← Quay lại trang sách

- 15 - Rêu cầm máu

“Đi tiếp,” chiếc Chân Kế nói, “xa hơn, cao hơn.”

Vậy là hai đứa trẻ tiếp tục leo. Các phù thủy bay trên cao để thăm dò lộ trình hợp lí nhất, vì vùng đất nhấp nhô đồi núi đã sớm nhường chỗ cho những con dốc cao hơn và nền đất lởm chởm đá sỏi. Khi mặt trời lên gần đến đỉnh, những người lữ hành thấy mình lạc vào một vùng đất hỗn độn của những con mương khô cằn, vách núi, các thung lũng rải rác đá tảng nơi không ngọn cỏ xanh nào mọc nổi, nơi tiếng rền rĩ đinh tai của côn trùng là âm thanh duy nhất.

Họ đi tiếp, chỉ dừng lại để uống nước từ bình da dê và trao đổi chút ít. Pantalaimon bay trên đầu Lyra một lúc, đến khi chán thì nó liền biến thành một con cừu núi nhỏ có đôi chân vững chãi, tự đắc về cặp sừng của mình, nhảy tung tăng giữa các tảng đá trong lúc Lyra vất vả dò dẫm bên cạnh. Will thì hằm hằm tiến tới, mắt díp lại vì ánh nắng chói chang, lờ đi cơn đau trên bàn tay đang ngày càng tồi tệ hơn, và cuối cùng đạt tới một tình trạng mà chỉ cần đi lại thì sẽ thấy thoải mái, còn cứ đứng yên là khó chịu, vì vậy cậu phải chịu đau đớn khi nghỉ ngơi hơn là khi gắng sức đi tiếp. Kể từ lúc thần chú cầm máu của các phù thủy bị thất bại, cậu cho rằng họ cũng đang e sợ cậu, như thể cậu đã bị ám một lời nguyền có uy lực hơn cả sức mạnh của họ vậy.

Rồi chúng tới một cái hồ nhỏ, một mảng màu xanh da trời rực rỡ chỉ vỏn vẹn gần ba mươi mét bề ngang nằm giữa những tảng đá đỏ ối. Hai đứa trẻ dừng lại ở đó một lúc để uống nước và đổ đầy bình của mình, để ngâm đôi chân đang nhức nhối vào làn nước lạnh buốt. Chúng lưu lại vài phút rồi đi tiếp, không lâu sau, khi mặt trời đã lên tới đỉnh và nóng nực nhất, Serafina Pekkala lao xuống nói chuyện với chúng. Cô đang rất bối rối.

“Ta phải rời các cháu một lúc,” cô thông báo. “Lee Scoresby cần ta. Không rõ là tại sao. Nhưng ông ấy sẽ không gọi nếu không cần đến sự trợ giúp của ta. Đi tiếp đi, ta sẽ tìm được các cháu…”

“Ông Scoresby sao?” Lyra thốt lên, vừa hào hứng vừa lo lắng. “Nhưng ở đâu…”

Nhưng Serafina đã đi mất, phóng ra khỏi tầm mắt trước cả khi Lyra kịp nói hết câu. Lyra tự động với lấy chiếc Chân Kế để hỏi chuyện gì đã xảy ra với Lee Scoresby, nhưng rồi cô lại để tay buông thõng, vì cô đã hứa không làm gì khác ngoài việc chỉ dẫn cho Will.

Cô bé nhìn sang cậu. Cậu đang ngồi gần đó, bàn tay đặt hờ trên đầu gối vẫn đang chậm chạp rỉ máu, gương mặt cậu sạm đen vì nắng nhưng lại nhợt nhạt vì bị thiêu đốt.

“Will,” cô lên tiếng, “cậu có biết vì sao mình phải đi tìm bố không?”

“Đó là điều tớ vẫn luôn biết. Mẹ nói rằng tớ sẽ tiếp bước bố mình. Đó là tất cả những gì tớ biết.”

“Điều đó nghĩa là gì, cái mà tiếp bước bố cậu ấy? Cái bước đó là sao?”

“Một nhiệm vụ, tớ đoán vậy. Dù là ông ấy đang làm gì thì tớ cũng sẽ phải tiếp tục đảm nhiệm. Việc đó cũng rõ ràng như tất cả những chuyện khác vậy.”

Cậu dùng tay phải gạt mồ hôi ra khỏi mắt. Điều mà cậu không thể nói được là cậu mong mỏi được gặp bố mình giống như một đứa trẻ đi lạc khao khát tìm về nhà. Cậu sẽ không nghĩ tới sự so sánh đó, vì nhà là nơi cậu bảo đảm an toàn cho mẹ mình, không phải một nơi người khác giữ yên lành cho cậu. Nhưng đến nay đã là năm năm kể từ cái buổi sáng thứ Bảy trong siêu thị khi mà trò chơi giả vờ ẩn trốn kẻ thù hoàn thành trở thành sự thật, đã lâu đến thế rồi, và trái tim cậu thèm khát được nghe thấy những lời: “Giỏi lắm, làm tốt lắm, con trai; không ai trên trái đất này có thể làm được tốt hơn; mẹ rất tự hào về con. Giờ thì đến đây nghỉ đi nào…”

Will mong mỏi điều đó đến mức chính bản thân cậu cũng không nhận ra. Đó chỉ là một phần của cảm nhận về mọi thứ. Vì vậy lúc này cậu không thể diễn tả được điều đó cho Lyra, dù cho cô bé có thể nhận thấy nó trong ánh mắt cậu, và việc cô lại có thể nhạy cảm đến mức này là điều thật mới mẻ. Trên thực tế, trong cô đang hình thành một dạng ý thức mới cứ khi nào dính dáng đến Will, như thể cậu đơn giản là rõ nét hơn bất cứ ai cô từng biết trước đây. Mọi thứ về cậu thật rõ rệt, gần gũi và ngay trước mắt.

Có lẽ cô bé đã nói điều đó với cậu, nếu vào lúc đó một phù thủy không bay xuống.

“Ta có thể thấy có người phía sau chúng ta,” cô phù thủy nói. “Họ còn cách khá xa, nhưng đang di chuyển rất nhanh. Ta có nên lại gần kiểm tra không?”

“Vâng, nhờ cô,” Lyra đáp, “nhưng hãy bay thấp và giấu mình, đừng để họ thấy cô.”

Will và Lyra lại đau đớn đứng dậy rồi tiếp tục trèo lên.

“Tớ đã bị lạnh không biết bao nhiêu lần rồi,” Lyra nói, để tạm quên đi những kẻ bám đuổi, “nhưng chưa bao giờ thấy nóng thế này. Ở thế giới của cậu có nóng thế này không?”

“Ở nơi tớ từng sống thì không. Thường là thế. Nhưng khí hậu đang biến đổi, mùa hè nóng hơn hồi xưa. Người ta nói rằng con người đang làm nhiễu loạn tầng khí quyển bằng việc đẩy các hóa chất vào đó, khiến thời tiết vượt ra khỏi tầm kiểm soát.”

“Ừ, đúng là họ đã làm vậy,” Lyra nói, “thời tiết đang thay đổi. Còn chúng ta thì đang mắc kẹt trong tình trạng đó đây.”

Cậu bé quá nóng và khát để có thể trả lời, vậy là chúng tiếp tục vừa leo vừa thở hổn hển trong bầu không khí chộn rộn. Pantalaimon lúc này đã biến thành một con dế và ngồi trên vai Lyra, quá mệt mỏi để nhảy nhót hay bay lượn. Cứ thỉnh thoảng các phù thủy sẽ lại thấy một dòng suối ở trên cao, quá cao để có thể trèo tới, nên họ bèn bay lên đổ đầy bình cho hai đứa trẻ. Nếu không có nước, chúng sẽ chẳng trụ được lâu, mà quanh đó thì chẳng có nguồn nước nào; bất kì con suối nào lộ được ra ngoài không khí lại đều nhanh chóng bị nuốt chửng giữa những tảng đá.

Cứ như thế chúng đi tiếp, hướng về phía chiều tà.

Cô phù thủy bay ngược trở lại để thăm dò có tên là Lena Feldt. Cô bay dưới thấp, từ vách đá này sang vách đá kia. Khi mặt trời dần lặn, phủ lên các phiến đá màu đỏ máu dữ dội, cô tới được một cái hồ nhỏ xanh ngắt và thấy một toán binh lính đang dựng trại.

Nhưng chỉ một cái nhìn thoáng qua đã cho cô biết nhiều hơn mong muốn; đám lính này không có linh thú. Chúng cũng không tới từ thế giới của Will hay thế giới của Cittàgazze, nơi linh thú của con người nằm bên trong cơ thể, nơi họ trông vẫn tràn trề sức sống: những người này tới từ thế giới của chính cô, việc thấy họ không có linh thú là một nỗi kinh hoàng gớm guốc và ghê tởm.

Thế rồi cô tìm thấy lời giải thích từ một căn lều bên hồ. Lena Feldt nhìn thấy một phụ nữ, một sinh vật tuổi thọ ngắn, duyên dáng trong bộ đồ đi săn bằng vải kaki, và cũng đầy sức sống như con khỉ vàng đang tung tẩy nhảy bên cạnh, dọc theo mép nước.

Lena Feldt ẩn mình giữa những tảng đá phía trên để quan sát trong lúc Phu nhân Coulter trao đổi với sĩ quan phụ trách, còn người của ông ta thì dựng lều, nhóm lửa, đun nước.

Cô phù thủy này đã tham gia vào đội quân giải cứu đám trẻ con ở Bolvangar của Serafina Pekkala, cô khao khát được bắn Phu nhân Coulter ngay tại chỗ; nhưng một vận may nào đó đã bảo vệ người đàn bà này, vì chỗ cô đứng quá xa để có thể bắn cung, mà cô lại không thể tới gần hơn nếu không khiến bản thân tàng hình. Vậy là cô bắt đầu làm phép. Cần tới mười phút tập trung cao độ.

Cuối cùng khi đã cảm thấy tự tin, Lena Feldt bước xuống con dốc gồ ghề đá về phía cái hồ. Khi cô bước qua khu trại, một hay hai binh sĩ đờ đẫn ngước lên nhìn, nhưng thấy rằng thứ mà họ đang nhìn vào quá khó để ghi nhớ nên lại quay đi. Cô phù thủy dừng lại phía bên ngoài căn lều Phu nhân Coulter đã bước vào, đặt sẵn một mũi tên vào dây cung.

Cô lắng nghe tiếng nói khe khẽ lọt qua tấm vải bạt rồi cẩn thận tiến đến vạt lều mở nhìn ra hồ.

Bên trong lều, Phu nhân Coulter đang nói chuyện với một người đàn ông mà Lena Feldt chưa từng thấy bao giờ: một ông già tóc hoa râm có dáng vẻ uy quyền, con linh thú rắn quấn quanh cổ tay ông ta. Ông già ngồi trong cái ghế bằng vải bạt bên cạnh người phụ nữ, còn bà thì đang ngả người về phía ông, nhẹ nhàng cất giọng.

“Hẳn nhiên rồi, Carlo ạ,” bà ta nói, “Em sẽ cho anh biết mọi điều anh muốn. Anh muốn biết điều gì?”

“Làm sao em điều khiển được bọn Quỷ hút hồn?” Người đàn ông hỏi. “Ta không nghĩ là việc đó lại khả thi, nhưng chúng lại cun cút theo đuôi em như chó theo chủ vậy… Có phải chúng sợ vệ sĩ của em không? Rốt cuộc là thế nào vậy?”

“Đơn giản lắm,” bà nói. “Chúng biết rằng em có thể cung cấp cho chúng nhiều thực phẩm hơn nếu để cho em sống thay vì hút hồn của em. Em có thể dẫn chúng tới chỗ tất cả những nạn nhân mà trái tim ma quỷ của chúng thèm khát. Ngay khi anh vừa miêu tả chúng, em đã biết rằng mình có thể thống trị những sinh vật này và quả là như vậy. Cả thế giới đang rung chuyển vì sức mạnh của cái đám nhợt nhạt này! Nhưng Carlo ạ,” bà thì thầm, “em cũng có thể khiến anh hài lòng, anh biết đấy. Anh có muốn em khiến anh vui hơn nữa không?”

“Marisa,” ông ta thì thầm, “chỉ cần ở gần bên em là đã đủ vui sướng lắm rồi…”

“Không, không đâu Carlo ạ; anh biết là không phải mà. Anh biết em có thể làm vui lòng anh hơn thế này mà.”

Đôi tay đen nhỏ cứng như sừng của con linh thú khỉ vàng đang vuốt ve con linh thú rắn. Từng chút một, con rắn thả lỏng người rồi bắt đầu trườn theo cánh tay người đàn ông về phía con khỉ. Cả ông già lẫn người phụ nữ đều đang cầm một li rượu vàng óng, bà ta nhấp một ngụm của mình rồi ngả sát hơn đôi chút về phía ông ta.

“A,” người đàn ông thốt lên khi con linh thú từ từ trượt khỏi tay mình rồi thả người vào đôi tay của con khỉ vàng. Con khỉ chậm rãi nâng nó lên mặt rồi khẽ cọ má dọc theo lớp da màu ngọc lục bảo của nó. Cái lưỡi con rắn ngúng nguẩy tứ phía một cách nham hiểm, còn người đàn ông thì thở dài.

“Carlo, nói cho em biết vì sao anh lại truy đuổi thằng bé,” Phu nhân Coulter thì thầm, giọng nói của bà cũng dịu dàng như bàn tay mơn trớn của con khỉ. “Tại sao anh lại cần phải tìm nó?”

“Nó giữ một thứ mà anh muốn. Ôi, Marisa…”

“Là gì vậy Carlo? Nó giữ cái gì vậy?”

Ông già lắc đầu. Nhưng ông ta thấy thật khó mà kháng cự lại được; linh thú của ông đã nhẹ nhàng quấn quanh ngực con khỉ, đầu liên tục cọ vào bộ lông dài bóng lộn trong khi con khỉ miết tay trên tấm thân mượt mà của mình.

Lena Feldt đứng quan sát, tàng hình nhưng chỉ cách nơi họ ngồi hai bước. Dây cung của cô đang căng lên, mũi tên đặt sẵn sàng trong đó: cô đã có thể kéo rồi thả chỉ trong chưa đầy một giây, và Phu nhân Coulter đáng ra đã chết trước cả khi kịp lấy hơi. Nhưng cô phù thủy lại thấy tò mò. Cô đứng im trong yên lặng, mắt mở to.

Nhưng trong lúc quan sát Phu nhân Coulter, cô quên không nhìn đằng sau về phía bên kia cái hồ xanh nhỏ. Ở bờ phía xa trong bóng tối là một rừng cây nhỏ đầy ma mị dường như tự phát mọc lên, một khu rừng cứ liên tục run lên như thể đang chứa đựng một ý đồ rõ ràng nào đó. Nhưng chúng không phải là cây, hẳn rồi; trong lúc toàn bộ sự hiếu kì của Lena Feldt và linh thú của cô đang hướng vào Phu nhân Coulter, một trong những hình thù nhợt nhạt tách ra khỏi đồng bọn của mình rồi trôi qua mặt nước hồ lạnh giá, không tạo ra đến một gợn sóng, cho tới khi nó dừng lại cách tảng đá nơi linh thú của Lena Feldt đang đậu chỉ vài phân.

“Anh có thể nói với em dễ không ấy mà, Carlo,” Phu nhân Coulter đang lẩm nhẩm. “Anh có thể thì thầm. Anh có thể giả vờ nói trong giấc ngủ, ai lại có thể trách anh việc đó được chứ? Hãy nói cho em biết thằng bé có thứ gì, và vì sao anh lại muốn nó. Em có thể lấy nó cho anh… Anh không muốn em làm việc đó sao? Cứ nói với em đi, Carlo. Em không cần nó đâu. Em muốn con bé cơ. Là gì thế? Nói em nghe đi, rồi anh sẽ có được nó.”

Ông già khẽ rùng mình trong lúc đôi mắt vẫn nhắm nghiền. Rồi ông cất tiếng: “Đó là một con dao. Con dao kì ảo của Cittàgazze. Em chưa từng nghe tới nó sao, Marisa? Có người gọi nó là teleutaia makhaira, con dao cuối cùng của thế giới. Người khác lại gọi là Sát Thánh…”

“Nó để làm gì vậy Carlo? Tại sao nó lại đặc biệt thế?”

“À… Đó là con dao cắt được mọi thứ… Thậm chí cả những người rèn nên nó cũng không biết được nó có thể làm gì… Chẳng có gì, chẳng có ai, vật chất, linh hồn, thiên thần, không khí - chẳng có gì chống chọi lại được với con dao kì ảo. Marisa, nó là của ta, em hiểu chứ?”

“Đương nhiên rồi, Carlo, em hứa. Để em rót rượu cho anh…”

Trong lúc con khỉ vàng chậm rãi mơn man con rắn màu ngọc lục bảo, khẽ siết lấy nó, nâng lên, vuốt ve, trong khi Ngài Charles thở dài mãn nguyện, Lena Feldt nhận thấy việc đang thực sự xảy ra: nhân cơ hội người đàn ông vẫn đang nhắm mắt, Phu nhân Coulter bí mật thả vài giọt từ một chiếc bình nhỏ vào li trước khi đổ đầy rượu vào.

“Đây, anh yêu,” bà thì thầm. “Hãy cùng nâng cốc và uống vì nhau…”

Người đàn ông đã mụ mẫm cả đầu óc. Ông ta nhận lấy cái li rồi nhấp lấy nhấp để, ngụm này kế tiếp ngụm kia.

Rồi không hề có cảnh báo trước, Phu nhân Coulter đứng dậy rồi quay lại nhìn thẳng vào Lena Feldt.

“Này, phù thủy,” bà ta nói, “ngươi tưởng ta không biết các ngươi tàng hình như thế nào sao?”

Lena Feldt quá kinh ngạc để có thể cử động.

Đằng sau bà ta, người đàn ông đang vật lộn để thở. Ngực ông ta phập phồng, mặt đỏ quạch, con linh thú rắn mềm oặt và lả đi trên tay con khỉ. Con khỉ liền quẳng nó đi đầy khinh miệt.

Lena Feldt định giương cung lên, nhưng một sự tê liệt quái ác đã xâm chiếm vai cô. Cô không thể làm được việc đó. Cô khẽ hét lên, việc này chưa từng xảy ra trước đây.

“Ồ, quá muộn để làm vậy rồi,” Phu nhân Coulter nói. “Nhìn về phía hồ đi, phù thủy.”

Lena Feldt quay lại và thấy con linh thú chim sẻ tuyết của mình đang đập cánh và kêu thét như thể đang bị nhốt trong một lồng kính đã bị rút hết không khí. Nó đập cánh bay lên nhưng lại bị rơi, người sụp xuống, yếu dần, mỏ nó đang há to, hổn hển thở vì hoảng loạn. Đám Quỷ hút hồn đang quấn lấy nó.

“Không!” Cô hét lên và cố gắng tiến về phía đó, nhưng lại bị một cơn nôn nao kìm bước. Thậm chí cả trong cơn đau kinh hồn, Lena Feldt vẫn nhận ra rằng Phu nhân Coulter sở hữu sức mạnh tinh thần vượt trội hơn bất cứ ai cô từng gặp. Cô không ngạc nhiên khi thấy Quỷ hút hồn phải chịu khuất phục trước Phu nhân Coulter: không ai có thể cưỡng lại được uy quyền đó. Lena Feldt khổ sở quay lại phía người đàn bà.

“Để cho nó đi! Làm ơn hãy để cho nó đi!” Cô kêu lên.

“Để xem đã. Đứa trẻ có đi với ngươi không? Đứa con gái tên Lyra ấy?”

“Có!”

“Cả một thằng bé nữa? Một thằng bé có con dao?”

“Phải - xin bà…”

“Các ngươi có bao nhiêu phù thuỷ?”

“Hai mươi! Thả nó ra, thả nó ra đi!”

“Tất cả đều trên không trung à? Hay vài người đang ở dưới đất cùng với bọn trẻ?”

“Phần lớn ở trên cao, luôn có ba hoặc bốn người dưới đất - đau đớn quá - thả nó ra hoặc giết ta đi!”

“Chúng đã leo đến đâu rồi? Chúng đang đi tiếp hay đã dừng lại để nghỉ?”

Lena Feldt khai ra tất cả. Cô có thể chịu đựng bất cứ sự hành hạ nào ngoại trừ việc đang xảy ra với linh thú của mình lúc này. Khi đã tìm hiểu được mọi điều muốn biết về vị trí của các phù thủy và cách họ canh gác cho Lyra và Will, Phu nhân Coulter nói:

“Giờ thì nói cho ta biết điều này. Phù thủy các ngươi biết gì đó về đứa trẻ Lyra. Ta đã suýt lấy được thông tin từ một trong các chị em của ngươi, nhưng ả đã chết trước khi ta kịp hoàn thành việc tra tấn. Chà, giờ thì không có ai cứu được ngươi đâu. Nói cho ta nghe sự thật về con gái ta.”

Lena Feldt thở dốc: “Cô sẽ trở thành người mẹ - sẽ là sự sống - mẹ - cô bé sẽ không vâng lời - cô bé sẽ…”

“Gọi tên nó đi! Ngươi đang nói tất cả trừ điều quan trọng nhất! Tên nó là gì?” Phu nhân Coulter hét lên.

“Eve! Mẹ của vạn vật! Eve, một lần nữa! Đức mẹ Eve! ” Lena Feldt lắp bắp nói trong lúc nức nở khóc.

“Chà,” Phu nhân Coulter thốt lên.

Rồi bà ta thở dài đánh thượt một cái, cứ như cuối cùng thì mục đích sống của bà cũng đã hiện ra rõ ràng trước mắt.

Cô phù thủy lờ mờ nhận ra việc mình đã làm, cô cố gắng kêu lên trong nỗi kinh hoàng đang bủa vây lấy mình:

“Bà sẽ làm gì cô bé? Bà sẽ làm gì?”

“Gì chứ, ta sẽ phải hủy diệt nó,” Phu nhân Coulter đáp, “để ngăn chặn một sự Sa ngã khác… Sao ta lại không nhận ra từ trước nhỉ? Nó quá vĩ đại để có thể thấy được…”

Bà khẽ đập hai bàn tay lại với nhau, như một đứa trẻ, mắt mở tròn. Lena Feldt, đang rên rỉ, nghe thấy bà nói tiếp:

“Hẳn rồi. Asriel sẽ gây chiến với Đấng Quyền Năng, và rồi… Đương nhiên, đương nhiên rồi… Giống như trước đây, giờ lại vậy. Còn Lyra là Eve. Lần này nó sẽ không sa ngã. Ta sẽ chịu trách nhiệm về điều này. Sẽ không có sự Sa ngã nào cả…”

Đến đây Phu nhân Coulter liền dừng lại rồi búng tay ra hiệu cho đám Quỷ hút hồn ăn linh thú của cô phù thủy. Con chim sẻ tuyết nhỏ bé nằm co giật trên tảng đá trong lúc đám Quỷ dạt về phía bản thể của nó, và rồi những gì Lena Feldt đã phải trải qua trước đó liền nhân đôi, nhân ba rồi gấp bội lên cả trăm lần. Cô cảm thấy sự ghê tởm trong tâm hồn, nỗi tuyệt vọng tột cùng đầy chán ghét, sự mệt mỏi u sầu sâu hoắm, khiến cô chết dần chết mòn. Suy nghĩ có ý thức cuối cùng của cô là căm ghét cuộc đời: các giác quan của cô đã lừa dối cô; thế giới này không được tạo ra bởi năng lượng và niềm vui mà là sự độc ác, phản bội và mệt mỏi. Sống cũng đáng chán mà chết cũng chẳng tốt đẹp hơn gì. Xuyên suốt đến tận cùng của vũ trụ, đây là sự thật đầu tiên, cuối cùng và cũng là duy nhất.

Cứ như thế cô đứng với cây cung trong tay, lãnh đạm, chết khi vẫn còn sống.

Vậy là Lena Feldt không nhìn thấy hay không quan tâm đến việc Phu nhân Coulter làm tiếp đó. Để mặc người đàn ông tóc hoa râm rúm ró bất tỉnh trong chiếc ghế vải bạt và con linh thú có bộ da xám xịt cuộn mình trong bụi, bà gọi đội trưởng đội vệ binh tới rồi yêu cầu họ chuẩn bị sẵn sàng cho một cuộc hành quân đêm lên núi.

Sau đó bà tới bên mép nước để gọi đám Quỷ hút hồn.

Chúng đến theo lệnh bà, lướt đi trên mặt nước như những cột sương mù. Bà ta giơ tay lên và làm cho chúng quên đi rằng mình bị gắn liền với mặt đất, do vậy từng con một bay lên không trung và tự do trôi nổi như những nùi bông chứa hạt kế đầy ác tâm. Chúng trôi lên cao trong đêm rồi được các dòng khí lưu chuyển đem về phía Will, Lyra và các phù thủy còn lại; nhưng Lena Feldt chẳng hề nhìn thấy điều đó.

Nhiệt độ hạ thấp nhanh chóng sau khi màn đêm buông xuống. Khi ăn hết lát bánh mì khô cuối cùng của mình, Will và Lyra nằm xuống bên dưới một tảng đá nhô ra để giữ ấm và cố gắng ngủ. Ít nhất thì Lyra cũng không phải cố: cô bé đã ngủ tít chỉ trong chưa đầy một phút, cuộn sát mình quanh Pantalaimon, nhưng Will thì không thể chợp mắt dù cho có nằm đó bao lâu đi nữa. Một phần là do bàn tay cậu, lúc này đang nhức nhối lên tận khuỷu tay và sưng tấy một cách khó chịu, một phần khác là do mặt đất cứng, do cái lạnh, do cạn kiệt sức lực, và một phần vì khao khát muốn gặp mẹ.

Cậu đang lo lắng cho mẹ mình, đương nhiên rồi, và cậu biết rằng bà sẽ được an toàn hơn nếu cậu ở đó chăm sóc bà; nhưng cậu cũng muốn được bà chăm sóc, giống như bà đã làm khi cậu còn rất nhỏ; cậu muốn được bà băng bó, được bà đặt vào giường và hát cho nghe, bà sẽ xua tan mọi ưu phiền và bao bọc cậu bởi tất cả hơi ấm, sự mềm mại và ân cần của người mẹ mà cậu thật sự rất cần; vậy mà điều đó lại chẳng bao giờ xảy ra. Một phần trong cậu vẫn chỉ là một cậu bé, thế là cậu nức nở khóc, nhưng vẫn nằm yên vì không muốn đánh thức Lyra dậy.

Thế nhưng cậu mãi vẫn không ngủ nổi. Chưa bao giờ cậu tỉnh táo đến thế. Cuối cùng, cậu duỗi thẳng đôi chân cứng đờ của mình rồi lặng lẽ đứng dậy trong lúc người run lẩy bẩy. Với con dao bên hông, cậu bắt đầu leo lên cao hơn trên ngọn núi để làm dịu bớt sự bồn chồn không yên trong người.

Đằng sau cậu, con linh thú chim cổ đỏ của phù thủy canh gác nghếch đầu lên, cô liền quay lại từ vị trí quan sát của mình và thấy Will đang trèo lên những tảng đá. Cô với lấy cành thông của mình rồi lặng lẽ bay lên không trung, không phải để quấy rầy cậu mà để đảm bảo rằng cậu không gặp nguy hiểm gì.

Cậu bé không nhận thấy điều đó. Cậu cảm thấy một nhu cầu to lớn cần phải di chuyển và cứ thế đi tiếp, đến nỗi gần như không còn để ý đến cơn đau ở bàn tay nữa. Cậu cảm thấy như thể mình sẽ đi suốt đêm suốt ngày, đi mãi mãi, vì chẳng còn điều gì khác có thể xoa dịu sự xúc động đè nén trong ngực. Dường như cảm thông cho nỗi lòng của cậu, một ngọn gió liền nổi lên. Ở chốn hoang vu này không có lá để lung lay, nhưng không khí đang đập vào cơ thể cậu và khiến tóc cậu tuôn ra khỏi mặt; xung quanh cậu là bầu không khí bão táp, nhưng bên trong cũng chẳng hề lặng yên.

Cậu trèo ngày càng cao hơn, gần như chẳng nghĩ tới việc làm cách nào có thể tìm đường trở xuống chỗ Lyra, cho tới khi cậu bước ra một cao nguyên nhỏ dường như nằm trên đỉnh cao tận cùng của thế giới. Khắp xung quanh cậu, trên mọi đường chân trời, núi non cũng không nhô được lên cao hơn. Dưới ánh sáng chói lọi rực rỡ của mặt trăng, những màu sắc duy nhất là màu đen tuyệt đối và màu trắng xỉn đục, mọi gờ mép đều lởm chởm và mọi bề mặt đều trần trụi.

Cơn gió dữ dội hẳn đã đẩy mây lên trên đỉnh đầu, vì đột nhiên mặt trăng bị bao phủ và bóng tối tràn lên toàn bộ cảnh vật: đó cũng là một khối mây dày, vì không một tia sáng nào từ ánh trăng lọt qua được nó. Chỉ trong chưa đầy một phút, Will đã thấy mình đứng trong bóng tối gần như hoàn toàn.

Cùng lúc ấy, Will cảm thấy có thứ gì đó đang tóm chặt lấy cánh tay phải của mình.

Cậu hét lên kinh hãi và lập tức quay người bỏ chạy, nhưng cái thứ đang tóm lấy cậu thật dai dẳng. Nó khiến Will phát điên. Cậu có cảm giác như mình đang ở tận cùng của mọi thứ, như thể đó cũng là cái kết của cuộc đời cậu, cậu sẽ chiến đấu và chiến đấu cho tới khi gục ngã.

Vậy là cậu vặn rồi đá rồi lại vặn, nhưng bàn tay đó không chịu buông ra; và vì cánh tay bị giữ là tay phải nên cậu không thể lôi con dao ra được. Cậu thử bằng tay trái, nhưng do đang bị giật lắc quá mạnh, bàn tay thì lại đau nhức và sưng vù, nên cậu không với tới nổi: cậu phải chiến đấu bằng một bàn tay trần đang bị thương, chống lại một người đàn ông trưởng thành.

Cậu cắm răng vào bàn tay đang tóm lấy cẳng tay mình, nhưng những gì xảy ra chỉ là cậu bị gã đàn ông giáng cho một cú liểng xiểng vào sau gáy. Rồi Will đá lia lịa, vài cú trúng nhưng cũng có những cú trượt, và suốt thời gian đó cậu không ngừng kéo, giật, vặn, đẩy, thế nhưng hắn vẫn tóm cậu không buông.

Cậu lờ mờ nghe thấy tiếng hổn hển của chính mình cùng tiếng cằn nhằn và thở gắt của gã đàn ông; thế rồi chẳng may cậu xọc chân ra sau gã đàn ông và đâm bổ vào ngực hắn, hắn liền ngã rầm xuống với Will đè phía trên, nhưng bàn tay kia thì không hề nới lỏng lấy một giây. Will lăn mạnh ra nền đất lởm chởm đá và cảm nhận một nỗi sợ hãi nặng nề đang ép chặt lấy trái tim mình: gã đàn ông này sẽ không bao giờ thả cậu ra, kể cả nếu cậu có giết hắn, cái xác của hắn cũng vẫn sẽ tóm chắc lấy cậu.

Nhưng Will đang yếu dần, và cậu bắt đầu khóc. Cậu khóc tức tưởi trong lúc đá, giật và thụi gã đàn ông bằng đầu và chân, dù biết rằng cơ bắp của mình sẽ sớm bỏ cuộc. Nhưng rồi cậu nhận ra gã đàn ông đang nằm bất động, dù cho bàn tay hắn vẫn không hề nới lỏng. Hắn đang nằm đó, để yên cho Will không ngừng đấm đá bằng đầu gối và đầu. Will vừa nhận ra điều đó thì chút sức lực cuối cùng đã rời khỏi cậu, vậy là cậu nằm xuống bất lực bên cạnh đối thủ của mình, mọi dây thần kinh trong cơ thể đều co giật, nhức nhối và choáng váng.

Will đau đớn lôi người dậy rồi nhòm qua bóng tối sâu thẳm, cậu nhận ra một khối trắng mờ trên mặt đất bên cạnh gã đàn ông. Đó là phần ngực và đầu màu trắng của một con chim khổng lồ, chim ưng biển, một con linh thú, nó đang nằm im. Will cố gắng giật ra, cú giật yếu ớt của cậu khiến gã đàn ông phản ứng lại, nhưng hắn vẫn không chịu nới lỏng tay.

Hắn đang cử động. Hắn cẩn thận lần sờ bàn tay phải của Will bằng bàn tay còn rảnh của mình. Hành động đó khiến Will dựng tóc gáy.

Rồi gã đàn ông lên tiếng: “Cho ta xem tay còn lại.”

“Cẩn thận đấy,” Will nói.

Bàn tay rảnh của gã đàn ông lần xuống cánh tay trái của Will, những ngón tay nhẹ nhàng di chuyển qua cổ tay tới lòng bàn tay sưng phồng rồi lên gốc hai ngón tay đã mất của Will với sự dịu dàng tột bậc.

Bàn tay còn lại của hắn lập tức nới ra, rồi hắn ngồi dậy.

“Cậu có con dao,” hắn nói. “Cậu là người nắm giữ con dao.”

Giọng của hắn ta âm vang, khàn khàn, nhưng lại như đang hết hơi. Will cảm thấy rằng hắn đang bị thương nặng. Có phải cậu đã đả thương tên kẻ thù ám muội này không?

Will vẫn đang nằm trên đá, hoàn toàn kiệt sức. Tất cả những gì cậu có thể thấy là hình dáng của gã đàn ông đang cúi xuống phía trên mình, nhưng cậu không thấy được mặt hắn. Gã đàn ông đang ngả sang bên để với lấy thứ gì đó, vài giây sau một cảm giác mát lạnh, dễ chịu một cách thần kì lan tỏa vào bàn tay cậu từ gốc các ngón tay khi gã đàn ông bôi một thứ thuốc mỡ lên da cậu.

“Ông đang làm gì thế?” Will hỏi.

“Trị thương cho cậu. Nằm yên nào.”

“Ông là ai?”

“Ta là người duy nhất biết con dao này dùng để làm gì. Giơ tay cậu lên thế này. Đừng cử động.”

Gió đang quật dữ dội hơn bao giờ hết, rồi một vài hạt mưa bắn vào mặt Will. Cậu đang run lên cầm cập nhưng vẫn cố dùng tay phải chống lấy tay trái trong lúc người đàn ông tra thêm thuốc mỡ lên các gốc ngón tay rồi quấn thật chặt một dải vải lanh quanh bàn tay cậu.

Sau khi vừa băng bó cẩn thận xong, người đàn ông liền đổ sụp sang một bên và nằm xuống. Will, trong lúc vẫn đang sửng sốt vì cảm giác tê mát kì diệu trên tay, cố gắng ngồi dậy nhìn ông ta. Nhưng không gian lúc này tối hơn bao giờ hết. Cậu ngã về phía trước, tay phải chạm vào ngực người đàn ông, và nhận thấy rằng tim ông đập như một con chim đang vùng vẫy trên song sắt lồng.

“Phải,” người đàn ông nói, giọng khản đặc. “Thử chữa nó xem nào, làm đi.”

“Ông bị bệnh à?”

“Ta sẽ sớm khỏe thôi. Cậu có con dao, đúng không?”

“Phải.”

“Và cậu biết cách sử dụng nó chứ?”

“Vâng, vâng. Nhưng ông tới từ thế giới này à? Làm sao ông biết được về nó?”

“Nghe này,” người đàn ông nói trong lúc vất vả ngồi dậy. “Đừng cắt ngang. Nếu cậu là người nắm giữ con dao, cậu có một nhiệm vụ vĩ đại hơn mình tưởng tượng đó. Một đứa trẻ à… Sao người ta lại để cho chuyện này xảy ra nhỉ? Mà thôi, chẳng khác được… Một cuộc chiến đang sắp nổ ra, cậu bé ạ. Cuộc chiến vĩ đại nhất từng có. Một việc tương tự thế này đã từng xảy ra trước đây, và lần này phe chính nghĩa phải thắng… Trong suốt hàng nghìn năm lịch sử loài người, chúng ta chẳng có gì ngoài dối trá, tuyên truyền, tàn ác và lừa lọc. Đã đến lúc chúng ta bắt đầu lại, nhưng lần này sẽ thật hẳn hoi…”

Ông ta dừng lại để lấy vài hơi thở hấp hối.

“Con dao,” ông nói tiếp sau một phút, “mấy ông triết học gia thời xưa đó đâu biết mình đã chế tạo ra thứ gì. Họ phát minh ra một dụng cụ có thể cắt phanh cả những hạt vật chất nhỏ nhất, và dùng nó để lấy trộm kẹo. Họ không hề biết mình đã tạo ra thứ vũ khí có một không hai trong tất cả các vũ trụ mà có thể đánh bại được tên bạo chúa. Đấng Quyền Năng. Chúa. Các thiên thần tạo phản bị đày đọa là bởi vì họ không có thứ gì giống như con dao này; nhưng giờ…”

“Tôi đâu có muốn sở hữu nó! Đến giờ cũng không muốn!” Will gào lên. “Nếu ông muốn, ông có thể lấy nó! Tôi ghét nó, ghét cả việc mà nó làm…”

“Quá muộn rồi. Cậu không có lựa chọn nào cả: cậu là người nắm giữ: nó đã chọn cậu. Hơn nữa chúng biết là cậu có nó; nếu cậu không dùng nó để chống lại chúng; chúng sẽ giật lấy từ tay cậu rồi dùng nó để chống lại tất cả chúng ta, mãi mãi.”

“Nhưng tại sao tôi lại phải chiến đấu với chúng chứ? Tôi đã chiến đấu quá nhiều rồi, tôi không thể tiếp tục nữa, tôi muốn…”

“Cậu có thắng những cuộc chiến đó không?”

Will im bặt. Rồi cậu đáp: “Có, tôi cho là thế.”

“Cậu đã chiến đấu vì con dao?”

“Phải, nhưng…”

“Vậy thì cậu là một chiến binh. Đó là bản chất của cậu. Cứ tranh cãi với bất cứ thứ gì khác, chứ đừng tranh cãi với bản chất của chính mình.”

Will biết rằng người đàn ông đang nói sự thật. Nhưng đó không phải là một sự thật dễ chịu. Nó nặng nề và đau đớn. Người đàn ông dường như biết được điều đó, vì ông ta để cho Will cúi đầu trước khi lại lên tiếng.

“Có hai thế lực lớn,” người đàn ông nói, “và chúng vẫn đang tranh giành lẫn nhau kể từ khi thời gian bắt đầu. Mọi tiến bộ trong cuộc sống của con người, mọi mảnh tri thức, hiểu biết và lễ nghi phép tắc mà chúng ta có đều đã bị giành giật giữa hai bên. Mỗi khi sự tự do của con người được tăng lên đôi chút là một lần nó bị tranh chấp khốc liệt giữa những người muốn chúng ta biết nhiều hơn, thông thái hơn và mạnh mẽ hơn, với những kẻ muốn chúng ta phục tùng, nhún nhường và cam chịu.

“Và lúc này, hai thế lực đó đang dàn quân chuẩn bị tham chiến. Bên nào cũng muốn có con dao của cậu hơn tất thảy mọi thứ. Cậu phải lựa chọn, nhóc ạ. Chúng ta đã được dẫn lối đến đây, cả hai chúng ta: cậu với con dao, còn ta là để nói cho cậu về nó.”

“Không! Ông nhầm rồi!” Will hét lên. “Tôi không hề mong đợi bất cứ thứ gì như vậy! Đó hoàn toàn không phải là thứ tôi tìm kiếm!”

“Cậu có thể không nghĩ vậy, nhưng đó là thứ cậu đã tìm thấy,” người đàn ông nói từ trong bóng tối.

“Nhưng tôi phải làm gì?”

Đến đó Stanislaus Grumman, Jopari, John Parry lưỡng lự.

Ông ý thức được một cách đau khổ về lời thề với Lee Scoresby và do dự trước khi phá bỏ nó; nhưng ông đã làm vậy.

“Cậu phải tới gặp Ngài Asriel,” ông nói, “nói với ông ta rằng Stanislaus Grumman cử cậu đến, rằng cậu mang theo thứ vũ khí mà ông ta cần hơn tất cả mọi điều. Dù có thích hay không, nhóc ạ, cậu vẫn có việc phải làm. Mặc kệ tất cả những thứ khác, dù cho chúng có tỏ ra quan trọng đến thế nào đi nữa, rồi đi làm việc này đi. Sẽ có người xuất hiện để hướng dẫn cậu: màn đêm luôn đầy các thiên thần. Vết thương của cậu sẽ lành sớm thôi. Đợi đã. Trước khi đi, ta muốn nhìn kĩ cậu.”

Ông lần tìm cái balô mà mình mang theo rồi lôi thứ gì đó ra, gỡ các lớp vải dầu rồi đánh một que diêm để thắp sáng một chiếc đèn lồng nhỏ bằng thiếc. Trong ánh sáng của chiếc đèn, qua lớp không khí đầy mưa gió bão bùng, hai người nhìn nhau.

Will thấy một đôi mắt xanh sáng rực trong một gương mặt hốc hác vài ngày râu không được cạo trên cái hàm ương ngạnh, có mái tóc hoa râm, nhăn nhó vì đau đớn, một cơ thể gầy gò uốn gập lại trong chiếc áo choàng nặng nề đính lông vũ.

Vị pháp sư thấy một cậu bé thậm chí còn nhỏ hơn mình tưởng tượng, cơ thể mảnh mai của nó run rẩy trong chiếc áo vải lanh rách nát, còn biểu hiện của nó là mệt lử, cáu kỉnh và cảnh giác, nhưng lại bừng lên một vẻ tò mò dữ dội, đôi mắt của nó mở to dưới hàng lông mày đen thẳng, y hệt mẹ của nó…

Rồi đột nhiên một điều gì đó khác thoáng nảy ra với cả hai người.

Nhưng vào chính lúc đó, khi ánh sáng từ đèn lồng phả lên gương mặt John Parry, có thứ gì đó phóng xuống từ bầu trời đục ngầu, khiến ông ngã vật ra chết trước khi kịp nói gì, một mũi tên xuyên qua trái tim đang lịm dần của ông. Con linh thú chim ưng biển tan biến chỉ trong chốc lát.

Will chỉ có thể ngồi đờ người ra.

Có thứ gì đó vụt qua khóe mắt, cậu lập tức giơ bàn tay phải lên và thấy mình tóm được một con chim cổ đỏ, một con linh thú, đang hoảng hốt.

“Không! Không!” Phù thủy Juta Kamainen hét lên rồi ôm chặt lấy tim mình, vụng về ngã đập xuống nền đất sỏi đá rồi lại chật vật bò dậy.

Nhưng Will đã ở đó trước khi cô kịp đứng lên, và con dao kì ảo đang kề bên cổ họng cô.

“Tại sao cô lại làm thế?” Cậu hét lên. “Tại sao lại giết ông ấy?”

“Vì ta yêu ông ta nhưng lại bị ông ta khinh thường! Ta là một phù thủy! Ta không tha thứ!”

Vì là một phù thủy, thường thì cô sẽ không sợ một thằng bé. Nhưng cô đang thấy run sợ trước Will. Dáng người trẻ tuổi thương tật này lại mang một sức mạnh và sự nguy hiểm lớn hơn bất cứ con người nào cô từng gặp, nó khiến cô nao núng. Cô phù thủy ngã về phía sau, cậu liền đi theo và nắm lấy tóc cô bằng bàn tay trái của mình, cậu không hề thấy đau, mà chỉ thấy một nỗi tuyệt vọng tan nát khôn cùng.

“Cô không biết ông ấy là ai,” cậu hét lên. “Ông ấy là bố tôi!”

Cô lắc đầu rồi thì thầm: “Không. Không! Điều đó không thể là sự thật được. Vô lí!”

“Cô nghĩ mọi việc phải có lí sao? Nó phải là sự thật! Ông ấy là bố của tôi, và không ai trong chúng tôi biết điều đó cho đến giây phút mà cô giết ông ấy! Phù thủy, tôi đã đợi cả cuộc đời mình, vượt mọi gian khổ đến đây rồi cuối cùng khi tìm ra được thì cô lại giết ông ấy…”

Cậu lay đầu cô phù thủy như giũ một miếng giẻ rách rồi hất cô xuống đất, khiến cô choáng váng. Sự kinh ngạc của cô gần như lấn át cả nỗi sợ rất chân thực đối với cậu bé. Cô bàng hoàng đứng dậy rồi khẩn khoản nắm lấy áo cậu, nhưng cậu bé liền gạt tay cô đi.

“Ông ấy đã làm gì để cô cần phải giết ông ấy chứ?” Cậu gào lên. “Nói thử xem nào, nếu cô có thể!”

Cô nhìn về phía người đã chết rồi nhìn lại sang Will và buồn bã lắc đầu.

“Không, ta không thể giải thích,” cô nói. “Cậu còn quá nhỏ. Cậu sẽ không hiểu điều đó đâu. Ta đã yêu ông ấy. Chỉ có vậy thôi. Thế là đủ rồi.”

Trước khi Will kịp ngăn cản, cô đã đổ người sang một bên, tay cầm chuôi con dao vừa lấy ra khỏi thắt lưng của chính mình và cắm vào giữa các xương sườn.

Will không thấy sợ, mà chỉ thấy cô độc và bế tắc.

Cậu từ từ đứng dậy rồi nhìn xuống cô phù thủy đã tắt thở, vào mái tóc đen dày, đôi má ửng hồng, đôi chân trắng ngần mịn màng ướt nước mưa, đôi môi hé mở như của một người tình.

“Mình không hiểu,” cậu nói lớn. “Chuyện này quá kì quặc.”

Will quay lại phía người đàn ông đã chết, bố của cậu.

Ngàn vạn mũi kim như đang ứ lên trong cổ họng cậu, và chỉ có cơn mưa xối xả mới xoa dịu được cảm giác cay xè trong mắt. Ngọn đèn lồng nhỏ vẫn đang lập lòe phả sáng khi luồng gió lùa qua ô cửa lệch cỡ mơn trớn ngọn lửa. Trong ánh sáng của nó, Will quỳ xuống, đặt hai tay lên thân của người đàn ông, chạm vào mặt ông, vai ông, ngực ông, vuốt mắt ông nhắm lại, gạt những sợi tóc bạc ướt đẫm khỏi trán ông, áp tay vào đôi má thô nhám của ông, đóng miệng ông lại, siết chặt tay ông.

“Bố,” cậu thốt lên, “cha, ba… Bố ơi… Con không hiểu tại sao cô ta lại làm thế. Chuyện này quá kì quặc đối với con. Nhưng bất cứ chuyện gì mà bố muốn con làm, con hứa, con thề con sẽ làm theo. Con sẽ chiến đấu. Con sẽ trở thành một chiến binh. Con sẽ mang con dao này đến cho Ngài Asriel, dù ông ta có ở đâu đi nữa, và giúp ông ấy đánh lại kẻ thù. Con sẽ làm vậy. Giờ bố có thể an nghỉ rồi. Mọi việc ổn rồi. Bố hãy ngủ đi nhé.”

Bên cạnh người chết là chiếc balô da hươu của ông, cùng với tấm vải dầu, chiếc đèn lồng và một cái hộp nhỏ bằng sừng đựng thuốc mỡ từ rêu cầm máu. Will nhặt chúng lên, rồi cậu để ý thấy chiếc áo choàng đính lông của bố mình đang trải ra phía sau cơ thể ông trên nền đất, nó ướt đẫm và nặng trịch, nhưng rất ấm áp. Bố cậu không còn cần đến nó nữa, trong khi Will thì đang run lẩy bẩy vì lạnh. Cậu cởi nút khóa bằng đồng ở cổ của người chết rồi quàng cái balô bằng vải bạt lên vai trước khi quấn áo choàng quanh người.

Cậu thổi tắt đèn rồi quay lại nhìn hình dáng lờ mờ của bố mình, của cô phù thủy, rồi lại của bố mình trước khi quay đi để trèo xuống núi.

Không khí bão bùng chộn rộn lên những tiếng thì thầm. Trong cơn gió điên cuồng, Will có thể nghe thấy cả những âm thanh khác: âm vọng đầy hoang mang của những tiếng hét và cầu kinh, tiếng loảng xoảng của kim loại va vào nhau, tiếng đập cánh phần phật có lúc nghe gần đến mức cảm giác như nó đang ở ngay trong đầu cậu, nhưng lúc sau lại xa xôi như thể vọng tới từ hành tinh khác, sỏi đá dưới chân cậu bấp bênh và trơn trượt, chặng đường leo xuống lại còn khó khăn hơn so với trèo lên, nhưng cậu không hề nản chí.

Khi vừa rẽ xuống lạch nước nhỏ cuối cùng trước khi tới được nơi Lyra đang nằm ngủ, cậu đột ngột dừng khựng lại. Cậu có thể thấy hai người đàn ông đang đứng đó trong bóng tối, như thể đang chờ đợi gì đó. Will đặt tay lên con dao.

Rồi một trong những người đàn ông cất tiếng.

“Cậu là cậu bé sở hữu con dao à?” Ông ta cất tiếng, giọng nói mang một tính chất kì lạ của những tiếng đập cánh. Dù có là gì thì ông ta cũng không phải là con người.

“Các ông là ai?” Will hỏi. “Các ông là người, hay là…”

“Không, không phải người. Chúng ta là những Người giám sát. Bene elim. Trong ngôn ngữ của các cậu thì là thiên thần.”

Will không nói gì. Người đang nói liền tiếp tục:

“Các thiên thần khác mang những trách nhiệm và quyền năng khác. Nhiệm vụ của chúng ta rất đơn giản: chúng ta cần cậu. Chúng ta đã theo bước vị pháp sư không rời, hi vọng rằng ông ta sẽ dẫn mình tới chỗ cậu, và ông ta đã làm vậy. Giờ thì tới lượt chúng ta đến dẫn cậu tới chỗ Ngài Asriel.”

“Các ông đã đi cùng bố tôi suốt sao?”

“Không rời một bước.”

“Ông ấy có biết không?”

“Ông ấy không biết gì cả.”

“Vậy tại sao các ông không ngăn cô phù thủy đó lại? Sao lại để cho cô ta giết ông ấy?”

“Nếu là trước đó thì chúng ta đã làm rồi. Nhưng khi đã đưa chúng ta đến với cậu, nhiệm vụ của ông ấy đã kết thúc.”

Will không nói gì. Đầu cậu ong ong lên; chuyện này cũng khó hiểu không kém gì tất cả những chuyện khác.

“Được rồi,” cuối cùng cậu nói, “tôi sẽ đi cùng các ông. Nhưng trước tiên tôi phải đánh thức Lyra đã.”

Họ đứng tránh sang bên để cậu đi qua. Khi bước lại gần họ, cậu cảm nhận một sự râm ran trong không khí, nhưng đã lờ nó đi và tập trung vào việc trèo xuống con dốc về phía chỗ trú ẩn nhỏ bé nơi Lyra đang ngủ.

Nhưng một thứ đã khiến cậu dừng lại.

Trong ánh sáng lờ mờ, cậu có thể thấy các phù thủy canh gác cho Lyra, tất cả đều đang ngồi hoặc đứng bất động. Trông họ chẳng khác gì những bức tượng, chỉ khác là họ vẫn đang thở, nhưng họ gần như không còn sự sống. Ngoài ra còn có vài cơ thể mặc đồ lụa đen trên mặt đất. Trong lúc kinh hoàng nhìn từ người này sang người khác, Will hiểu ra chuyện gì đã xảy đến: họ đã bị tấn công trên không trung bởi đám Quỷ hút hồn, và rơi vào cái chết một cách lãnh đạm.

Nhưng…

“Lyra đâu rồi?” Cậu hét ầm lên.

Cái hốc dưới tảng đá trống không. Lyra biến mất rồi.

Có thứ gì đó dưới gờ đá chòi ra, nơi cô đã nằm. Đó là cái balô nhỏ bằng vải bạt của Lyra, và dựa vào trọng lượng của nó, cậu không cần kiểm tra cũng biết được rằng chiếc Chân Kế vẫn đang ở bên trong.

Will lắc đầu. Chuyện này không thể là sự thật, nhưng nó lại đang xảy ra: Lyra không còn ở đây, Lyra đã bị bắt cóc, Lyra đã biến mất.

Hai dáng người tối thẫm của bene elim không cử động. Nhưng họ cất tiếng:

“Cậu phải đi với chúng ta ngay. Ngài Asriel cần cậu ngay lập tức. Uy lực của kẻ thù đang lớn mạnh từng phút một. Vị pháp sư đã cho cậu biết nhiệm vụ của cậu là gì. Đi theo chúng ta và giúp chúng ta chiến thắng. Đi theo chúng ta. Đi lối này. Đi nào.”

Will nhìn từ họ sang cái balô của Lyra rồi lại nhìn trở lại, nhưng cậu chẳng nghe nổi một lời nào họ nói.