờ cháu đang ở đâu? Cháu có ở nhà không?”

“Không ạ, cháu… Cháu đang ở Oxford.”

“Một mình sao?”

“Vâng.”

“Cháu nói mẹ cháu đang không khỏe?”

“Vâng.”

“Bà ấy đang ở trong bệnh viện hay sao?”

“Dạng như vậy ạ. Ông có thể nói cho cháu biết hay không thế?”

“À, ta có thể cho cháu biết vài điều, nhưng không nhiều và không phải ngay bây giờ, mà ta cũng không muốn nói qua điện thoại. Năm phút nữa ta phải gặp khách hàng rồi… Cháu có thể tìm đường đến văn phòng của ta vào khoảng hai giờ rưỡi được không?”

“Không ạ,” Will đáp. Như thế quá mạo hiểm: lúc đó luật sư có thể đã nghe về chuyện cậu bị cảnh sát truy nã. Cậu nghĩ thật nhanh rồi nói tiếp: “Cháu phải bắt xe buýt đến Nottingham và cháu không muốn bị lỡ chuyến. Nhưng còn việc cháu muốn biết, ông có thể nói qua điện thoại được đúng không? Tất cả những gì cháu muốn biết chỉ là liệu bố cháu còn sống hay không, và nếu còn thì cháu có thể tìm ông ấy ở đâu. Ông có thể cho cháu biết chuyện đó mà, đúng không?”

“Sự việc không đơn giản như vậy đâu. Ta không thể tiết lộ thông tin cá nhân về khách hàng trừ khi biết chắc rằng khách hàng đó muốn như vậy. Với lại, dù sao ta cũng cần một vài bằng chứng về thân phận của cháu nữa.”

“Vâng, cháu hiểu, nhưng ông có thể chỉ cần cho cháu biết là bố cháu còn sống hay đã chết không?”

“Chà… Không, như thế thì không còn là bảo mật nữa rồi. Đáng tiếc là dù gì ta cũng chẳng thể nói cho cháu biết được, vì ta không biết.”

“Sao cơ ạ?”

“Số tiền tới từ một quỹ tín dụng gia đình. Ông ấy đã để lại chỉ dẫn cho ta trả tiền cho tới khi ông ấy bảo dừng lại. Từ ngày đó đến giờ ta không hề nghe được chút tin tức nào của ông ấy. Vấn đề quan trọng là ông ấy… Chà, ta đoán là ông ấy đã biến mất. Đó là lí do ta không thể trả lời câu hỏi của cháu.”

“Biến mất sao? Cứ thế mà… mất tích ấy ạ?”

“Thật ra đó là vấn đề của bên lưu trữ công cộng. Này, tại sao cháu không tới văn phòng ta và…”

“Cháu không thể. Cháu chuẩn bị đi Nottingham rồi.”

“Ừ, vậy hãy viết thư cho ta hoặc nhắn mẹ cháu viết, rồi ta sẽ cho cháu biết ta có thể làm được gì. Nhưng cháu phải hiểu cho, ta không thể nói gì nhiều qua điện thoại.”

“Vâng, cháu cũng nghĩ vậy. Không sao ạ. Nhưng ông có thể cho cháu biết bố cháu đã biến mất ở đâu không?”

“Như ta đã nói, đó là vấn đề của bên lưu trữ công cộng. Cùng thời gian đó đã có vài mẩu chuyện trên báo. Cháu biết ông ấy là một nhà thám hiểm chứ?”

“Mẹ đã kể cho cháu nghe vài chuyện, vâng…”

“Ừ, ông ấy đang dẫn đầu một đoàn thám hiểm và tất cả cứ thế biến mất. Khoảng mười năm trước.”

“Ở đâu ạ?”

“Xa tít trên phía bắc. Alaska, ta nghĩ vậy. Cháu có thể kiếm thông tin về nó trong thư viện công cộng. Sao cháu không…”

Nhưng đúng lúc đó thì điện thoại hết tiền, Will cũng không còn chút tiền lẻ nào để cho vào máy. Tiếng điện thoại vang lên tút tút trong tai, cậu đặt ống nghe xuống rồi nhìn quanh.

Điều cậu mong muốn hơn tất thảy là được nói chuyện với mẹ mình. Cậu phải ngăn bản thân quay số của bà Cooper, vì nếu nghe thấy giọng mẹ, sẽ rất khó để kiềm chế khát khao trở về với bà, nhưng điều đó sẽ khiến cả hai gặp nguy hiểm. Dù vậy, cậu có thể gửi bưu thiếp cho bà.

Cậu chọn một tấm in quang cảnh thành phố và viết: “Gửi Mẹ, con vẫn an toàn và khỏe mạnh, con sẽ sớm gặp lại mẹ. Hi vọng mọi việc vẫn ổn. Con yêu mẹ. Will.” Rồi cậu viết địa chỉ, mua một con tem và ôm tấm thiếp trong lòng một lúc trước khi thả vào thùng thư.

Lúc đó đã là giữa buổi sáng, cậu đang đứng trong con phố mua sắm chính, nơi xe buýt phải luồn lách qua những đám đông khách bộ hành. Cậu bắt đầu nhận ra trông mình lộ liễu đến thế nào; vì hôm đó là ngày trong tuần, một đứa trẻ ở tuổi cậu đáng ra phải đang ở trường. Cậu có thể đi đâu đây?

Nhưng cậu không mất nhiều thời gian để trốn đi. Will có thể biến mất khá dễ dàng, vì cậu rất giỏi việc đó; thậm chí cậu còn tự hào vì khả năng của mình. Cách cậu thực hiện cũng tương tự như cách Serafina Pekkala khiến mình trở nên vô hình trong lúc ở trên tàu: làm cho bản thân không bị nhìn thấy bằng cách hòa lẫn vào hậu cảnh.

Do đã biết quá rõ thế giới mà mình đang sống, cậu vào cửa hàng văn phòng phẩm mua bút bi, tệp giấy, và một tấm bìa kẹp hồ sơ. Trường học thường cử những nhóm trẻ con đi làm khảo sát mua sắm hay dạng như thế, nên nếu tỏ ra mình đang thực hiện một dự án như vậy, trông cậu sẽ không giống một đứa vô công rồi nghề.

Rồi cậu đi thơ thẩn, giả bộ như đang ghi chép trong lúc vẫn để mắt tới thư viện công cộng.

Cùng lúc đó, Lyra đang tìm một nơi tĩnh lặng để tham khảo ý kiến Chân Kế. Tại Oxford của cô, phải có đến cả chục chỗ như thế chỉ trong vòng năm phút đi bộ, nhưng thành phố Oxford này lại khác lạ đến mức khiến người ta bối rối, những khoảnh đất thân thuộc đến nao lòng lại nằm ngay sát những thứ hết sức kì quặc: sao người ta lại sơn những vạch vàng trên đường? Mấy mảng trắng nhỏ lấm tấm trên mọi vỉa hè là gì? (Ở thế giới của cô, người ta chưa từng biết tới kẹo cao su.) Những cái đèn xanh đỏ ở góc đường kia có thể mang ý nghĩa gì? Tất cả những thứ này còn khó đọc hơn cả Chân Kế.

Thế nhưng đây là những cánh cổng của Học viện Thánh John, nơi cô và Roger đã có lần trèo qua vào buổi tối để cắm pháo bông vào các luống hoa; rồi cả tảng đá mòn vẹt rất đặc biệt ở góc Phố Catte kia nữa - ở đó có tên viết tắt SP mà Simon Parslow đã khắc lên - chính là nó! Cô đã nhìn thấy thằng bé làm vậy! Ai đó có cùng tên viết tắt ở thế giới này hẳn đã đứng vẩn vơ ở đây và làm một việc y hệt.

Có khi ở thế giới này cũng có một Simon Parslow.

Có lẽ còn có cả Lyra nữa.

Một cơn ớn lạnh chạy dọc sống lưng cô bé, còn Pantalaimon trong dạng chuột rùng mình trong túi áo cô. Cô bé lắc đầu; không cần tưởng tượng thêm cũng đã có đủ thứ bí ẩn rồi.

Oxford ở đây còn khác với thế giới của cô ở số lượng lớn người ùn ùn đi lại trên mọi vỉa hè, ra vào mọi tòa nhà; người thuộc đủ loại, phụ nữ ăn mặc như đàn ông, dân Phi châu, thậm chí có cả một nhóm Tartar ngoan ngoãn theo chân chỉ huy của mình, tất cả đều ăn mặc gọn gàng và đi quanh quất với những chiếc cặp nhỏ màu đen trong tay. Ban đầu cô đăm đăm nhìn họ sợ sệt, vì họ không hề có linh thú, trong thế giới của cô họ sẽ bị gọi là hồn ma hoặc có khi còn tồi tệ hơn.

Nhưng (đây là điều kì quặc nhất) tất cả bọn họ trông vẫn tràn trề sức sống. Những sinh vật này vui vẻ đi lại như thể họ chính là con người vậy. Sau đó Lyra phải thừa nhận rằng có lẽ họ là con người thật, và rằng linh thú của họ nằm trong cơ thể cũng giống như trường hợp của Will.

Sau khoảng một giờ đồng hồ đi thơ thẩn đánh giá tình hình thành phố Oxford giả này, cô bé cảm thấy đói bụng nên đã dùng tờ hai mươi bảng để mua một phong chocolatl. Ông chủ cửa hàng nhìn cô vẻ kì cục, nhưng có lẽ do ông ta là người Đông Ấn nên không hiểu được giọng của cô mặc dù cô đã hỏi rất rõ ràng. Cô dùng tiền thừa để mua một quả táo trong chợ Mái che, nơi này giống với Oxford chuẩn hơn, rồi tiến về phía công viên. Tại đó cô thấy mình đang đứng ngoài một tòa nhà bề thế, một tòa nhà đậm chất Oxford nhưng lại không hề tồn tại trong thế giới của cô, mặc dù trông nó sẽ không bị lạc lõng. Cô ngồi trên bãi cỏ bên ngoài để ăn trong lúc ngắm nghía tòa nhà với vẻ hài lòng.

Cô phát hiện ra đó là một bảo tàng. Cửa đang mở, cô bé thấy bên trong nào là mẫu vật thú nhồi bông, xương hóa thạch, nào là các tủ đựng khoáng thạch, không khác gì trong Bảo tàng Địa chất Hoàng gia mà cô đã từng tới thăm cùng với Phu nhân Coulter tại London của mình. Phía sau đại sảnh bằng sắt và kính là lối vào một phần khác của bảo tàng. Do gần như chẳng có ai ở đó, cô bé bèn lẻn vào nhìn ngó xung quanh. Chiếc Chân Kế vẫn là việc khẩn cấp nhất trong tâm trí cô, nhưng ở căn phòng thứ hai này, cô thấy khắp nơi là những thứ mình biết rất rõ: có những kệ trưng bày đầy y phục của vùng Cực Bắc, giống như bộ đồ lông của chính cô - cùng với xe kéo, sừng moóc chạm khắc và lao móc săn hải cẩu - thêm vào đó là một nghìn lẻ một những thứ tạp nham: cúp chiến tích, di vật, đạo cụ ma thuật, dụng cụ và vũ khí. Cô nhận thấy rằng chúng không chỉ tới từ Cực Bắc mà từ mọi miền thế giới.

Chà, thật lạ lùng làm sao. Mấy bộ đồ lông từ da tuần lộc kia giống hệt với đồ của cô, nhưng cách họ buộc dây kéo trên xe trượt thì lại sai hoàn toàn. Nhưng đây là một bức hình cho thấy vài thợ săn người Samoyed: chính là bản sao của những kẻ đã bắt cóc rồi bán Lyra cho Bolvangar: nhìn này! Chính là những gã đàn ông đó! Thậm chí cả sợi dây thừng kia cũng bị sờn và được thắt nút lại ở cùng một vị trí. Cô biết điều này quá rõ do đã bị trói ở chính chiếc xe kéo đó trong vài giờ đồng hồ đầy đau khổ… Những bí ẩn này là gì đây? Phải chăng rốt cuộc chỉ có một thế giới duy nhất, dành cả đời để mơ mộng về những nơi xa xôi?

Và rồi cô tình cờ thấy một thứ gợi nhắc đến chiếc Chân Kế. Trong một kệ bằng kính cũ kĩ có khung gỗ sơn đen là một tập hợp đầu lâu người, vài trong số đó bị đục lỗ: cái thì ở phía trước, cái ở bên má, có cái lại trên đỉnh. Cái sọ ở chính giữa có hai lỗ. Dòng chữ ngoằn nghèo trên một tấm thẻ ghi phương thức này được gọi là khoan sọ. Tấm thẻ cũng ghi chú rằng tất cả các lỗ đều được đục trong lúc người đó còn sống, vì xương đã liền và mọc phẳng lại quanh mép. Tuy nhiên, có một cái thì không như vậy: cái lỗ được tạo ra bởi một đầu mũi tên bằng đồng vẫn đang cắm trong đó, mép của nó lởm chởm và nứt vỡ, nên có thể dễ thấy rằng cái đầu lâu ấy khác biệt.

Đó chính là điều dân Tartar phương bắc làm. Và là điều Stanislaus Grumman tự làm với bản thân, theo lời các Học giả Jordan quen biết ông. Lyra vội nhìn quanh, khi thấy không có ai gần đó, cô liền lấy Chân Kế ra.

Cô bé tập trung trí lực vào cái sọ ở giữa và hỏi: Cái sọ này thuộc về người như thế nào, và vì sao ông ta lại bị đục những cái lỗ này?

Trong lúc đang đứng tập trung dưới thứ ánh sáng bụi bặm chiếu xuyên qua mái nhà bằng kính và xiên xuống những phòng trưng bày phía trên, cô bé không nhận ra rằng mình đang bị theo dõi.

Một người đàn ông tầm sáu mươi tuổi với dáng vẻ quyền lực, mặc một bộ vest bằng vải lanh được may rất đẹp, tay cầm mũ Panama, đang đứng tại phòng trưng bày ở tầng trên và nhìn xuống qua lan can bằng sắt.

Mái tóc màu hoa râm chải ngược một cách gọn gàng từ vầng trán nhẵn mịn, rám nắng và gần như không có nếp nhăn. Ông ta sở hữu một đôi mắt to sậm màu và dữ dằn với hàng mi dài. Cứ mỗi phút hay gì đó, cái lưỡi nhọn sắc thâm xì của ông ta lại thò ra từ mép và liếm ngang môi. Chiếc khăn tay màu trắng tuyết trong túi áo ngực của ông được ướp một loại nước hoa đậm đặc giống như cây cối trồng trong nhà kính, nặng mùi đến mức người ta có thể ngửi thấy cả mùi thối rữa bốc lên từ rễ của chúng.

Ông ta đã quan sát Lyra được một lúc. Khi cô đi lại ở tầng dưới, người đàn ông ở phòng trưng bày phía trên cũng đi theo, và khi cô đứng lại bên cái kệ đựng đầu lâu, ông ta tỉ mỉ quan sát, cố gắng thu nhận mọi thông tin về cô: mái tóc bù xù lởm chởm, vết thâm trên má, bộ quần áo mới, cái cổ trần đang cúi xuống chiếc Chân Kế, đôi chân trần của cô.

Người đàn ông rút chiếc khăn tay trong túi ngực ra lau trán rồi bước tới cầu thang.

Mê mải với Chân Kế, Lyra đang tìm hiểu được những điều kì lạ. Những cái đầu lâu này cổ đến khó tin; các tấm thẻ trong tủ chỉ ghi đơn giản “Thời đại đồ đồng”, nhưng Chân Kế, không bao giờ lừa dối, lại nói rằng chủ nhân của hộp sọ này đã sống cách thời điểm hiện tại ba mươi ba nghìn hai trăm năm mươi tư năm, rằng ông đã từng là một pháp sư, và rằng cái lỗ được đục để tạo đường cho thần linh thâm nhập vào đầu. Và rồi, theo cái cách xuề xòa mà đôi khi chiếc Chân Kế dùng để trả lời câu hỏi mà Lyra chưa kịp đặt ra, nó nói thêm rằng quanh những hộp sọ bị đục có số lượng Bụi tập trung lớn hơn nhiều so với quanh cái cắm đầu mũi tên.

Điều đó liệu có thể mang nghĩa gì được chứ? Lyra thoát khỏi trạng thái điềm tĩnh, tập trung mà cô chia sẻ với chiếc Chân Kế để trở lại với thực tại, nhận ra rằng mình không còn đứng một mình nữa. Đang chăm chú nhìn vào kệ trưng bày bên cạnh là một người đàn ông luống tuổi mặc vest màu xanh xám và có hương thơm ngọt ngào. Ông gợi cô nhớ tới một ai đó, nhưng cô nghĩ mãi mà không ra là ai.

Ông nhận thấy có người đang quan sát mình và mỉm cười nhìn lên.

“Cháu đang xem những cái đầu lâu bị khoan à?” Ông hỏi. “Người ta làm với bản thân mình những điều thật kì quặc làm sao.”

“Ừm,” cô nói, không biểu cảm gì.

“Cháu có biết là người ta vẫn đang tiến hành việc này không?”

“Có ạ,” cô đáp.

“Hội hippie, cháu biết đấy, những người như thế. Thật ra cháu còn quá nhỏ để biết tới dân hippie. Người ta nói nó có tác dụng hơn là dùng thuốc phiện.”

Lyra đã cho Chân Kế vào balô và đang tự hỏi làm thế nào để chuồn đi được: cô bé vẫn chưa hỏi được câu quan trọng nhất mà giờ lại bị người đàn ông này bắt chuyện mất rồi. Trông ông cũng khá tử tế, và rõ ràng là có mùi rất dễ chịu. Giờ ông đã tới gần hơn, bàn tay sượt vào cô khi ông nhoài người qua kệ đồ.

“Làm cho người ta phải kinh ngạc, phải không nào? Không gây mê, không khử trùng, có khi là thực hiện bằng công cụ đá. Họ hẳn phải cứng cỏi lắm đấy nhỉ? Ta không nghĩ đã từng thấy cháu ở đây, mặc dù ta đến khá thường xuyên. Tên cháu là gì?”

“Lizzie ạ,” cô bé đáp một cách thoải mái.

“Lizzie à. Xin chào Lizzie. Ta là Charles, cháu có đi học ở Oxford không?”

Cô không chắc nên trả lời thế nào.

“Không ạ,” cô đáp.

“Chỉ ghé chơi thôi à? Chà, cháu đã chọn một nơi tuyệt vời để tham quan đó. Cháu đặc biệt hứng thú với điều gì?”

Người đàn ông này khiến cô lúng túng hơn bất cứ ai cô từng gặp trong một thời gian dài. Một mặt thì ông ta là người tử tế, thân thiện, rất sạch sẽ và ăn mặc hợp thời, nhưng mặt khác, Pantalaimon trong túi áo lại đang cố thu hút sự chú ý của cô và nài nỉ cô phải cẩn thận, vì chính nó cũng đang lờ mờ nhớ ra được điều gì đó. Từ đâu đó cô cảm nhận được, không phải là mùi mà là một khái niệm về mùi, và đó là mùi phân, mùi thối rữa. Nó khiến cô nghĩ đến cung điện của Iofur Raknison, nơi không khí được xịt nước hoa nhưng sàn nhà lại dày đặc xú uế.

“Cháu hứng thú với điều gì à?” Cô nói. “Ồ, đủ mọi thứ luôn ạ. Cháu vừa mới thấy hứng thú với những cái đầu lâu kia khi thấy chúng ở đó. Cháu không nghĩ lại có ai đó muốn bị làm như thế. Thật khủng khiếp.”

“Không, ta cũng không thể thích việc này được, nhưng ta cam đoan là nó có xảy ra. Ta có thể đưa cháu đến gặp một người đã từng làm vậy,” ông ta nói, tỏ ra thân thiện và sẵn lòng giúp đỡ đến mức cô gần như bị cám dỗ. Nhưng rồi cái đầu lưỡi nhỏ thâm xì lại thò ra, nhanh như lưỡi một con rắn, ướt át và rung rinh. Cô bé lắc đầu.

“Cháu phải đi rồi,” cô bé nói. “Cảm ơn ông đã đề nghị, nhưng cháu không nên đi. Dù sao cháu cũng phải đi bây giờ đây, cháu sắp có hẹn. Bạn của cháu,” cô nói thêm. “Cháu đang sống cùng bạn ấy.”

“Phải, hẳn rồi,” ông tử tế nói. “Vậy, rất vui được nói chuyện với cháu. Tạm biệt, Lizzie.”

“Tạm biệt,” cô nói.

“Ồ - nhân tiện - đây là tên và địa chỉ của ta,” ông đưa cho cô một tấm thiếp nhỏ, “phòng trường hợp cháu muốn biết thêm về những thứ như thế này.”

“Cảm ơn ông,” cô nhẹ nhàng nói rồi nhét nó vào ngăn trên lưng balô của mình trước khi rời đi. Cô bé cảm thấy ông ta đang quan sát mình trong suốt quãng đường ra ngoài.

Khi đã ra khỏi bảo tàng, cô rẽ vào công viên, nơi cô biết đến là một sân chơi cricket và các môn thể thao khác. Cô tìm thấy một nơi yên tĩnh dưới bóng cây và thử hỏi lại Chân Kế.

Lần này cô hỏi mình có thể tìm thấy một học giả biết về Bụi ở đâu. Câu trả lời cô nhận được rất đơn giản: một căn phòng trong tòa nhà cao vuông vức phía sau lưng. Trên thực tế, câu trả lời quá thẳng thừng và tới quá đột ngột đến nỗi Lyra đoan chắc rằng chiếc Chân Kế muốn nói nhiều hơn thế: giờ đây cô đã bắt đầu cảm nhận được rằng nó cũng có tâm trạng giống như con người, và biết được khi nào nó muốn nói cho cô biết nhiều hơn.

Và nó vừa mới làm vậy. Chiếc máy nói: Cô nên quan tâm đến cậu bé. Nhiệm vụ của cô là giúp cậu ta tìm được bố của mình. Hãy để tâm đến việc đó.

Lyra chớp mắt. Cô thật sự bị kinh ngạc. Will chẳng hiểu từ đâu ra đã xuất hiện để giúp đỡ cô: điều đó thì rõ ràng rồi. Nhưng ý nghĩ rằng mình tới tận đây để giúp cậu ta khiến cô sửng sốt.

Nhưng chiếc Chần Kế vẫn chưa nói xong. Kim dài lại giật giật, và cô đọc được rằng:

Không được nói dối học giả.

Cô bé quấn lớp nhung quanh chiếc Chân Kế rồi ấn nó sâu vào trong balô. Sau đó cô đứng dậy nhìn quanh tìm tòa nhà có vị học giả của mình, rồi tiến bước về phía nó, cảm thấy khó xử và hồ nghi.

Will tìm thấy thư viện khá dễ dàng. Viên thủ thư hoàn toàn tin rằng cậu đang tiến hành nghiên cứu cho một dự án địa lí, và giúp cậu tìm những ấn bản đóng gáy của danh mục tạp chí The Times phát hành cùng năm sinh với cậu, cũng là năm bố cậu biến mất. Will ngồi xuống chăm chú đọc. Quả vậy, John Parry được nhắc đến vài lần, cùng với một đoàn thám hiểm khảo cổ.

Mỗi tháng lại được lưu trữ trên một cuộn vi phim riêng biệt. Cậu lần lượt lắp từng cuộn vào máy chiếu, dịch chuyển các khung hình để tìm hiểu câu chuyện và đọc chúng với sự tập trung cao độ. Câu chuyện đầu tiên kể về sự khởi hành một cuộc viễn chinh tới phía bắc Alaska. Chuyến thám hiểm được tài trợ bởi Viện Khảo cổ học thuộc Đại học Oxford, khảo sát một vùng mà người ta hi vọng sẽ tìm được chứng cớ về sự định cư của người tiền sử. Đi cùng đoàn là John Parry, cựu sĩ quan Hải quân Hoàng gia, một nhà thám hiểm chuyên nghiệp.

Câu chuyện thứ hai xảy ra sau đó sáu tuần. Nó chỉ nói ngắn gọn rằng đoàn thám hiểm đã tới được Trạm Khảo sát Cực Bắc vùng Bắc Mỹ tại Noatak, Alaska.

Câu chuyện thứ ba diễn ra sau đó hai tháng. Nó nói rằng không có phản hồi lại tín hiệu phát ra từ Trạm Khảo sát, rằng John Parry và những người đồng hành được cho là đã mất tích.

Có một chuỗi các bài báo ngắn theo sau sự kiện đó, mô tả những nhóm khởi hành đi tìm họ nhưng thất bại, những phi đội dò tìm trên Biển Bering, phản ứng của Viện Khảo cổ học, những cuộc phỏng vấn người thân…

Tim cậu đập mạnh, vì ở đó có một tấm ảnh của mẹ cậu. Đang ôm một đứa trẻ sơ sinh. Là cậu.

Phóng viên đã viết ra một câu chuyện “người vợ đầm đìa nước mắt ngóng chờ tin tức trong đau khổ” rất chuẩn mực, nhưng Will thất vọng vì nó có quá ít những sự kiện thực. Trong đó có một đoạn ngắn nói về việc John Parry đã có một sự nghiệp thành công tại Hải quân Hoàng gia và rời quân đội để chuyên đi tổ chức các cuộc thám hiểm địa lí và khoa học, tất cả chỉ có vậy.

Không có một sự đề cập nào khác trong bảng danh mục, Will đứng dậy khỏi chiếc máy đọc vi phim, cảm thấy bế tắc. Chắc hẳn phải có thông tin khác ở đâu đó; nhưng cậu có thể đi đâu tiếp đây? Hơn nữa, nếu đi tìm kiếm quá lâu, cậu sẽ bị bắt dấu mất…

Cậu trả lại những cuộn vi phim rồi hỏi viên thủ thư: “Bà có biết địa chỉ của Viện Khảo cổ học không ạ?”

“Ta có thể kiếm… cháu thuộc trường nào thế?”

“Thánh Peter ạ,” Will đáp.

“Trường đó không ở Oxford đúng không?”

“Không ạ, nó ở Hampshire. Lớp cháu đang đi thực địa về mảng cư trú. Kiểu như kĩ năng nghiên cứu học tập về môi trường ấy ạ…”

“Ồ, ta hiểu rồi. Cháu cần gì ấy nhỉ… Khảo cổ học… Đây rồi.”

Will chép lại địa chỉ và số điện thoại, và vì có thừa nhận mình không biết rõ Oxford cũng chẳng sao, cậu hỏi phải tìm nó ở đâu. Nó không quá xa. Cậu cảm ơn viên thủ thư rồi lên đường.

Trong tòa nhà, Lyra thấy một bàn làm việc lớn dưới chân cầu thang, với nhân viên trực ngồi phía sau.

“Cháu đi đâu thế?” Ông hỏi.

Cảm giác thật giống ở nhà. Cô nhận thấy Pan trong túi áo đang rất thích thú.

“Cháu có lời nhắn cho một người ở trên tầng hai,” cô đáp.

“Ai vậy?”

“Tiến sĩ Lister ạ,” cô đáp.

“Tiến sĩ Lister ở trên tầng ba. Nếu cháu muốn chuyển thứ gì cho ông ấy, cứ để nó ở đây, ta sẽ nhắn ông ấy.”

“Vâng, nhưng đây là thứ ông ấy cần ngay bây giờ. Ông ấy đã yêu cầu nó. Thật ra nó không phải một vật, nó là thứ cháu cần phải nói cho ông ấy biết.”

Người đàn ông cẩn thận dò xét Lyra, nhưng ông ta chẳng phải là đối thủ của vẻ ngoan ngoãn, ngây ngô và dịu dàng mà cô có thể trưng ra khi muốn. Cuối cùng ông gật đầu rồi quay trở lại với tờ báo của mình.

Hẳn nhiên là Chân Kế không hề nói cho Lyra biết tên người đó. Cô đọc được tên của Tiến sĩ Lister trên một ngăn tường phía sau người đàn ông, vì nếu có thể vờ như biết ai đó, người ta sẽ dễ cho bạn vào hơn. Về một vài phương diện thì Lyra hiểu thế giới của Will còn rõ hơn bản thân cậu.

Trên tầng hai cô thấy một hành lang dài, nơi một cánh cửa dẫn vào một giảng đường trống không và một cánh cửa khác dẫn tới một căn phòng nhỏ nơi hai học giả đang đứng thảo luận gì đó bên tấm bảng đen. Những căn phòng này, tường của hành lang này, tất cả đều phẳng lì và trống trơn theo cái cách mà Lyra cho rằng thuộc về tầng lớp nghèo khó, chứ không phải về sự uyên bác và tráng lệ của Oxford; thế nhưng những bức tường gạch đều được sơn nhẵn nhụi, các cánh cửa làm từ gỗ loại nặng còn lan can bằng thép sáng bóng, nên chúng hẳn là rất đắt tiền. Chỉ là một cách khác khiến thế giới này thật khác lạ.

Cô đã sớm tìm được cánh cửa mà chiếc Chân Kế nhắc tới. Bảng tên đính trên cửa có ghi “Khoa Nghiên cứu Vật chất tối”, phía bên dưới đã có ai đó đã nguệch ngoạc mấy chữ R.I.P.[3] Một dòng chữ khác được viết thêm bằng bút chì “Trưởng khoa: Lazarus”.

Lyra không bận tâm gì đến nó. Cô gõ cửa, và một giọng phụ nữ vang lên: “Mời vào.”

Đó là một căn phòng nhỏ, đầy chật những đống giấy tờ và sách vở ngả nghiêng, còn mấy tấm bảng trắng trên tường thì chi chít hình vẽ và phương trình. Đính trên mặt sau của cánh cửa là một bản vẽ trông giống chữ Trung Hoa. Qua ô cửa mở, Lyra có thể thấy một căn phòng khác, nơi một loại thiết bị chạy mạch phức tạp nào đó đang đứng trong im lặng.

Về phần mình, Lyra hơi ngạc nhiên khi thấy rằng vị học giả mà cô đang tìm lại là nữ giới, nhưng Chân Kế không nói đó là đàn ông, mà đây thì lại là một thế giới kì quặc. Người phụ nữ đang ngồi trước một cái máy hiển thị các hình thù trên màn hình nhỏ bằng kính, phía trước có một cái khay màu trắng ngà bày tất cả các kí tự trong bảng chữ cái thành những khối nhỏ bám đầy bụi. Vị học giả gõ lên một kí tự và màn hình lập tức trống trơn.

“Cháu là ai?” Bà hỏi.

Lyra đóng cửa lại phía sau lưng. Lưu ý đến điều chiếc Chân Kế đã cảnh báo, cô bé cố gắng hết sức để không làm việc mà thông thường cô sẽ làm, và nói sự thật.

“Lyra Silvertongue ạ,” cô đáp. “Tên bà là gì?”

Người phụ nữ chớp mắt. Lyra đoán bà khoảng gần bốn mươi tuổi, có lẽ là lớn tuổi hơn Phu nhân Coulter một chút, với mái tóc đen cắt ngắn và đôi má ửng đỏ. Bà mặc một chiếc áo khoác trắng để lộ áo sơmi xanh lục phía trong và quần xanh bằng vải dầu mà rất nhiều người ở thế giới này mặc.

Trước câu hỏi của cô, người phụ nữ đưa tay lên vuốt tóc rồi nói: “Chà, cháu là điều bất ngờ thứ hai xảy ra trong hôm nay. Ta là Tiến sĩ Mary Malone. Cháu cần gì?”

“Cháu muốn bà kể cho cháu nghe về Bụi,” Lyra nói sau khi nhìn xung quanh để đảm bảo rằng chỉ có mình họ. “Cháu biết là bà biết về nó. Cháu có thể chứng minh. Bà phải kể cho cháu.”

“Bụi? Cháu đang nói về cái gì vậy?”

“Có lẽ các bà không gọi nó như thế. Đó là các hạt cơ bản. Ở thế giới của cháu các học giả gọi đó là Hạt Rusakov, nhưng thông thường họ gọi là Bụi. Chúng không dễ dàng xuất hiện, nhưng chúng tới từ trong không gian và bám dính lấy con người. Mặc dù ở trẻ con thì không nhiều lắm. Chủ yếu là người lớn. Và một điều mà cháu mới phát hiện ra hôm nay - cháu vào cái bảo tàng dưới phố, ở đó có mấy cái đầu lâu cổ đục lỗ trên đỉnh, giống như người Tartar làm, quanh chúng có nhiều Bụi hơn hẳn so với cái không có lỗ kiểu đó. Thời đại đồ đồng là từ bao giờ vậy?”

Người phụ nữ đang tròn mắt nhìn cô bé.

“Thời đại đồ đồng? Chúa ơi, ta không biết; khoảng năm nghìn năm trước,” bà đáp.

“À, thế thì lúc viết nhãn thông tin họ đã ghi nhầm rồi. Cái đầu lâu có hai lỗ trên đó đã ba mươi ba nghìn năm tuổi.”

Cô dừng lại, vì trông Tiến sĩ Malone như đang sắp xỉu đến nơi. Vẻ hồng hào đã hoàn toàn rời khỏi đôi má bà, bà đặt một tay lên ngực trong khi tay còn lại tóm chặt lấy ghế ngồi, mồm há ra kinh ngạc.

Lyra đứng đó chờ bà hồi phục, dù rất bối rối nhưng cũng không nhượng bộ.

“Cháu là ai vậy?” Cuối cùng người phụ nữ cũng lên tiếng.

“Lyra Silver…”

“Không phải, cháu từ đâu đến? Cháu là gì vậy? Làm sao cháu biết được những chuyện như thế?”

Lyra chán nản thở dài; cô quên béng mất học giả rất hay nói vòng vo. Thật khó để nói cho họ biết sự thật khi mà một lời nói dối sẽ giúp họ hiểu vấn đề dễ dàng hơn rất nhiều.

“Cháu tới từ một thế giới khác,” cô bắt đầu giải thích. “Và tại thế giới đó cũng có một Oxford như thế này, nhưng không giống lắm, đó là nơi cháu đã ở. Và…”

“Từ từ, đợi đã. Cháu đến từ đâu cơ?”

“Từ một nơi khác,” Lyra nói cẩn thận hơn. “Không phải ở đây ạ.”

“Ồ, từ một nơi khác,” người phụ nữ nói. “Ra vậy. Chà, ta nghĩ là ta hiểu.”

“Cháu phải tìm hiểu về Bụi,” Lyra giải thích. “Vì những người trong Giáo hội ở thế giới cháu, phải ạ, họ sợ Bụi vì nghĩ rằng đó là tội tổ tông. Vì vậy việc này rất quan trọng. Mà cha cháu… Không,” cô gay gắt nói, thậm chí còn giậm chân, “cháu không định nói như vậy. Cháu làm sai hết cả rồi.”

Tiến sĩ Malone nhìn Lyra cau có và nghiến chặt nắm tay, nhìn những vết bầm trên má và chân cô, rồi nói: “Ôi chao, bé con, bình tĩnh nào…”

Cô dừng lại và dụi mắt, chúng đang đỏ lên vì mệt mỏi.

“Tại sao ta lại nghe cháu nói nhỉ?” Bà nói tiếp. “Ta điên mất rồi. Sự thật là thì đây là nơi duy nhất trên thế giới mà cháu sẽ tìm được câu trả lời mình muốn, thế mà người ta sắp đóng cửa chỗ này rồi… Thứ mà cháu đang nhắc đến, Bụi của cháu, nghe có vẻ như là thứ chúng ta đang nghiên cứu được một thời gian rồi, còn điều cháu nói về những cái đầu lâu trong bảo tàng khiến ta thật sự choáng váng, bởi vì… Ôi, không, thế này là quá đủ rồi. Ta kiệt sức rồi. Ta rất muốn nghe cháu nói, thật đấy, nhưng làm ơn, không phải bây giờ. Ta đã nói là họ sắp đóng cửa chỗ này chưa nhỉ? Ta có một tuần để lập bản kế hoạch đề xuất cho ủy ban cấp vốn, nhưng chúng ta chẳng có lấy một hi vọng nào…”

Bà ngáp lớn.

“Điều bất ngờ đầu tiên xảy ra trong hôm nay là gì vậy ạ?” Lyra hỏi.

“Ồ. Phải rồi. Một người ta trông cậy sẽ trợ giúp đơn xin cấp vốn của chúng ta vừa mới báo rút. Dù sao thì ta cũng không cho rằng đó là việc bất ngờ.”

Bà lại ngáp.

“Ta sẽ pha chút cà phê,” bà nói. “Nếu không ta sẽ ngủ gục mất. Cháu có muốn uống một ít không?”

Bà đổ đầy một cái ấm điện. Trong lúc bà xúc cà phê hòa tan vào hai chiếc cốc, Lyra đăm đăm nhìn họa tiết Trung Hoa trên lưng cửa.

“Đó là cái gì vậy ạ?” Cô hỏi.

“Là tiếng Trung Quốc đó. Những biểu tượng trong Kinh Dịch. Cháu có biết nó là gì không? Ở thế giới của cháu có cái này không?”

Lyra nheo mắt nhìn người phụ nữ, e rằng bà đang mỉa mai. Cô đáp: “Có những thứ giống và có những thứ khác, vậy thôi ạ. Cháu không biết mọi điều về thế giới của mình. Có lẽ ở đó cũng có cái thứ Kinh gì đấy này.”

“Ta xin lỗi,” Tiến sĩ Malone nói. “Phải, có lẽ họ cũng có.”

“Vật chất tối là gì vậy ạ?” Lyra hỏi. “Trên bảng thông báo ghi vậy đúng không?”

Tiến sĩ Malone ngồi xuống trở lại rồi dùng cổ chân ngoắc lấy một cái ghế khác cho Lyra.

Bà đáp: “Vật chất tối là thứ mà đội nghiên cứu của ta đang tìm kiếm. Không ai biết nó là gì cả. Vấn đề là trong vũ trụ ngoài kia có nhiều thứ hơn chúng ta có thể nhìn thấy. Chúng ta có thể thấy các vì sao, thiên hà và những thứ tỏa sáng, nhưng để tất cả có thể liên kết với nhau mà không bị tách rời ra thì phải cần có nhiều hơn thế - để trọng lực có tác dụng, cháu thấy đấy. Nhưng không ai có thể dò ra nó được. Vì vậy có rất nhiều dự án nghiên cứu khác nhau cố gắng tìm hiểu bản chất của thứ đó, và đây là một trong số chúng.”

Lyra dồn toàn bộ tâm trí vào lời bà nói. Cuối cùng thì người phụ nữ này cũng nói chuyện một cách nghiêm túc.

“Vậy bà nghĩ nó là gì?” Cô bé hỏi.

“À, thứ mà chúng ta nghĩ là…” Bà bắt đầu nói thì ấm nước reo, bà liền đứng dậy pha cà phê trong lúc nói tiếp: “Chúng ta nghĩ nó là một dạng hạt cơ bản. Một thứ khá khác biệt với bất cứ thứ gì từng được khám phá. Nhưng chúng rất khó bị phát hiện… Cháu học trường nào vậy? Cháu có học vật lí không?”

Lyra cảm thấy Pantalaimon đang cắn nhẹ vào tay mình, cảnh báo cô không được cáu. Cô hiểu rõ rằng chiếc Chân Kế đã dặn phải thành thật, nhưng cô cũng biết điều gì sẽ xảy ra nếu nói ra toàn bộ sự thật. Cô phải cư xử cẩn trọng, cố gắng tránh những lời nói dối thẳng thừng.

“Vâng,” cô đáp, “cháu có biết chút ít. Nhưng không phải là về vật chất tối.”

“Ừ, chúng ta đang cố gắng dò ra cái thứ gần như không thể dò được này giữa những tạp âm do tất cả các hạt khác va đập vào nhau. Thường thì chúng ta sẽ cài máy dò sâu dưới lòng đất hàng trăm mét, nhưng thay vào đó chúng ta đã thiết lập một trường điện từ xung quanh máy dò để chặn tất cả những thứ không mong muốn và để những thứ ta muốn lọt qua. Rồi chúng ta khuếch đại tín hiệu và chuyển dữ liệu vào máy tính.”

Bà đưa cho cô cốc cà phê. Ở đây không có sữa hay đường gì cả, nhưng bà đã kiếm được vài cái bánh quy gừng trong ngăn kéo, Lyra liền thèm thuồng ăn một cái.

“Và rồi chúng ta đã tìm thấy một loại hạt phù hợp,” Tiến sĩ Malone nói tiếp. “Chúng ta cho rằng nó phù hợp. Nhưng nó rất kì lạ… Sao ta lại nói với cháu chuyện này nhỉ? Đáng ra ta không nên. Thông tin chưa được công bố, chưa được kiểm chứng, nó thậm chí còn chưa được ghi chép lại. Chiều nay ta không được tỉnh táo cho lắm.

“Nhưng…” Bà nói tiếp rồi ngáp dài đến mức Lyra nghĩ cái ngáp sẽ không bao giờ dứt… “Các hạt của chúng ta là những con quỷ nhỏ kì quặc, không sai đâu. Chúng ta gọi chúng là các hạt bóng, Bóng tối ấy. Cháu biết vừa nãy điều gì đã khiến ta suýt ngã khỏi ghế không? Khi cháu nhắc đến những cái đầu lâu trong bảo tàng. Vì một thành viên trong đội chúng ta, cháu thấy đấy, là một nhà khảo cổ nghiệp dư. Một ngày nọ, ông ấy đã khám phá ra điều mà chúng ta không dám tin. Nhưng chúng ta không thể bỏ qua nó, vì nó khớp với điều điên rồ nhất về những hạt Bóng này. Cháu biết gì không? Chúng có ý thức. Đúng vậy. Bóng là những hạt có ý thức. Cháu đã từng nghe thấy thứ gì ngớ ngẩn như vậy chưa? Chẳng có gì ngạc nhiên khi chúng ta không thể xin được trợ cấp lại.”

Bà hớp một ngụm cà phê. Lyra đang nuốt lấy từng lời như một bông hoa khát nước.

“Phải,” Tiến sĩ Malone tiếp tục, “chúng biết chúng ta đang ở đây. Chúng đã đáp lại. Nhưng điều điên rồ là: người ta không thể thấy chúng trừ khi muốn làm điều đó. Trừ khi người ta đặt tâm trí mình vào một trạng thái cụ thể. Ta sẽ phải tự tin, nhưng cùng lúc đó lại phải thoải mái. Ta phải có khả năng - câu trích dẫn là gì ấy nhỉ…

“‘… khả năng đương đầu với những bất định, bí ẩn, nghi vấn, mà không cáu kỉnh đeo đuổi sự thật và nguyên do…’ Ta phải đạt được trạng thái tâm lí đó. Nhân tiện, câu đó là của nhà thơ Keats. Ta tìm được hôm trước. Vậy nên ta phải chuẩn bị tâm lí một cách đúng đắn rồi nhìn vào Động…”

“Động ấy ạ?” Lyra thắc mắc.

“Ồ, xin lỗi cháu. Cái máy tính. Chúng ta gọi nó là Động. Bóng chiếu lên tường động, vậy đó, câu của Plato. Quay lại với nhà khảo cổ của chúng ta. Ông ấy là một nhà trí thức toàn diện. Nhưng ông ấy đã đi Geneva để phỏng vấn xin việc rồi, ta nghĩ ông ấy sẽ không quay lại trong một thời gian… Nói đến đâu rồi nhỉ? À, Động, phải rồi. Một khi đã kết nối được với nó, chỉ cần nghĩ là Bóng tối sẽ phản hồi. Không có gì phải nghi ngờ. Bóng sẽ bâu vào suy nghĩ của ta như chim vậy…”

“Còn những cái đầu lâu thì sao ạ?”

“Ta đang định nói đến đó đây. Oliver Payne, chính ông ấy, cộng sự của ta, vào một ngày nọ đã nghịch ngợm thử nghiệm đủ thứ với Động, và mọi chuyện thật kì quặc. Nó vô lí đến mức không nhà vật lí nào có thể tưởng tượng ra được. Ông ấy có một mẩu ngà voi, nhỏ thôi, không có chút Bóng nào ở đó cả. Nó không phản ứng. Nhưng một quân cờ được khắc từ ngà voi thì lại có. Một bức tượng khắc gỗ còn có nhiều hơn… Ta đang nói về các hạt cơ bản đấy, lạy Chúa. Chỉ là những mẩu nhỏ xíu gần như chẳng có gì. Chúng biết những vật đó là gì. Bất cứ thứ gì dính đến tài nghệ hay suy nghĩ của con người đều bị Bóng bao phủ…

“Và rồi Oliver, Tiến sĩ Payne, có được vài cái đầu lâu hóa thạch từ một người bạn làm ở bảo tàng. Ông ấy đã kiểm tra chúng để xem hiệu ứng đó tồn tại từ cách đây bao lâu. Điểm ngưỡng là khoảng ba mươi, bốn mươi nghìn năm trước. Trước đó không tồn tại Bóng. Sau đó thì rất nhiều. Có vẻ như đó là khoảng thời gian những người hiện đại bắt đầu xuất hiện. Ý ta là, cháu biết đấy, tổ tiên xa xưa của chúng ta, nhưng thật ra là những con người không khác biệt gì với ta cả…”

“Đó là Bụi,” Lyra nói vẻ am hiểu. “Chính là nó.”

“Nhưng cháu thấy đấy, nếu muốn được lắng nghe nghiêm túc, không ai lại đi nhắc đến mấy thứ như thế này trong đơn xin cấp vốn cả. Nghe rất vô lí. Không thể tồn tại. Không thể xảy ra, và dù có xảy ra được thì cũng không thích đáng. Mà nếu không phải những thứ trên thì nó cũng gây lúng túng.”

“Cháu muốn xem Động,” Lyra nói.

Cô đứng dậy.

Tiến sĩ Malone đang luồn tay qua mái tóc và chớp mắt lia lịa để giữ cho đôi mắt mệt mỏi khỏi sụp xuống.

“Ồ, sao lại không chứ,” bà nói. “Ngày mai có khi còn chẳng có cái Động nào nữa. Qua đây nào.”

Bà dẫn Lyra vào một căn phòng khác, rộng hơn và đầy chật các thiết bị điện tử.

“Nó đây. Ở đằng kia kìa,” bà nói, chỉ về phía một màn hình trống trơn đang phát ra một màu xám mờ, “đó là nơi đặt máy dò, đằng sau đống dây dợ kia kìa. Để thấy được Bóng, ta sẽ phải được kết nối với vài điện cực. Giống như khi người ta đo sóng não đó.”

“Cháu muốn thử,” Lyra nói.

“Cháu sẽ không thấy gì đâu. Dù sao ta cũng mệt rồi. Nó quá phức tạp.”

“Xin bà! Cháu biết mình đang làm gì mà!”

“Cháu biết cơ đấy. Ước gì ta biết được. Không, vì Chúa. Đây là một thí nghiệm khoa học tốn kém và khó khăn. Cháu không thể cứ lao vào đây rồi hi vọng được thử nó như chơi máy bắn bóng được… Với lại, cháu từ đâu tới? Không phải cháu nên đi học sao? Làm sao cháu tìm được đường đến đây?”

Bà lại dụi mắt, như thể chỉ vừa mới ngủ dậy.

Lyra rùng mình. Nói sự thật, cô nghĩ. “Cháu tìm được đường đến đây bằng cái này,” cô nói rồi lấy Chân Kế ra.

“Cái thứ gì thế này? La bàn à?”

Lyra để cho bà cầm cái máy. Đôi mắt Tiến sĩ Malone giãn rộng khi bà cảm nhận sức nặng của nó.

“Ôi Chúa ơi, nó được làm bằng vàng ròng. Ở đâu mà…”

“Cháu nghĩ nó thực hiện những việc giống như Động. Đó là điều cháu muốn tìm hiểu. Nếu cháu có thể trả lời chính xác một câu hỏi,” Lyra liều lĩnh nói, “một thứ bà biết câu trả lời nhưng cháu thì không, lúc đó liệu cháu có thể thử dùng Động không?”

“Gì chứ, giờ lại chuyển sang đoán vận à? Cái thứ này là gì vậy?”

“Làm ơn! Hãy hỏi cháu một câu thôi!”

Tiến sĩ Malone thở dài. “Ôi, thôi được rồi,” bà nói. “Cho ta biết… Cho ta biết ta đã làm gì trước khi đảm nhận công việc này.”

Lyra hăm hở lấy lại Chân Kế từ tay bà rồi xoay các núm vặn. Cô có thể cảm thấy tâm trí mình đang hướng tới những bức hình phù hợp trước cả khi các kim chỉ vào chúng, và cô cũng nhận thấy chiếc kim dài đang giật lên đáp lại. Khi nó bắt đầu xoay quanh, ánh mắt cô dõi theo, quan sát, tính toán, rà soát xuống chuỗi ý nghĩa dài dằng dặc để tới được cấp độ ẩn chứa sự thật.

Rồi cô chớp mắt, thở mạnh và thoát ra khỏi trạng thái hôn mê tạm thời.

“Bà từng là một nữ tu,” cô trả lời. “Cháu sẽ chẳng đoán ra nổi đâu. Nữ tu thì thường phải sống cả đời trong tu viện của mình. Nhưng bà đã ngừng tin tưởng vào những thứ liên quan đến Giáo hội và họ để cho bà đi. Chẳng giống thế giới của cháu chút nào.”

Tiến sĩ Malone ngồi xuống chiếc ghế duy nhất, nhìn cô đăm đăm.

Lyra nói: “Đúng như vậy phải không ạ?”

“Phải. Và cháu biết được từ cái…”

“Từ Chân Kế của cháu. Cháu cho là nó hoạt động nhờ Bụi. Cháu đã cất công đến tận đây để tìm hiểu thêm về Bụi, và nó đã bảo cháu đến tìm bà. Cho nên cháu nghĩ vật chất tối của bà hẳn phải chính là nó. Vậy giờ cháu có thể thử dùng Động của bà được không?”

Tiến sĩ Malone lắc đầu, nhưng không phải để từ chối, bà chỉ làm vậy vì thấy bất lực. Bà dang hai tay ra. “Được rồi,” bà nói. “Ta nghĩ mình đang mơ. Có lẽ ta cứ nên tiếp tục thôi.”

Bà xoay ghế lại rồi ấn vài công tắc, tiếng điện chạy o o và tiếng quạt tản nhiệt của máy tính liền vang lên. Thứ âm thanh này khiến Lyra sợ hãi đến nghẹt thở, vì nó rất giống với âm thanh mà cô nghe thấy trong căn phòng sáng chói kinh hoàng ở Bolvangar, nơi cái máy chém bằng bạc suýt nữa đã chia lìa cô và Pantalaimon. Thấy con linh thú đang run rẩy trong túi áo, cô siết nhẹ để làm nó yên lòng.

Nhưng Tiến sĩ Malone không nhận ra điều đó; bà đang quá bận rộn điều chỉnh các công tắc và gõ các kí tự trong một khay màu ngà khác. Khi bà làm vậy, màn hình đổi màu, vài chữ cái và hình ảnh nhỏ xíu xuất hiện trên đó.

“Giờ thì ngồi xuống nào,” bà nói rồi đưa một cái ghế cho Lyra. Rồi bà mở một cái lọ nhỏ và nói: “Ta sẽ phải bôi chút gel lên da cháu để làm tăng tiếp xúc điện. Nó rất dễ rửa. Giờ thì ngồi yên nhé.”

Tiến sĩ Malone lấy sáu sợi cáp, mỗi cái đều có một tấm đệm phẳng ở một đầu, rồi gắn chúng vào các vị trí khác nhau trên đầu Lyra. Lyra quyết tâm ngồi im nhưng cô đang thở gấp, tim đập thình thịch.

“Được rồi, cháu đã được kết nối xong,” Tiến sĩ Malone nói. “Căn phòng này đầy ngập Bóng. Thực tế là vũ trụ cũng đầy ngập Bóng. Nhưng đây là cách duy nhất chúng ta có thể nhìn thấy chúng, bằng cách gạt bỏ mọi suy nghĩ và nhìn vào màn hình. Bắt đầu nhé.”

Lyra nhìn vào cái màn hình kính đen xì và trống trơn. Cô lờ mờ thấy hình phản chiếu của mình, nhưng chỉ có vậy. Để thử nghiệm, cô giả bộ như mình đang đọc Chân Kế, và tưởng tượng ra mình đang hỏi: Người phụ nữ này biết gì về Bụi? Bà ấy đang hỏi những câu gì?

Cô tưởng tượng mình quay các kim của Chân Kế, và khi vừa làm vậy, màn hình bắt đầu lập lòe sáng. Quá ngạc nhiên, cô bị mất tập trung khiến ánh sáng lại lịm đi. Cô không để ý rằng sự phấn khích đang lan tỏa đã khiến Tiến sĩ Malone phải ngồi thẳng người dậy: cô chau mày, rướn người về trước và bắt đầu tập trung trở lại.

Lần này cái máy phản hồi lại ngay lập tức. Một luồng sáng nhảy múa, vì cả thế giới giống như những tấm rèm cực quang lấp lánh, lóe lên trên màn hình. Chúng hình thành những họa tiết tồn tại chỉ trong giây lát rồi tan vỡ, sau đó lại tái lập dưới những dạng khác, hoặc những màu sắc khác; chúng nhào lộn và lắc lư, bắn tung ra như những bọt nước, vỡ òa thành những cơn mưa hào quang, đột ngột ngoặt hướng này hay xoay hướng kia như một đàn chim đổi hướng trên bầu trời. Trong lúc quan sát, Lyra nhận thấy một cảm giác run rẩy khi sự thấu hiểu gần kề, khiến cô nhớ lại lần mình bắt đầu đọc được Chân Kế.

Cô hỏi một câu hỏi khác: Đây có phải là Bụi không? Nó có phải chính là thứ tạo ra những họa tiết này và làm kim dài trên Chân Kế chuyển động không?

Câu trả lời đến dưới dạng nhiều vòng và xoáy ánh sáng nữa. Cô đoán nó có nghĩa là đúng. Rồi một ý nghĩ nữa nảy ra, cô quay lại nói với Tiến sĩ Malone thì thấy bà đang há hốc mồm, tay ôm lấy đầu.

“Sao vậy ạ?” Cô hỏi.

Màn hình lịm dần đi. Tiến sĩ Malone chớp mắt.

“Gì thế Tiến sĩ?” Lyra hỏi lại.

“À - cháu vừa trình diễn một màn sinh động nhất mà ta từng thấy, chỉ có vậy thôi,” Tiến sĩ Malone đáp. “Cháu đã làm gì vậy? Cháu đã nghĩ gì?”

“Cháu cứ nghĩ bà phải làm được rõ hơn thế này chứ,” Lyra nói.

“Rõ hơn ư? Như thế là rõ nhất rồi đó!”

“Nhưng nó nói gì ạ? Bà có đọc được không?”

“À,” Tiến sĩ Malone nói, “không đọc được nó theo kiểu đọc tin nhắn đâu, nó không hoạt động như thế. Điều đang xảy ra là các hạt Bóng đáp lại sự chú ý mà cháu dành cho chúng. Như thế đã là một cuộc cách mạng rồi: cháu thấy đấy, chúng phản ứng lại ý thức của chúng ta.”

“Không phải vậy,” Lyra giải thích, “ý cháu là những màu sắc và hình thù trên đó ấy. Những hạt Bóng này, chúng có thể làm nhiều việc khác. Chúng có thể tạo ra bất cứ hình thù nào ta muốn. Chúng có thể dựng nên những bức hình nếu ta muốn chúng làm vậy. Bà nhìn này.”

Nói rồi cô quay lưng lại và tập trung tâm trí, nhưng lần này cô tự nhủ rằng cái màn hình chính là Chân Kế, với tất cả ba mươi sáu biểu tượng trải quanh rìa. Giờ đây cô đã biết chúng quá rõ, đến mức những ngón tay cứ thế tự động xoay trong lòng trong lúc cô di chuyển những cái kim tưởng tượng để chỉ vào cây nến (biểu thị sự thấu hiểu), chữ alpha và omega (ngôn ngữ), và con kiến (sự cần cù), rồi định hình câu hỏi: Những người này sẽ phải làm gì để hiểu được ngôn ngữ của Bóng?

Màn hình phản hồi lại nhanh như chính những suy nghĩ, từ một mớ rối loạn các đường nét và ánh sáng, một chuỗi hình ảnh được hình thành rõ mồn một trước mắt: compa, lại là alpha và omega, tia chớp, thiên thần. Mỗi bức hình lóe lên với số lần khác nhau, rồi ba hình khác xuất hiện: lạc đà, vườn cây, mặt trăng.

Lyra thấy rõ được ý nghĩa của chúng, cô giải phóng sức tập trung để giải thích. Lần này khi quay lại, cô thấy Tiến sĩ Malone đang ngồi dựa lưng vào ghế, mặt trắng bệch, tay bám chặt lấy mép bàn.

“Điều nó nói,” Lyra giải thích với bà, “nó nói bằng ngôn ngữ của cháu, vâng ạ, ngôn ngữ của hình ảnh. Giống như Chân Kế. Nhưng nó cũng nói rằng nó có thể sử dụng cả ngôn ngữ thông thường nữa, từ ngữ, nếu bà mặc định nó như thế. Bà có thể sửa để nó chạy chữ lên màn hình. Nhưng bà cần phải tính toán các con số rất cẩn thận - đó là cái compa, bà thấy không - tia chớp có nghĩa là mạch, ý cháu là năng lượng điện, nhiều hơn nữa. Còn thiên thần chính là các thông điệp. Có rất nhiều thứ nó muốn nói. Nhưng khi tới nhóm hình ảnh thứ hai… Nó nhắc đến Á châu, gần như là phần xa nhất phía đông nhưng không hẳn là vậy. Cháu không biết đó là nước nào - Trung Hoa, có lẽ vậy… Ở đất nước đó người ta có một cách để nói chuyện với Bụi, ý cháu là Bóng, giống như thiết bị của bà ở đây và cách của cháu - cách của cháu là với những hình ảnh, chỉ khác là họ dùng những cái que. Cháu nghĩ nó ám chỉ bức hình trên cánh cửa, nhưng cháu không thực sự hiểu nó. Khi mới thấy, cháu đã nghĩ nó nắm giữ điều gì đó rất quan trọng, chỉ là cháu không biết điều đó là gì. Vậy nên chắc chắn là có rất nhiều cách để nói chuyện được với Bóng.”

Tiến sĩ Malone gần như không thở nổi.

“Kinh Dịch,” bà nói. “Phải, nó là của Trung Quốc. Một dạng bói toán - đoán vận, thật vậy… Và đúng, họ dùng que. Bức hình ở đó chỉ để trang trí thôi,” bà nói như để cam đoan với Lyra rằng bà không thực tin vào nó. “Cháu đang nói với ta rằng khi người ta tham khảo Kinh Dịch, họ sẽ kết nối được với các hạt Bóng? Với vật chất tối?”

“Vâng,” Lyra đáp. “Như cháu đã nói đấy, có rất nhiều cách. Đến giờ cháu mới biết. Cháu cứ nghĩ là chỉ có một cách.”

“Những hình ảnh trên màn hình…” Tiến sĩ Malone bắt đầu.

Lyra nhận thấy một ý nghĩ đang lập lờ ở một góc tâm trí mình, cô liền quay lại màn hình. Cô vừa mới bắt đầu định hình câu hỏi thì một loạt hình ảnh lóe lên, nối tiếp nhau nhanh đến nỗi Tiến sĩ Malone gần như không theo dõi nổi; nhưng Lyra thì hiểu chúng đang nói gì và quay lại với bà.

“Nó nói rằng bà cũng rất quan trọng,” cô nói với nhà khoa học. “Nó nói rằng bà có việc quan trọng phải làm. Cháu không biết đó là gì, nhưng nếu không phải sự thật thì nó đã không nói thế. Nên có lẽ bà phải làm cho nó hiển thị từ ngữ để có thể hiểu được điều nó nói.”

Tiến sĩ Malone không nói gì. Rồi bà lên tiếng:

“Được rồi, cháu từ đâu tới?”

Lyra cong môi lên. Cô nhận ra rằng Tiến sĩ Malone, người cho tới giờ vẫn hành động trong sự kiệt sức và tuyệt vọng, bình thường sẽ không bao giờ cho một đứa trẻ lạ mặt không biết từ đâu đến xem công trình nghiên cứu của mình, và rằng bà đang bắt đầu hối hận với việc làm đó. Nhưng Lyra phải nói sự thật.

“Cháu tới từ một thế giới khác,” cô nói. “Thật đấy ạ. Cháu đã đến thế giới này. Cháu đang… Cháu đã phải chạy trốn, vì những người ở thế giới của cháu đang truy lùng để giết cháu. Còn chiếc Chân Kế tới từ… từ cùng một nơi. Hiệu trưởng Học viện Jordan đã đưa nó cho cháu. Ở Oxford của cháu có một Học viện Jordan, nhưng ở đây thì không có cái nào. Cháu đã thử tìm rồi. Cháu đã tự mình khám phá ra cách đọc Chân Kế. Cháu có cách làm đầu óc trống rỗng và lập tức cháu sẽ nhìn ra chúng muốn nói gì. Cũng giống như khi bà nói về… những nghi vấn và bí ẩn. Vì vậy cháu đã làm việc tương tự khi nhìn vào Động và nó hoạt động theo cùng một cách, có nghĩa là Bụi của cháu và Bóng của bà là cùng một thứ. Nên…”

Lúc này Tiến sĩ Malone đã tỉnh táo hoàn toàn. Lyra nhặt chiếc Chân Kế lên rồi bọc lớp vải nhung lên cái máy giống như một người mẹ bảo vệ đứa con của mình, trước khi cho nó vào balô.

“Nên nói chung là,” cô nói, “nếu muốn, bà có thể làm cho cái màn hình này nói chuyện với mình bằng ngôn từ. Rồi bà có thể nói chuyện với Bóng giống như cháu nói chuyện với Chân Kế. Nhưng điều cháu muốn biết là tại sao người ở thế giới của cháu lại ghét nó? Bụi, ý cháu là Bóng. Vật chất tối. Họ muốn hủy bỏ nó. Họ nghĩ nó là tội ác. Nhưng cháu lại cho rằng những gì họ làm mới là tội ác. Cháu đã thấy những việc họ làm. Vậy Bóng là gì ạ? Nó là thiện hay ác, hay là gì vậy ạ?”

Tiến sĩ Malone xoa mặt, khiến đôi má bà còn ửng đỏ hơn lúc trước.

“Tất cả mọi điều về thứ này đều thật đáng xấu hổ,” bà nói. “Cháu có biết thật xấu hổ thế nào khi nhắc đến thiện và ác ở một phòng thí nghiệm khoa học không? Cháu có hiểu gì không vậy? Một trong những lí do khiến ta trở thành nhà khoa học là để không phải nghĩ về những thứ như thế.”

“Bà phải nghĩ về nó,” Lyra nghiê