- 14 - Hẻm Alamo
Lee Scoresby nhìn xuống đại dương tĩnh lặng nằm phía bên trái và bờ biển xanh rì ở bên phải, rồi che mắt để tìm sự sống con người. Họ rời khỏi Yenisei đã được một ngày một đêm.
“Thế giới mới đây sao?” Ông hỏi.
“Mới với những ai không sinh ra tại đó,” Stanislaus Grumman đáp. “Còn không thì cũng đã lâu đời như thế giới của ông hay của tôi. Việc làm của Ngài Asriel đã làm vạn vật đảo lộn, ông Scoresby ạ, đảo lộn sâu sắc chưa từng thấy. Các cánh cửa và ô cửa sổ mà tôi nhắc đến - giờ đây chúng mở ra tại những nơi không ngờ tới. Rất khó để có thể định hướng, nhưng ngọn gió này thuận đấy.”
“Dù là mới hay cũ thì cái thế giới dưới kia cũng thật kì lạ,”
Lee nói.
“Phải,” Stanislaus Grumman đồng tình. “Đây là một thế giới kì lạ, dù cho chắc chắn sẽ có những người cảm thấy thoải mái khi ở đây.”
“Trông nó trống trải quá,” Lee nói.
“Không hẳn. Phía sau mũi đất kia ông sẽ tìm thấy một thành phố đã từng rất hùng mạnh và giàu có. Và nó vẫn đang được cư ngụ bởi hậu duệ của các thương nhân và quý tộc đã xây dựng lên nó, dù cho trong vòng ba trăm năm trở lại đây nó đã rơi vào thời kì khó khăn…”
Vài phút sau khi chiếc khí cầu trôi đi tiếp, Lee nhìn thấy ngọn hải đăng đầu tiên, rồi đến đường cong của một con đê chắn sóng bằng đá, tới những tòa tháp, mái vòm, mái nhà đỏ nâu của một thành phố xinh đẹp chạy quanh bến cảng, với một tòa nhà xa hoa trông như nhà hát nhạc kịch trong các khu vườn xum xuê cây cối, và những đại lộ rộng thênh thang với các khách sạn thanh lịch và những con phố nhỏ nơi cây cối trổ hoa rủ xuống các ban công rợp bóng mát.
Grumman nói đúng: có người sống ở đây. Nhưng khi trôi đến gần hơn, Lee ngạc nhiên khi thấy rằng tất cả đều là trẻ con. Trong tầm mắt không có một người lớn nào. Lũ trẻ đang chơi trên bãi biển, chạy ra chạy vào các quán cà phê, ăn uống, hay tập hợp các túi đựng đầy đồ từ những ngôi nhà hay cửa hiệu. Đằng kia là một đám con trai đang gây lộn, một con bé tóc đỏ đang cổ vũ cho chúng, và một thằng bé loắt choắt đang ném đá để đập vỡ tất cả các cửa sổ của một tòa nhà gần đó. Nơi này như thể là một sân chơi không có giáo viên mang kích cỡ của một thành phố vậy; đây là thế giới của trẻ con.
Nhưng không phải chỉ có mỗi chúng ở đó. Lee đã phải dụi mắt khi mới thấy chúng, nhưng không có gì phải nghi ngờ cả: những cột sương - hay một thứ gì đó còn loãng hơn cả sương - một dạng không khí cô đặc… Dù cho chúng có là cái gì đi nữa thì thành phố này cũng đầy chật những thứ đó; chúng trôi dọc theo các đại lộ, chúng vào nhà, túm tụm trong các quảng trường và sân nhà. Lũ trẻ đi lại giữa chúng mà không hề nhìn thấy.
Nhưng bọn trẻ thì có bị nhìn thấy. Họ vào càng sâu phía trên thành phố thì Lee càng có thể quan sát được hành vi của những dạng sống này. Rõ ràng là chúng có hứng thú với một vài đứa trẻ, và bám theo những đứa nhất định: đám trẻ lớn hơn, những đứa (như Lee có thể thấy được qua kính viễn vọng) đang sắp bước vào tuổi dậy thì. Có một thằng bé, một thiếu niên cao gầy với mái tóc đen bờm xờm, đang bị những sinh vật trong suốt vây dày đặc xung quanh đến mức hình dáng của cậu dường như đang sáng lờ mờ trong không khí. Trông chúng chẳng khác gì ruồi bu miếng thịt. Thằng bé thì chẳng biết gì về điều này, dù cho cứ thỉnh thoảng nó lại phải dụi mắt hoặc lắc đầu như để nhìn rõ hơn.
“Cái lũ kia là cái quỷ gì vậy?” Lee kêu lên.
“Mọi người gọi chúng là Quỷ hút hồn.”
“Chính xác thì chúng làm gì?”
“Ông có nghe nói tới ma cà rồng chưa?”
“À, trong các câu chuyện.”
“Quỷ hút hồn ăn giống như ma cà rồng uống máu vậy, nhưng thức ăn của Quỷ hút hồn lại là sự chú ý. Một sự hứng thú có ý thức và được thông báo trong thế giới này. Sự non nớt của trẻ con không hấp dẫn đối với chúng.”
“Vậy thì chúng trái ngược với lũ ác quỷ ở Bolvangar rồi.”
“Ngược lại thì đúng hơn. Ủy ban Hiến tế và Quỷ hút hồn của Sự thờ ơ đều bị mê mẩn bởi sự thật này về loài người: rằng sự ngây thơ khác biệt với từng trải. Ủy ban Hiến tế sợ hãi và căm ghét Bụi, còn lũ Quỷ hút hồn lại tận hưởng nó, nhưng Bụi chính là thứ mà cả hai đều bị ám ảnh.”
“Chúng co cụm lại quanh đứa bé dưới kia…”
“Nó đang trưởng thành. Chúng sẽ tấn công nó sớm thôi, và rồi cuộc đời nó sẽ biến thành một sự đau khổ đầy thờ ơ và trống rỗng. Thế là hết.”
“Lạy Thánh Pete! Chúng ta không cứu nổi nó sao?”
“Không đâu. Lũ Quỷ hút hồn sẽ tóm lấy chúng ta ngay lập tức. Chúng không thể với tới chúng ta ở trên này; tất cả những gì ta có thể làm là đứng nhìn và bay tiếp.”
“Nhưng còn người lớn đâu rồi? Đừng nói với tôi là cả thế giới này chỉ toàn trẻ con không thôi nhé.”
“Đám trẻ đó là những đứa mồ côi cha mẹ vì Quỷ hút hồn. Có rất nhiều nhóm như vậy trong thế giới này. Chúng đi lang thang, sống trên những gì có thể tìm thấy được khi người lớn bỏ chạy. Có đủ thứ để tìm, như ông có thể thấy. Chúng không bị đói đâu. Trông có vẻ như vô số Quỷ hút hồn đã xâm chiếm thành phố, khiến người lớn phải tháo chạy đến nơi an toàn. Ông có nhận ra ở bến cảng có ít tàu bè đến thế nào không? Bọn trẻ sẽ không gặp nguy hiểm gì đâu.”
“Trừ những đứa lớn hơn. Như thằng bé tội nghiệp dưới kia…”
“Ông Scoresby, đó là cách mà thế giới này vận hành. Còn nếu muốn chấm dứt sự tàn bạo và bất công, ông sẽ phải đưa tôi đi tiếp. Tôi có một việc cần phải làm.”
“Tôi thì nghĩ…” Lee nói, cố gắng tìm từ ngữ “… tôi nghĩ nơi mà ta đấu tranh chống lại sự tàn ác là nơi ta tìm thấy nó, còn nơi ta chìa tay giúp đỡ lại là nơi ta thấy rằng nó cần thiết. Hay điều đó có gì không đúng, hả Tiến sĩ Grumman? Tôi chỉ là một gã phi công khí cầu ngu muội. Tôi ngu muội khủng khiếp đến mức đã tin sái cổ khi được bảo rằng các pháp sư được phú cho tài bay lượn, ví dụ như vậy. Thế mà ở đây lại có một pháp sư không biết bay.”
“Ồ, nhưng tôi có biết đó.”
“Ông bịa ra chuyện đó như thế nào vậy?”
Chiếc khí cầu hạ thấp xuống còn mặt đất thì nâng dần lên. Một ngọn tháp to bè bằng đá dựng lên ngay trên lộ trình bay của họ, vậy mà Lee dường như không hề nhận ra.
“Tôi cần phải bay,” Grumman nói, “nên tôi đã triệu tập ông, và giờ thì tôi đang bay đây.”
Ông nhận thức rất rõ mối hiểm họa mà họ đang gặp phải, nhưng kiềm chế không ngụ ý nói rằng ông phi công không nhận ra. Rồi vào một thời điểm hoàn hảo, Lee Scoresby nhoài người ra khỏi mép giỏ và kéo sợi dây buộc một trong những túi bì. Cát tuôn ra, khiến chiếc khí cầu khẽ dâng lên và sượt qua ngọn tháp chỉ cách khoảng hai mét. Khoảng chục con quạ bị quấy nhiễu, vừa bay lên quanh họ, vừa kêu quạ quạ.
“Có lẽ vậy,” Lee nói. “Ông có một phong cách rất kì lạ, Tiến sĩ Grumman ạ. Ông đã từng bao giờ qua lại với các phù thủy chưa?”
“Rồi,” Grumman đáp. “Cả với các viện sĩ và linh hồn nữa. Tôi đã thấy sự điên rồ hiển hiện khắp mọi nơi, nhưng trong mỗi dòng chảy đó lại có những hạt thông thái. Chắc chắn là còn rất nhiều sự thông thái mà tôi đã không thể nhận ra. Đời thật khó khăn, ông Scoresby ạ, nhưng dẫu vậy chúng ta vẫn phải bấu víu lấy nó.”
“Còn cuộc hành trình mà chúng ta đang tham gia này thì sao? Nó điên rồ hay thông thái?”
“Sự thông thái vĩ đại nhất mà tôi được biết.”
“Hãy nói lại cho tôi biết mục đích của ông: ông sẽ đi kiếm người nắm giữ cái con dao kì ảo này, rồi sau đó thế nào?”
“Nói cho anh ta biết nhiệm vụ của mình.”
“Và nhiệm vụ đó bao gồm cả việc bảo vệ Lyra,” ông phi công nhắc nhở.
“Nó sẽ bảo vệ tất cả chúng ta.”
Họ bay tiếp. Chẳng bao lâu thành phố phía sau đã khuất khỏi tầm mắt.
Lee kiểm tra các thiết bị của mình. Theo nhận định của ông, cái la bàn vẫn đang quay tròn một cách mơ hồ, nhưng đồng hồ đo độ cao thì lại hoạt động rất chính xác, thể hiện rằng họ đang trôi nổi phía trên khoảng ba trăm mét so với bờ biển và song song với nó. Phía trước không xa là dãy đồi cao xanh rì phủ mờ sương. Lee mừng là mình đã chuẩn bị rất nhiều bì.
Nhưng khi rà soát đường chân trời như thường lệ, ông cảm thấy tim mình hơi chững lại. Hester cũng cảm thấy điều đó, bèn vểnh tai lên rồi quay đầu nhìn ông bằng một bên mắt màu nâu đỏ ánh vàng. Ông bồng nó lên rồi đặt vào ngực áo khoác rồi lại mở ống nhòm ra.
Không, ông không hề nhầm. Ở xa phía nam (nếu đó là hướng nam, hướng mà họ đã tới) một chiếc khí cầu khác đang bồng bềnh trên màn sương. Ảo ảnh từ sức nóng và khoảng cách xa khiến cho việc nhìn thấy các chi tiết trở nên vô vọng, nhưng chiếc khí cầu kia là loại lớn hơn, và bay cao hơn.
Grumman cũng đã nhìn thấy.
“Địch à, ông Scoresby?” Ông nói, tay che mắt để nhìn xuyên lớp ánh sáng long lanh như ngọc trai.
“Không thể sai được. Tôi không chắc là nên thả bì xuống để bay lên cao bắt gió mạnh hay ở lại dưới thấp này để đỡ bị lộ. May mà cái thứ đó không phải là khí cầu zeppelin; chúng có thể đuổi kịp chúng ta trong vài giờ đồng hồ. Không, khỉ thật, Tiến sĩ Grumman ạ, tôi sẽ bay lên cao, vì tôi hẳn đã thấy chiếc khí cầu này nếu đang ở trong cái kia rồi; và tôi dám cá là mắt chúng tinh tường lắm.”
Ông đặt Hester xuống trở lại rồi nhoài người vứt ba túi bì ra ngoài. Khí cầu lập tức dâng lên. Lee không rời mắt khỏi ống nhòm.
Một phút sau ông biết chắc chắn rằng họ đã bị nhìn thấy, vì màn sương đang lay động, hòa lẫn vào vệt khói bốc lên theo một góc độ từ chiếc khí cầu kia; và khi lên cao được một đoạn, nó phát nổ thành một đốm sáng chói lòa. Nó lóe lên đỏ rực trong một lúc rồi co cụm lại thành một mảng khói xám, nhưng đó là một tín hiệu rõ ràng như chuông báo động trong đêm vậy.
“Ông có thể gọi một ngọn gió mạnh hơn được không, Tiến sĩ Grumman?” Lee lên tiếng. “Tôi muốn tới dãy đồi kia khi hoàng hôn xuống.”
Vì lúc này họ đang rời khỏi đường bờ biển, và lộ trình đang dẫn họ qua một khu vịnh rộng lớn có bề ngang khoảng ba mươi hay bốn mươi dặm. Một rặng đồi nhô lên ở phía xa, và lúc này khi đã lên đủ cao, Lee thấy rằng có lẽ cần phải gọi chúng là núi mới chính xác.
Lee quay sang Grumman, nhưng thấy ông đang chìm sâu trong trạng thái nhập định. Đôi mắt ông pháp sư nhắm nghiền lại, những hạt mồ hôi lấm tấm rỉ ra trên trán khi ông khẽ đu đưa người. Từ họng ông phát ra tiếng rì rầm đều đều rất trầm, trong khi con linh thú của ông tóm chặt lấy mép giỏ, cũng xuất thần không kém.
Không rõ là nhờ bay lên cao hay là kết quả làm phép của ông pháp sư, nhưng quả thật một luồng gió đã làm lay động không khí trên gương mặt Lee. Ông nhìn lên kiểm tra túi khí gas và thấy nó đu đưa vài độ, nghiêng về phía những ngọn đồi.
Nhưng ngọn gió đẩy họ đi nhanh hơn cũng tác động lên chiếc khí cầu còn lại. Nó không tiến lại gần hơn, nhưng họ cũng không bỏ xa nó thêm chút nào. Khi Lee bật ống nhòm lên, ông nhìn thấy những hình thù tối màu hơn, nhỏ hơn phía sau nó trong không gian mờ ảo của khoảng cách xa. Chúng được tập hợp lại một cách có chủ đích, mỗi phút lại trở nên rõ rệt và rắn chắc hơn.
“Khí cầu zeppelin,” ông thốt lên. “Chà, thế là không trốn được ở đây nữa rồi.”
Ông cố gắng ước lượng khoảng cách giữa họ, sau đó là một phép tính tương tự về những ngọn đồi mà họ đang bay tới. Rõ ràng là tốc độ của họ đã tăng lên, và cơn gió đang làm dậy lên những đỉnh sóng trắng xóa phía xa bên dưới.
Grumman ngồi nghỉ trong một góc giỏ trong khi linh thú của ông rỉa lông rỉa cánh. Dù mắt ông đang nhắm, Lee biết rằng ông vẫn đang thức.
“Tình hình thế này, Tiến sĩ Grumman ạ,” ông nói. “Tôi không muốn bị những cái zeppelin đó bắt kịp trên không trung. Ở đây không có thiết bị phòng vệ nào; chúng sẽ hạ chúng ta trong chớp mắt. Nhưng tôi cũng không muốn đáp xuống nước, dù có được tự do lựa chọn hay không; chúng ta có thể nổi trong một lúc, nhưng chúng có thể xử đẹp chúng ta bằng lựu đạn dễ như đánh cá vậy.
“Vậy nên tôi muốn đến được những ngọn đồi kia và đáp xuống. Giờ tôi có thể thấy chút rừng cây rồi; chúng ta có thể trốn giữa đám cây một lúc, hoặc có thể lâu hơn.
“Và trong lúc đó mặt trời sẽ hạ xuống. Theo như tôi tính toán thì chúng ta có khoảng ba tiếng cho tới khi mặt trời lặn. Cũng khó đoán, nhưng tôi nghĩ vào lúc đó đám zeppelin kia đã rút ngắn được nửa khoảng cách với chúng ta, còn chúng ta chắc hẳn đã đến được bờ bên kia của khu vịnh này.
“Giờ thì ông hiểu tôi đang nói gì rồi đấy. Tôi sẽ đưa chúng ta lên những ngọn đồi đó, rồi đáp xuống, vì mọi lựa chọn khác sẽ chỉ dẫn đến cái chết cầm chắc. Giờ này chúng hẳn đã nhận ra mối liên hệ giữa chiếc nhẫn tôi cho chúng xem với tên Skraeling tôi đã giết ở Nova Zembla, và chúng không cật lực đuổi theo chúng ta như thế này để thông báo rằng ta để quên ví trên quầy.
“Vậy nên vào một lúc nào đó tối nay, Tiến sĩ Grumman ạ, chuyến bay này sẽ kết thúc. Ông đã bao giờ hạ cánh trên một chiếc khí cầu chưa?”
“Chưa,” ông pháp sư đáp. “Nhưng tôi tin tưởng vào kĩ năng của ông.”
“Tôi sẽ cố gắng lên cao nhất có thể trên rặng đồi kia. Đó là vấn đề về sự cân bằng, vì chúng ta đi càng xa thì chúng càng đuổi gần hơn. Nếu tôi đáp xuống khi chúng đang ở sát phía sau, chúng sẽ có thể thấy nơi ta đi, nhưng nếu hạ cánh quá sớm, chúng ta sẽ không tìm được nơi trú ẩn trong rừng cây. Dù là cách nào thì cũng sẽ sớm có vài vụ bắn phá thôi.”
Grumman ngồi điềm tĩnh, chuyển một vật biểu tượng ma thuật làm bằng lông vũ và hột xoàn từ tay này sang tay khác theo một kiểu hình mà Lee có thể thấy là mang chủ ý quan trọng nào đó. Con linh thú của ông không hề rời mắt khỏi những chiếc zeppelin đang bám đuổi.
Một tiếng đồng hồ trôi qua, rồi thêm một tiếng nữa. Lee nhay nhay một điếu xì gà chưa châm và nhấp cà phê nguội ngắt từ bình thiếc. Mặt trời đã hạ thấp trên bầu trời phía sau họ, và Lee có thể thấy những cái bóng dài thượt của buổi chiều tà bò lan theo bờ vịnh rồi leo lên những dẻo sườn thấp của dãy đồi trước mặt trong lúc chiếc khí cầu và các đỉnh núi tắm đẫm trong ánh vàng óng ả.
Sau lưng họ, gần như mất dạng trong ánh sáng chói lòa của hoàng hôn, những cái chấm bé xíu của đám zeppelin đang lớn dần và định hình hơn. Chúng đã vượt qua chiếc khí cầu còn lại, và giờ thì có thể dễ dàng thấy được bằng mắt thường: bốn cái sóng hàng thẳng tắp. Cắt ngang qua sự tĩnh mịch mênh mông của khu vịnh là tiếng động cơ của chúng, nhỏ nhưng rõ rệt, một tiếng muỗi vo ve dai dẳng.
Khi họ vẫn còn cần vài phút nữa mới đến được bờ vịnh dưới chân đồi, Lee nhận thấy một điều mới lạ trên bầu trời phía sau những chiếc zeppelin. Một đám mây dày đang được hình thành, và một đầu mây tích điện khổng lồ sừng sững cao cả nghìn mét đang chọc thẳng vào vùng trời vẫn còn sáng ở phía trên. Sao ông lại không nhận thấy điều đó nhỉ? Nếu bão đang ập tới thì họ phải hạ cánh càng sớm càng tốt.
Rồi một màn mưa xanh thẫm rủ xuống và treo lơ lửng từ những đám mây, cơn bão dường như đang đuổi theo những chiếc zeppelin y như chúng đuổi theo khí cầu của Lee, vì màn mưa từ biển quét về phía chúng, và khi mặt trời cuối cùng cũng biến mất, một tia sáng dữ dội lóe lên từ những đám mây, rồi vài giây sau tiếng sấm đinh tai nổ ra khiến cả giàn khung khí cầu của Lee rung lên bần bật, không ngừng vọng lại từ rặng núi phía xa trong suốt thời gian dài.
Lại thêm một tia chớp nữa lóe lên, và lần này cái chạc nhọn hoắt của nó đánh thẳng từ đầu mây tích vào một trong những chiếc Zeppelin. Chỉ trong tích tắc khí gas đã bùng cháy: một bông hoa lửa sáng rực xòe cánh trên nền mây màu tím thẫm, rồi chiếc phi cơ chậm chạp rơi xuống, hừng hực cháy như một ngọn đèn hiệu, và nổi trên mặt nước trong lúc vẫn đang phừng phừng lửa.
Lee thở hắt ra luồng hơi đã kìm nén từ lâu. Grumman đang đứng bên cạnh ông, một bàn tay đặt lên vòng treo dây, gương mặt hằn sâu những đường nét mệt mỏi.
“Ông gọi cơn bão đó đến đấy à?” Lee hỏi.
Grumman gật đầu.
Bầu trời lúc này được nhuộm màu như một con hổ: các dải vàng óng đan xen với những mảng và sọc màu đen nâu sâu thẳm nhất. Nhưng chỉ một phút sau họa tiết đó đã thay đổi, vì ánh vàng đang nhạt đi nhanh chóng khi bị màu đen nâu nhấn chìm. Vùng biển phía sau là một mảng chắp vá của nước đen ngòm và bọt phát lân quang, những tàn lửa cuối cùng của chiếc zeppelin bốc cháy đang teo lại rồi tan biến vào hư không khi nó chìm xuống.
Tuy nhiên, ba chiếc còn lại vẫn đang bay tiếp, gắng sức vật lộn và bám sát lộ trình. Chớp lại lóe lên xung quanh chúng, và khi cơn bão đến gần hơn, Lee bắt đầu lo lắng cho khí gas trong khí cầu của chính mình. Chỉ một phát đánh trúng là có thể khiến nó lộn nhào xuống đất trong lửa cháy, mà ông thì không cho rằng ông pháp sư có thể điều khiển cơn bão điệu nghệ đến mức tránh được chuyện đó.
“Phải rồi, Tiến sĩ Grumman,” ông lên tiếng, “tạm thời tôi sẽ lờ đám zeppelin đó đi và tập trung vào việc đưa chúng ta vào núi rồi đáp xuống đất an toàn. Việc tôi muốn ông làm là ngồi thật chắc và bám thật chặt, chuẩn bị tinh thần nhảy khi nào tôi nói. Tôi phải cảnh báo ông, và tôi sẽ cố gắng nói nhẹ nhàng nhất có thể, nhưng hạ cánh trong tình trạng này thì may mắn cũng quan trọng không kém gì kĩ năng đâu.”
“Tôi tin tưởng ông, ông Scoresby ạ,” ông pháp sư nói.
Ông ngồi vào một góc giỏ trong lúc con linh thú đậu trên vòng treo dây, bộ móng cắm sâu vào lớp bọc bằng da.
Gió lúc này đang quật họ tới tấp, túi khí gas khổng lồ căng phồng lên và cuồn cuộn bay trong gió lốc. Đám dây thừng kẽo kẹt kêu lên vì bị kéo căng, nhưng Lee không lo chúng sẽ đứt. Ông vứt thêm vài túi bì đi và cẩn thận quan sát đồng hồ đo độ cao. Trong một cơn bão, khi khí áp giảm, ta phải bù sự hao hụt đó khi đọc đồng hồ đo độ cao, và việc đó rất thường xuyên là một phép tính sơ bộ dựa trên quy tắc ngón tay cái. Lee rà soát các con số, kiểm tra hai lượt, rồi thả nốt túi bì cuối cùng. Lúc này thứ duy nhất ông kiểm soát được là van khí gas. Ông không thể lên cao hơn mà chỉ có thể hạ xuống.
Ông chăm chú nhìn qua bầu không khí giông tố và thấy dãy đồi sừng sững, đen ngòm trên nền trời tối thẫm. Từ phía dưới vọng lên tiếng gầm rú, ầm ào như tiếng sóng xô lên một bãi biển lởm chởm đá, nhưng ông biết đó là tiếng gió gào xé qua lá cây. Đã xa đến vậy rồi! Họ đang di chuyển nhanh hơn ông nghĩ.
Ông cũng không nên đợi quá lâu để hạ cánh. Bản tính của Lee quá bình tĩnh để có thể nổi nóng trước số phận; kiểu của ông là nhướn một bên mày và chào nó một cách ngắn gọn; nhưng lúc này ông không khỏi cảm thấy một nỗi thất vọng âm ỉ, khi mà việc ông có thể làm - đó là bay phía trước cơn bão và để cho nó tự tan đi - lại là việc đảm bảo sẽ khiến họ bị bắn rơi.
Ông bồng Hester lên rồi cho nó nằm chắc chắn trong ngực, cài cúc cái áo khoác bằng vải bạt lên thật sát để giữ con linh thú ở bên trong. Grumman ngồi vững chãi và yên lặng; linh thú của ông, tả tơi trong gió, bám thật chắc với bộ vuốt cắm sâu vào thành giỏ, lông nó bị thổi dựng đứng lên.
“Tôi chuẩn bị hạ cánh đây, Tiến sĩ Grumman,” Lee hét lên át tiếng gió. “Ông nên đứng lên và sẵn sàng nhảy ra đi. Giữ lấy cái vòng, khi nào tôi gọi thì đu người lên.”
Grumman nghe theo. Lee nhìn xuống, lên phía trước, xuống, rồi lại lên phía trước, kiểm tra từng vệt lờ mờ hiện ra nối tiếp nhau, mắt chớp chớp để đẩy nước mưa ra, vì một cơn gió mạnh đột ngột đã đổ ào những hạt nước nặng nề lên họ như những vốc sỏi, tiếng lộp bộp mà chúng tạo ra trên túi khí gas cộng hưởng thêm vào tiếng gió hú và tiếng lá quất bên dưới cho tới khi Lee gần như không thể nghe nổi tiếng sấm nữa.
“Tới thôi,” ông hét lên. “Ông chế ra cơn bão khá lắm, ông Pháp sư ạ.”
Ông kéo sợi dây van khí gas rồi buộc quanh một cái cọc để giữ nó luôn mở. Khi khối khí ùa ra khỏi cái đỉnh không nhìn thấy nổi ở tít trên cao, đường cong bên dưới của túi gas sụp vào nhau, một nếp gấp, rồi lại một nếp gấp nữa, xuất hiện ở nơi mà chỉ trước đó một phút còn là một khối cầu phồng căng.
Giỏ khí cầu tròng trành và rung lắc dữ dội đến mức khó có thể nói được là họ có đang đi xuống hay không, còn gió thì quá đột ngột và bất thường khiến họ có thể dễ dàng bị thổi tung lên trời mà không biết; nhưng sau đó khoảng một phút, Lee cảm thấy một cú giật bất ngờ và biết rằng chiếc neo móc đã mắc vào một cành cây. Đó chỉ là một sự ngăn cản tạm thời, cành cây bị gãy rời ra, nhưng điều đó cho thấy họ đang ở rất gần.
Lee hét lên: “Hai mươi mét bên trên rừng cây…”
Ông pháp sư gật đầu.
Lại thêm một cú giật nữa, dữ dội hơn, và hai người đàn ông bị ném mạnh vào mép giỏ. Lee đã quen với việc này nên lập tức lấy lại được thăng bằng, nhưng áp lực đó khiến Grumman bị bất ngờ. Tuy nhiên, ông vẫn không rời tay khỏi cái vòng treo, Lee có thể thấy ông đã an toàn đứng vững, sẵn sàng nhảy thoát khỏi giỏ.
Sau đó một lúc là cú chấn động khủng khiếp nhất khi móc neo tìm được một cành cây giữ chắc lấy nó. Cái giỏ lập tức đổ nhào và ngay giây sau đã đâm sầm vào những ngọn cây. Giữa tiếng lá ướt xào xạc, tiếng cành con răng rắc, tiếng những cành cây bị giày vò kêu lên cọt kẹt, nó giật nảy lên rồi chơi vơi dừng khựng lại.
“Vẫn ở đó chứ, Tiến sĩ Grumman?” Lee gọi lớn, vì ông không thể nhìn thấy bất cứ thứ gì.
“Vẫn ở đây, ông Scoresby ạ.”
“Ta nên đứng yên một lúc cho tới khi thấy rõ được tình hình,” Lee nói, vì họ đang chao đảo dữ dội trong gió, ông cũng có thể cảm thấy cái giỏ đang không ngừng giật lên khỏi thứ gì đó đang giữ họ trên cao.
Họ vẫn đang bị kéo mạnh sang bên bởi túi khí gas, lúc này đã gần như trống không, nhưng như thế lại khiến nó đón gió như một cánh buồm. Lee thoáng nghĩ tới việc cắt rời cái túi khí ra, nhưng nếu không bay đi hoàn toàn, nó sẽ mắc trên ngọn cây như một lá cờ và làm lộ vị trí của họ; tốt hơn hết là cho nó vào giỏ nếu có thể.
Lại một tia chớp nữa lóe lên, rồi tiếng sấm nổ ra ngay sau đó. Cơn bão đã gần như ở ngay trên đỉnh đầu. Ánh sáng từ nó cho Lee thấy một thân cây sồi, với vết rạch lớn trắng hếu nơi một cành cây bị xé toạc ra, nhưng nó chỉ bị xé một phần, vì chiếc giỏ đang nằm trên đó gần với điểm nó vẫn nối với thân cây.
“Tôi sẽ ném dây thừng ra rồi trèo xuống,” ông hét lên. “Chúng ta có thể tính kế hoạch tiếp theo khi nào chân chạm được xuống đất.”
“Tôi sẽ theo sau ông, ông Scoresby ạ,” Grumman nói. “Linh thú của tôi nói rằng mặt đất ở cách phía dưới mười ba mét.”
Đến đó Lee nhận thấy mãnh lực từ đôi cánh đập khi con linh thú ưng biển đậu trở lại trên thành giỏ.
“Nó đi được xa thế cơ à?” Ông ngạc nhiên thốt lên, nhưng liền gạt ý nghĩ đó ra khỏi đầu để buộc chặt sợi dây thừng, đầu tiên là vào vòng treo dây rồi tiếp theo là lên cành cây, như vậy nếu cái giỏ có bị rơi đi nữa thì cũng sẽ không bị rơi quá xa.
Rồi, với Hester nằm chắc trong ngực, ông ném phần còn lại của sợi dây qua rồi trèo xuống cho tới khi cảm thấy mặt đất cứng cáp dưới chân. Thân cây mọc dày cành lá: đây là một cây đại thụ, một tên khổng lồ của loài sồi. Lee khẽ nói lời cảm ơn với nó trong lúc giật giật sợi dây để ra hiệu cho Grumman leo xuống.
Có phải có một âm thanh khác trong tiếng hỗn loạn không? Ông căng tai lên lắng nghe. Phải, tiếng động cơ của một chiếc zeppelin, có lẽ là nhiều hơn một, ở đâu đó phía trên - không thể đoán được độ cao của nó, hay nó đang bay theo hướng nào; nhưng âm thanh ở đó khoảng vài phút rồi biến mất.
Ông pháp sư xuống tới mặt đất.
“Ông có nghe thấy tiếng đó không?” Lee hỏi.
“Có. Nó đang lên cao hơn vào phía núi, tôi nghĩ thế. Chúc mừng ông đã cho chúng ta hạ cánh an toàn, ông Scoresby.”
“Chúng ta chưa xong đâu. Tôi muốn cho cái túi khí gas kia xuống dưới tán cây trước khi bình minh lên, nếu không nó sẽ để lộ vị trí của chúng ta từ cách xa hàng dặm. Ông sẵn sàng lao động chân tay chút chứ, Tiến sĩ Grumman?”
“Cứ cho tôi biết phải làm gì đi.”
“Được rồi. Tôi sẽ trèo lại lên dây rồi hạ vài thứ xuống cho ông. Trong số đó có một cái lều. Ông có thể dựng nó lên trong lúc tôi xem xem mình có thể làm gì trên đó để giấu cái khí cầu đi.”
Họ làm việc trong thời gian dài, thậm chí đã có lúc gặp nguy hiểm, khi cành cây đang đỡ cái giỏ cuối cùng cũng gãy rời và ném Lee xuống cùng với nó; nhưng ông không bị rơi quá xa, vì túi gas vẫn đang mắc giữa những ngọn cây khiến cái giỏ treo lơ lửng trên không trung.
Cú rơi thật ra lại giúp việc giấu nó đi dễ dàng hơn, vì nó kéo phần dưới của túi khí xuống qua vòm cây; trong ánh sáng chói lòa của chớp, ông giật, vặn, kéo, và cuối cùng cũng lôi được toàn bộ khí cầu xuống dưới các cành thấp hơn, khuất khỏi tầm nhìn.
Gió vẫn đang quật tới tấp trên ngọn cây cao, nhưng phần tồi tệ nhất của cơn mưa đã đi qua vào lúc ông quyết định mình không thể cố thêm được nữa. Ông trèo xuống và thấy rằng vị pháp sư không những đã dựng xong lều mà còn gọi được lửa, và đang pha cà phê.
“Ông dùng ma thuật đấy à?” Lee hỏi, cả người ướt rượt và cứng đờ, ông vào thư giãn trong lều và đón lấy cái cốc mà Grumman đưa cho.
“Không, ông có thể cảm ơn Hội Nam Hướng đạo vì điều này,” Grumman nói. “Ở thế giới của ông có Hội Nam Hướng đạo không nhỉ? Phải luôn sẵn sàng. Trong tất cả các cách nhóm lửa, cách tốt nhất là dùng diêm khô. Tôi không bao giờ đi đâu mà thiếu chúng cả. Ở điểm cắm trại có khi còn thiếu thốn hơn thế này, ông Scoresby ạ.”
“Ông có lại nghe thấy tiếng những chiếc zeppelin đó không?”
Grumman giơ tay lên. Lee lắng nghe, và quả thật, chính là tiếng động cơ đó, lúc này đã dễ dàng nhận ra hơn nhờ mưa đã ngớt đi chút ít.
“Chúng đã lượn lờ trên đó hai lần rồi,” Grumman nói. “Chúng không biết chúng ta ở đâu, nhưng chúng biết ta đang ở đâu đó quanh đây.”
Không lâu sau, một thứ ánh sáng lập lòe phả tới từ đâu đó trên hướng mà chiếc zeppelin đã bay qua. Nó không chói bằng ánh chớp, nhưng lại dai dẳng, Lee liền biết đó là đèn báo hiệu.
“Tốt nhất là phải dập lửa đi, Tiến sĩ Grumman ạ,” ông nói, “mặc dù tôi rất tiếc phải làm thế. Tôi nghĩ vòm cây khá dày, nhưng ai mà biết được. Tôi đi ngủ đây, dù cả người có ướt hay không đi nữa.”
“Đến sáng là ông sẽ khô thôi,” pháp sư nói.
Ông vốc lấy một nắm đất ướt rồi ấn nó xuống ngọn lửa, còn Lee thì vất vả nằm xuống trong căn lều bé tẹo và nhắm mắt lại.
Ông có những giấc mơ thật kì lạ và dữ dội. Vào một thời điểm, ông bị thuyết phục rằng mình đã tỉnh dậy và thấy vị pháp sư đang ngồi khoanh chân, lửa vây cuồn cuộn, và ngọn lửa đó nhanh chóng ngấu nghiến da thịt ông, chỉ để lại bộ xương trắng hếu vẫn đang ngồi trong một đống tro lấp lánh. Lee hoảng sợ tìm Hester và thấy nó đang ngủ, một chuyện chưa từng xảy ra vì khi ông thức, nó cũng sẽ thức. Khi thấy con linh thú kiệm lời của mình trong giấc ngủ với vẻ dịu dàng và mỏng manh, sự lạ lùng của điều này khiến ông cảm động, ông lo lắng nằm xuống cạnh nó, tỉnh trong giấc mơ nhưng thực tế lại đang ngủ, và ông mơ thấy mình nằm thao thức trong một lúc lâu.
Một giấc mơ khác cũng tập trung vào Grumman. Lee dường như thấy ông pháp sư đang rung một cái trống lắc đính lông và ra lệnh cho thứ gì đó tuân lời mình. Cái thứ gì đó, Lee nhìn thấy trong một cơn nôn nao, là một con Quỷ hút hồn giống đám mà họ nhìn thấy từ trên khí cầu. Con Quỷ cao lớn và gần như vô hình, nó khơi dậy trong Lee một cảm giác ghê tởm đến cồn cào ruột gan, khiến ông suýt nữa thì bật dậy vì kinh hãi. Grumman ra lệnh cho nó mà không hề e sợ, ông cũng không gặp nguy hiểm gì vì con Quỷ hút hồn đó chỉ chăm chú lắng nghe ông nói rồi trôi lên trời như bong bóng xà phòng cho tới khi biến mất trong vòm cây.
Rồi buổi đêm mệt mỏi đó lại giày vò ông thêm lần nữa. Lần này ông đang ở trong buồng lái của một chiếc zeppelin, quan sát người phi công. Thật ra ông đang ngồi ở ghế phụ lái, và họ đang đi tuần tra phía trên cánh rừng, nhìn xuống những ngọn cây bị quật tơi tả, một biển cành lá hỗn độn. Rồi con Quỷ hút hồn đó cũng đang ở trong buồng với họ.
Trong giấc mơ Lee bị trói chặt, ông không thể cựa quậy hay hét lên, và ông phải chịu đựng nỗi kinh hoàng của viên phi công khi người đó nhận ra chuyện gì đang xảy đến với mình.
Con Quỷ vươn về phía viên phi công và ấn cái thứ hẳn là mặt của nó vào anh ta. Con linh thú chim sẻ của anh ta vùng vẫy và kêu thét, cố gắng thoát ra, rồi chỉ để ngã vật ra trên bảng điều khiển, gần như bất tỉnh. Viên phi công quay mặt sang Lee rồi chìa một tay ra, nhưng Lee không có chút sức lực nào để cử động. Nỗi đau đớn trong đôi mắt của người đàn ông khiến ruột gan ông quặn lại. Một thứ gì đó chân thực và sống động đang bị bòn rút khỏi người đàn ông, linh thú của anh ta yếu ớt vùng vẫy và kêu lên một tiếng chói tai đầy hoang dại, nhưng nó đang chết dần.
Rồi con chim tan biến. Nhưng người phi công vẫn còn sống. Đôi mắt anh ta trở nên mờ đục và đờ đẫn, bàn tay đang vươn ra của anh ta rơi đánh bộp vào van tiết lưu. Anh ta vẫn còn sống, nhưng lại không phải là sống: một sinh vật thờ ơ với tất thảy mọi thứ.
Lee bất lực ngồi nhìn trong lúc chiếc zeppelin bay thẳng tới sườn núi dựng trước mặt họ. Viên phi công nhìn nó nhô lên từ cửa sổ, nhưng chẳng có gì có thể khiến anh ta quan tâm. Lee ép người vào ghế trong kinh hãi, nhưng chẳng có gì xảy ra để ngăn nó lại, và đúng lúc sắp đâm ông liền hét lên:
“Hester!”
Và bừng tỉnh.
Ông đang an toàn nằm trong lều, còn Hester thì đang nhay cằm ông. Người ông đầm đìa mồ hôi. Vị pháp sư đang ngồi bắt chéo chân, nhưng một cơn ớn lạnh chạy qua người Lee khi ông thấy rằng con linh thú ưng biển không ở cạnh ông ta. Rõ ràng khu rừng này là một nơi tồi tệ, đầy ngập những ám ảnh quấy nhiễu.
Rồi ông để ý đến ánh sáng đang chiếu rọi vị pháp sư, bởi vì lửa đã tàn từ lâu, còn bóng tối trong khu rừng lại sâu thăm thẳm. Một thứ ánh sáng lập lòe xa xăm hắt lên những thân cây và phần dưới của lớp lá nhỏ nước, Lee lập tức hiểu ra đó là gì: giấc mơ của ông là sự thật, một phi công đã lái zeppelin của mình đâm vào sườn đồi.
“Trời ạ, Lee, ông run như cầy sấy vậy. Có chuyện gì với ông thế?” Hester càu nhàu trong lúc giật giật đôi tai dài.
“Ngươi không phải cũng mơ sao, Hester?” Ông lầm bầm.
“Ông đâu có mơ hả Lee, ông đang nhìn mà. Nếu biết ông là người nhìn thấu thì tôi đã chữa trị cho ông từ lâu rồi. Giờ thì thôi đi, ông nghe chứ?”
Ông dùng ngón tay cái xoa đầu con thỏ, còn nó thì lắc đôi tai của mình.
Rồi chẳng cần đến một sự chuyển tiếp nhỏ nhất, ông đã đang lơ lửng trên không khí, sóng vai với linh thú của vị pháp sư, con chim ưng biển Sayan Kötör. Việc ở cạnh linh thú của một người khác và rời xa khỏi linh thú của chính mình khiến trong Lee dấy lên cảm giác tội lỗi mãnh liệt cùng một khoái cảm lạ lùng. Họ đang lượn, như thể ông cũng chính là một con chim, trên những luồng khí nhiễu động bốc lên bên trên cánh rừng, Lee nhìn quanh qua không khí tối thẫm, lúc này đang tràn ngập ánh sáng xanh xao tỏa ra từ trăng rằm, thỉnh thoảng mới lọt qua được một khe hở trong thoáng chốc trên màn mây và rảy ánh bạc lên những ngọn cây.
Con linh thú ưng biển hét lên một tiếng chói tai, và từ phía dưới vọng tới tiếng gọi của hàng nghìn con chim với hàng nghìn chất giọng khác nhau: tiếng tu hu của cú, tiếng rít báo động của đám sẻ nhỏ, nhạc điệu du dương của bầy sơn ca. Sayan Kötör đang gọi chúng, và chúng tới để đáp lại, tất cả chim chóc trong khu rừng, dù cho có đang bay lượn săn mồi trên đôi cánh câm lặng hay đã đáp xuống và say ngủ, cả nghìn con cùng đồng loạt vỗ cánh bay lên qua bầu không khí hỗn loạn.
Lee cảm thấy bản tính loài chim nào đó mà mình đang chia sẻ tỏ ra hân hoan trước mệnh lệnh của nữ hoàng ưng biển, trong lúc phần người còn lại trong ông cảm thấy niềm khoái cảm kì lạ nhất: đó là sự háo hức phục tùng một uy quyền lớn mạnh hơn, một uy quyền hoàn toàn xứng đáng. Ông lượn vòng rồi bẻ hướng cùng với phần còn lại của đàn chim khổng lồ, một trăm loài khác nhau cùng đồng loạt quay đầu theo ý chí đầy lôi cuốn của con chim ưng biển, và thấy bóng hình đen thùi lùi, cân đối của một chiếc zeppelin đầy căm hờn hiện lên trên khối mây lơ lửng màu bạc.
Tất cả đều biết chính xác mình cần phải làm gì. Chúng đổ dồn về phía chiếc khí cầu, kẻ nhanh sẽ đến trước, nhưng không ai nhanh được bằng Sayan Kötör. Những con tiêu liêu và chim sẻ bé xíu, lũ én lao như tên, đám cú với đôi cánh câm lặng - chỉ trong giây lát, chúng đã bám đầy chiếc phi cơ, quờ quạo móng vuốt để tìm chỗ bám trên lớp lụa bôi dầu hoặc chọc thủng nó để bấu vào.
Chúng cố gắng tránh phần động cơ, dù cho vài con vẫn bị hút vào đó và bị các cánh quạt xẻ ra thành từng mảnh. Phần lớn số chim chỉ đơn thuần đậu trên thân chiếc zeppelin, rồi những con đến sau tóm vào chúng, cho tới khi chúng bao trùm không chỉ toàn bộ phần thân chiếc khí cầu (lúc này đang hả khí hydro qua hàng ngàn lỗ móng đục nhỏ xíu) mà cả các cửa sổ khoang hành khách, thanh chống và dây cáp - từng mét vuông đều có một con chim, hai con chim, ba con hoặc nhiều hơn, đang bám vào đó.
Viên phi công chẳng thể làm được gì. Dưới sức nặng của bầy chim, chiếc phi cơ bắt đầu tụt xuống ngày càng sâu. Rồi một trong những sườn núi dốc đứng đầy dữ tợn xuất hiện, len lỏi qua màn đêm, và hẳn nhiên là vô hình đối với những người bên trong chiếc zeppelin, vì họ đang điên cuồng chĩa súng bắn lung tung.
Vào thời khắc cuối cùng, Sayan Kötör thét lên, một tiếng ầm vang của những đôi cánh đập lập tức nhấn chìm cả tiếng gầm của động cơ khi đàn chim đồng loạt cất cánh bay đi. Đám người trong khoang hành khách có bốn hay năm giây nhận biết đầy kinh hoàng trước khi chiếc zeppelin đâm vào vách núi và phát hỏa.
Lửa, nhiệt, cháy… Lee lại bừng tỉnh, cả người ông nóng rực như đang nằm dưới mặt trời sa mạc.
Bên ngoài căn lều, đám lá ướt vẫn đang nhỏ tong tong không ngớt lên lớp vải bạt, nhưng cơn bão thì đã qua đi. Ánh sáng mờ ảo xám xịt len lỏi vào lều, Lee chống người dậy và thấy Hester đang chớp mắt bên cạnh mình, trong khi ông pháp sư thì quấn mình trong chăn, ngủ say đến mức người ta tưởng ông đã chết rồi nếu không thấy Sayan Kötör vẫn đang gà gật đậu trên một cành cây gãy ở bên ngoài.
Âm thanh duy nhất ngoài tiếng nước nhỏ giọt là khúc ca chim muông bình dị của rừng già. Không có tiếng động cơ trên trời, không có giọng nói của quân thù; vì vậy Lee cho rằng có lẽ sẽ không sao nếu nhóm lửa. Sau một hồi vật lộn, ông đã nhóm được và pha cho mình chút cà phê.
“Giờ thì sao, hả Hester?” Ông kêu lên.
“Còn tuỳ. Có bốn cái zeppelin, mà ông ấy mới hạ có ba.”
“Ý ta là, chúng ta đã hoàn thành nhiệm vụ chưa vậy?”
Nó vẫy tai rồi nói: “Tôi không nhớ có hợp đồng nào cả.”
“Đây không phải là vấn đề hợp đồng mà là đạo đức.”
“Chúng ta còn một cái zeppelin cần phải nghĩ tới trước khi ông có thể băn khoăn về đạo đức, Lee ạ. Có ba mươi, bốn mươi người được trang bị súng ống đang săn lùng chúng ta. Hơn nữa lại còn là chiến binh hoàng gia. Sống sót là trên hết, đạo đức tính sau.”
Nó nói đúng, hẳn rồi. Trong lúc nhấm nháp cốc cà phê nóng bỏng lưỡi và làm một điếu xì gà, với ánh bình minh đang sáng dần lên, ông tự hỏi không biết mình sẽ làm gì nếu phải chỉ huy chiếc Zeppelin duy nhất còn sót lại. Rút lui và chờ trời sáng hẳn, rõ ràng rồi, sau đó bay đủ cao để rà soát bìa rừng trên diện rộng, như thế chúng có thể thấy được khi nào Lee và Grumman để lộ chỗ ẩn náu.
Con linh thú chim ưng biển Sayan Kötör tỉnh dậy, sải rộng đôi cánh vĩ đại của mình phía trên nơi Lee đang ngồi. Hester ngước lên nhìn rồi quay đầu hết bên này lại sang bên kia, quan sát con linh thú hùng mạnh bằng từng bên của đôi mắt vàng lấp lánh, và một lúc sau ông pháp sư cũng bước ra khỏi lều.
“Một đêm bận rộn nhỉ,” Lee bình luận.
“Một ngày tất bật đang tới. Chúng ta phải rời khỏi rừng ngay, ông Scoresby ạ. Chúng sắp đốt trụi nó rồi.”
Lee ngờ vực nhìn quanh thảm thực vật ướt đẫm và nói: “Đốt kiểu gì được?”
“Chúng có một động cơ phóng ra một loại dầu mỏ được trộn cùng kali cacbonat, hỗn hợp này sẽ bốc hỏa khi chạm vào nước. Hải quân Hoàng gia đã phát triển nó để sử dụng trong cuộc chiến với Nhật Bổn. Khu rừng càng đẫm nước thì bắt lửa càng nhanh.”
“Ông có thể thấy được điều đó đúng không?”
“Rõ như khi ông thấy chuyện xảy ra với đám zeppelin trong đêm vậy. Sắp xếp đồ đạc ông muốn mang theo rồi đi ngay thôi.”
Lee xoa cằm. Những đồ vật quý giá nhất mà ông sở hữu lại cũng là những đồ dễ vận chuyển nhất - các thiết bị đặt trong khí cầu. Vậy là ông thu nhặt chúng từ trong giỏ, cất cẩn thận vào balô, kiểm tra chắc chắn rằng khẩu súng trường đã được lên đạn và khô ráo; rồi bỏ lại cái giỏ, bộ dây treo, và túi khí gas tại nơi chúng đang nằm, rối tung và vặn vẹo giữa đám cành lá. Từ giờ ông đã không còn là phi công lái khí cầu nữa rồi, trừ khi một điều kì diệu xảy ra khiến ông sống sót thoát được và kiếm đủ tiền để mua một cái khí cầu mới. Giờ ông sẽ phải di chuyển như một con côn trùng, men theo bề mặt của trái đất.
°°°
Họ ngửi thấy mùi khói trước khi nghe thấy tiếng lửa cháy, do một ngọn gió từ biển đã thổi nó vào sâu trong đất liền. Vào lúc tới được bìa rừng, họ có thể nghe thấy tiếng vụ cháy, một tiếng gầm thật trầm và tham lam.
“Sao chúng không làm việc này từ tối hôm qua?” Lee thắc mắc. “Chúng có thể đã quay giòn chúng ta khi ta còn đang ngủ rồi.”
“Tôi đoán là chúng muốn bắt sống chúng ta,” Grumman trả lời trong lúc vặt sạch lá khỏi một cành cây để dùng làm gậy chống, “và chúng đang đợi xem chúng ta rời khỏi rừng từ chỗ nào.”
Quả vậy, chẳng bao lâu sau tiếng o o của chiếc zeppelin đã trở nên rõ ràng, trên cả tiếng lửa cháy và tiếng thở khó nhọc của chính họ, vì lúc này họ đang đi rất vội, trèo lên trên qua những rễ, những đá sỏi và thân cây đổ, chỉ dừng lại để nghỉ lấy hơi. Sayan Kötör bay lên cao rồi lại sà xuống để thông báo họ đã đi được bao xa, và ngọn lửa còn cách chừng nào phía sau; dù cho không lâu sau họ đã có thể thấy khói bốc lên trên đám cây phía sau, rồi tiếp đến là một dải lửa.
Những sinh vật nhỏ của khu rừng, sóc, chim, lợn rừng, đang tháo chạy cùng với họ và một bản hòa âm những tiếng kêu thét, rú rít, tiếng gọi cảnh báo thuộc đủ loại vang lên quanh họ. Hai lữ khách vất vả đi tiếp về phía bìa rừng còn cách đó không xa; và khi họ tới được đó, từng luồng nhiệt liên tiếp phả vào họ từ ngọn lửa cuồn cuộn gào thét lúc này đã cao tới gần hai chục mét trong không trung. Cây cối cháy rực như đuốc; nhựa chảy trong các mô mạch bị đun sôi và rạch chúng ra thành từng mảnh, hắc ín trong các thân tùng bách bắt lửa như dầu, còn trên các cành non, những bông hoa màu cam hung dữ dường như đang đồng loạt xòe cánh.
Kinh hoàng, Lee và Grumman ép mình trèo lên con dốc dựng đứng đầy đá sỏi. Một nửa bầu trời đã bị che mù bởi khói và sương mù nhiệt, nhưng ở phía trên cao lơ lửng hình dạng to bè của chiếc zeppelin duy nhất còn lại - quá xa để có thể thấy được họ kể cả nếu có dùng ống nhòm, Lee thầm nhủ trong hi vọng.
Sườn núi phía trước mặt họ dốc đứng và không thể vượt qua. Chỉ có một con đường duy nhất ra khỏi cái bẫy mà họ đang mắc phải, đó là hẻm núi hẹp ở phía trước, nơi một thềm sông khô cạn lộ ra từ hẻm núi giữa các vách đá.
Lee chỉ tay, và Grumman nói: “Chính xác những gì tôi nghĩ, ông Scoresby ạ.”
Linh thú của ông, đang lượn vòng trên cao, khẽ đập cánh rồi cưỡi khối khí nóng cuồn cuộn bốc lên để lao về phía khe núi. Hai người đàn ông leo không ngừng nghỉ, cố gắng đi nhanh nhất có thể, nhưng Lee lên tiếng:
“Thứ lỗi cho tôi nếu câu hỏi này không thích hợp, nhưng tôi chưa từng biết bất cứ ai có linh thú làm được điều đó ngoại trừ các phù thủy. Nhưng ông lại không phải phù thủy. Đó là điều ông học được hay nó tới một cách tự nhiên?”
“Đối với một con người thì chẳng có gì tự nhiên đến cả,” Grumman đáp. “Chúng ta phải học hỏi mọi thứ mình làm. Sayan Kötör đang nói với tôi rằng khe núi dẫn tới một con đèo. Nếu chúng ta có thể tới đó trước khi bị chúng phát hiện, ta có thể sẽ thoát được.”
Con ưng biển lại sà xuống, và những người đàn ông tiếp tục leo lên. Hester thích được tự đi trên những tảng đá, nên Lee bám theo lối nó dẫn, tránh những hòn đá bập bênh và di chuyển lẹ làng nhất có thể trên những khối đá lớn hơn, luôn hướng về hẻm núi nhỏ.
Lee thấy lo cho Grumman, vì ông này đang tái nhợt, ủ rũ và thở dốc. Công việc ông làm vào ban đêm đã bòn rút một phần lớn năng lượng của ông. Liệu họ có thể tiếp tục đi bao xa là câu hỏi mà Lee không muốn đối mặt; nhưng khi họ gần tới được lối vào khe núi, thực tế là đang ở trên rìa của thềm sông khô cạn, ông nghe thấy sự thay đổi trong âm thanh của chiếc zeppelin.
“Chúng phát hiện ra chúng ta rồi,” ông nói.
Việc đó chẳng khác nào lãnh nhận một án tử hình. Hester trượt chân, đến cả Hester có đôi chân vững vàng và trái tim rắn rỏi cũng phải loạng choạng và chùn bước. Grumman dựa vào cây gậy mà ông mang theo rồi che mắt để nhìn lại đằng sau, Lee cũng quay lại nhìn.
Chiếc zeppelin đang nhanh chóng hạ độ cao, hướng tới con dốc ngay bên dưới họ. Rõ ràng là những kẻ bám đuổi muốn bắt sống chứ không giết họ, vì lúc đó chỉ cần một loạt đạn là đủ kết liễu cả hai người ngay trong tích tắc. Thay vào đó viên phi công lại khéo léo điều khiển cho chiếc phi cơ lơ lửng ngay trên mặt đất, tại vị trí cao nhất trên con dốc mà hắn có thể bảo đảm an toàn, rồi từ cửa khoang hành khách một dòng người mặc đồng phục xanh da trời nhảy xuống, đám linh thú sói kề sát, và bắt đầu leo.
Lee và Grumman ở phía trên đoàn quân gần sáu trăm mét, và lối vào hẻm núi cũng không còn xa. Một khi đã tới được đó, họ có thể cầm chân đám binh lính chừng nào đạn dược của họ còn chống chọi được: nhưng họ chỉ có mỗi một khẩu súng trường.
“Chúng nhắm tới tôi, ông Scoresby ạ,” Grumman nói, “không phải là ông. Nếu ông đưa cho tôi khẩu súng rồi đầu hàng, ông sẽ sống sót. Chúng đều là những đội quân rất kỉ luật. Ông sẽ trở thành tù binh chiến tranh.”
Lee lờ đi và nói: “Đi nào. Đến hẻm núi rồi tôi sẽ cầm chân chúng ở lối vào trong lúc ông tìm đường thoát ra ở đầu bên kia. Tôi đã đưa ông đi xa đến thế này rồi, nên giờ sẽ không ngồi nhìn người ta bắt ông đi đâu.”
Đám người bên dưới đang di chuyển rất nhanh chóng, vì chúng đều được nghỉ ngơi đầy đủ và sung sức. Grumman gật đầu.
“Tôi không có đủ sức lực để hạ nốt cái thứ tư,” là tất cả những gì ông nói, rồi họ vội vã tiến tới nơi ẩn náu trong hẻm núi.
“Cho tôi biết điều này trước khi ông đi,” Lee nói, “vì tôi sẽ không thấy thoải mái cho tới khi biết được. Tôi không thể nói được mình đang chiến đấu cho phe nào, mà tôi cũng không quá quan tâm. Nhưng hãy cho tôi biết: việc tôi sắp làm bây giờ, liệu nó có giúp cô gái nhỏ Lyra đó không, hay là làm hại đến cô bé?”
“Nó sẽ giúp cô bé,” Grumman đáp.
“Còn lời thề của ông. Ông không quên việc đã hứa với tôi đó chứ?”
“Tôi không quên đâu.”
“Bởi vì, Tiến sĩ Grumman ạ, hay John Parry, hay bất cứ cái tên nào ông tự nhận ở những thế giới mà ông đến, hãy hiểu lấy điều này. Tôi yêu mến đứa bé đó như con gái của chính mình. Nếu tôi có con, tôi cũng không thể yêu thương nó hơn. Vì vậy nếu ông phá bỏ lời thề, những gì còn sót lại của tôi sẽ truy đuổi những gì còn lại của ông, và ông sẽ dành cả phần thời gian bất tận còn lại ước rằng mình chưa từng tồn tại. Lời thề đó quan trọng như vậy đấy.”
“Tôi hiểu rồi. Tôi xin hứa với ông.”
“Vậy thì đó là tất cả những gì tôi cần được biết. Đi cẩn thận nhé.”
Vị pháp sư chìa bàn tay ra và Lee nắm lấy nó. Sau đó Grumman quay đi, leo lên hẻm núi, trong lúc Lee nhìn quanh tìm chỗ đứng tốt nhất.
“Đừng chọn tảng đá lớn đó, Lee ạ,” Hester nhận xét. “Từ đó không thấy được phía bên phải, mà chúng lại có thể dồn lực tấn công ta. Lấy tảng nhỏ hơn ấy.”
Một tiếng gầm vang lên trong tai Lee, nó hoàn toàn không dính dáng gì đến đám cháy trong khu rừng phía dưới hay tiếng o o nặng nhọc của chiếc zeppelin đang cố gắng bay lên. Nó liên quan đến tuổi thơ của ông, đến Alamo. Ông và các bạn mình đã chơi trận chiến hào hùng đó nhiều biết bao, trong đống tàn tích của pháo đài cổ, thay phiên nhau làm quân Đan Mạch và Pháp Lan Tây! Tuổi thơ trong ông đang ùa về một cách dữ dội. Ông lấy chiếc nhẫn Navajo của mẹ mình ra rồi đặt nó lên tảng đá bên cạnh. Trong những trận Alamo ngày trước, Hester thường có dạng báo sư tử hoặc sói, một hay hai lần gì đó là rắn chuông, nhưng đa phần là chim nhại. Giờ…
“Ngừng mơ mộng lại mà ngắm bắn đi,” nó lên tiếng. “Đây không phải trò chơi đâu, Lee ạ.”
Đám người leo lên dốc đã tản ra và đang di chuyển chậm hơn, vì chúng cũng thấy được vấn đề mà ông đang thấy. Chúng biết rằng mình sẽ phải giành được hẻm núi, và cũng hiểu rằng một người cầm súng trường có thể thủ vững trong một thời gian dài. Lee ngạc nhiên khi thấy đằng sau chúng, chiếc zeppelin vẫn đang chật vật để bay lên. Có lẽ sức nổi của nó đã thất thoát, hoặc có thể nó đang cạn dần năng lượng, nhưng dù là vì lí do gì thì nó cũng chưa cất cánh nổi, và điều đó cho ông một ý tưởng.
Ông chỉnh lại tư thế và ngắm dọc theo khẩu súng trường Winchester cũ kĩ cho tới khi giàn động cơ bên trái lọt vào ống ngắm, rồi nổ súng. Tiếng vỡ khiến các binh sĩ ngẩng lên nhìn trong lúc đang leo về phía ông, nhưng một giây sau động cơ đột ngột gầm lên rồi lại kẹt máy và lịm đi cũng đột ngột không kém. Chiếc zeppelin tròng trành nghiêng về một phía. Lee có thể nghe thấy tiếng động cơ còn lại gào rú, nhưng giờ thì chiếc phi cơ đã đáp đất.
Các binh lính dừng lại và cố gắng che chắn tốt nhất có thể. Lee có thể đếm số người, và ông đã làm vậy: hai mươi lăm. Ông có ba mươi viên đạn.
Hester bò lên gần vai trái của Lee.
“Tôi sẽ canh chừng hướng này,” nó nói.
Thu mình trên tảng đá xám, tai cụp sát vào lưng, con linh thú trông cũng chẳng khác gì một hòn đá nhỏ màu nâu xám khó để ý thấy, chỉ trừ đôi mắt của nó. Hester chẳng có gì đẹp; trông nó cũng tầm thường và gầy gò như bao con thỏ rừng khác; nhưng đôi mắt nó lại mang những màu sắc diệu kì, màu nâu đỏ ánh vàng lốm đốm những tia nâu bùn và xanh rừng đậm đà nhất. Và giờ đây đôi mắt đó đang nhìn xuống phong cảnh cuối cùng mà nó sẽ chứng kiến: một con dốc cằn cỗi lởm chởm sỏi đá, xa hơn là một cánh rừng ngập lửa. Chẳng có lấy một ngọn cỏ hay một vệt màu xanh nào để dừng mắt.
Đôi tai nó khẽ giật giật.
“Chúng đang nói chuyện,” nó nói. “Tôi có thể nghe được nhưng không lí giải nổi.”
“Tiếng Nga đấy,” ông nói. “Chúng sẽ đồng loạt lao thật nhanh tới. Như thế sẽ gây khó dễ nhất cho chúng ta, nên chúng sẽ làm vậy.”
“Ngắm thẳng nhé,” nó nói.
“Hiểu rồi. Nhưng khỉ thật, ta không thích cướp đi mạng sống, Hester ạ.”
“Của ta hay là của chúng.”
“Không, còn hơn thế nữa,” ông nói. “Là của chúng hay của Lyra. Ta không thể biết được bằng cách nào, nhưng chúng ta được gắn kết với đứa trẻ đó, và ta mừng vì điều đó.”
“Có một gã bên trái đang chuẩn bị bắn,” Hester thông báo. Trong lúc nó nói vậy thì một tiếng cách phát ra từ súng của gã kia, đá bắn ra tung tóe cách nơi nó nằm chỉ vài phân. Viên đạn rền rĩ bắn vào khe núi, nhưng con thỏ không nhúc nhích lấy một sợi gân.
“Chà, điều đó khiến ta thấy khá hơn khi làm việc này,” Lee nói rồi cẩn thận ngắm bắn.
Ông nổ súng. Chỉ có một mảng màu xanh rất nhỏ để nhắm vào, nhưng ông đã bắn trúng nó. Gã đàn ông hét lên kinh ngạc rồi ngã vật ra chết.
Và rồi cuộc chiến bắt đầu. Chỉ trong một phút, tiếng súng nổ, tiếng đạn liên thanh rền rĩ; tiếng đá vỡ vụn vang vọng khắp triền núi và dọc theo khe hổng phía sau lưng ông. Mùi thuốc nổ không khói và mùi khét từ tảng đá bị nghiền nát bởi đạn chỉ là các biến thể của mùi gỗ cháy tỏa ra từ khu rừng, tới mức cả thế giới dường như đang bốc cháy.
Hòn đá ở chỗ Lee chẳng mấy chốc cũng đã sứt sẹo và hõm lỗ chỗ, ông cảm nhận được cả tiếng đập của đạn lên đá. Có lúc ông đã thấy lông trên lưng của Hester gợn sóng do gió từ một viên đạn vừa sượt qua, nhưng nó không nhúc nhích. Mà ông cũng không ngừng nổ súng.
Phút đầu tiên đó diễn ra thật quyết liệt. Sau đó, trong một lần ngừng bắn, Lee phát hiện ra mình đã bị thương: có máu trên phiến đá dưới má ông, còn tay phải và khóa nòng súng thì nhuốm đỏ.
Hester quay lại nhìn.
“Không có gì nghiêm trọng đâu,” nó nói. “Một viên đạn sượt qua đầu của ông thôi.”
“Ngươi có đếm được bao nhiêu tên đã ngã xuống không, Hester?”
“Không. Tôi còn bận né. Tranh thủ nạp lại súng đi, ông bạn.”
Ông thu mình đằng sau tảng đá rồi đẩy khóa nòng t?