- 2 - Balthamos và Baruch
Rồi một linh hồn lướt qua trước mặt tôi;
khiến lông tóc trên da thịt tôi dựng đứng.
Sách Job
“Yên lặng,” Will kêu lên. “Yên lặng đi. Đừng làm phiền tôi.”
Lúc đó là ngay sau khi Lyra bị đưa đi, ngay sau khi Will xuống khỏi đỉnh núi, ngay sau khi cô phù thủy giết bố cậu. Will thắp chiếc đèn lồng nhỏ bằng thiếc lấy được từ túi đồ của bố mình với số diêm khô mà cậu tìm thấy cùng với nó, rồi chui vào hốc đá để mở balô của Lyra.
Cậu lần mò bên trong bằng bàn tay lành lặn và thấy chiếc Chân Kế nặng trịch được bọc vải nhung. Cái máy lấp lánh dưới ánh sáng đèn lồng. Cậu giơ nó ra cho hai hình dáng đứng bên cạnh mình, những kẻ tự nhận là thiên thần.
“Các ông có đọc được cái này không?” Cậu hỏi.
“Không,” một giọng nói vang lên. “Đi với chúng ta. Cậu phải đi. Đến chỗ Ngài Asriel nào.”
“Ai sai các người bám theo bố tôi? Các ông nói ông ấy không biết mình bị bám đuôi. Nhưng ông ấy biết,” Will dữ dằn nói. “Bố bảo tôi chờ gặp các ông. Ông ấy biết nhiều hơn các ông nghĩ. Ai cử các ông đến?”
“Không ai cả. Chỉ có chúng ta thôi,” giọng nói lại vang tới. “Chúng ta muốn phục vụ Ngài Asriel. Còn người đàn ông đã chết, ông ta muốn cậu làm gì với con dao?”
Will buộc phải ngập ngừng.
“Bố bảo tôi phải đem nó đến cho Ngài Asriel,” cậu đáp.
“Vậy thì đi với chúng ta thôi.”
“Không. Cho tới khi tôi tìm được Lyra.”
Cậu bọc lại lớp vải nhung lên Chân Kế rồi cho nó vào balô của mình. Sau khi đã đeo chắc, cậu choàng chiếc áo nặng nề của bố lên người để chống mưa rồi khom mình tại chỗ, điềm tĩnh nhìn hai cái bóng.
“Các ông nói sự thật chứ?” Cậu hỏi.
“Phải.”
“Vậy các ông mạnh hơn con người, hay yếu hơn?”
“Yếu hơn. Các cậu có da thịt thật sự, còn chúng ta thì không. Dù vậy, cậu vẫn phải đi với chúng ta.”
“Không. Nếu tôi mạnh hơn, các ông sẽ phải nghe theo tôi. Hơn nữa, tôi còn có con dao. Vậy nên tôi có thể ra lệnh cho các ông: Giúp tôi tìm Lyra. Tôi không quan tâm sẽ mất bao nhiêu thời gian, tôi sẽ đi tìm cậu ấy trước rồi tới gặp Ngài Asriel.”
Hai hình dáng lặng thinh trong vài giây. Rồi họ lướt đi để trao đổi với nhau, dù cho Will không thể nghe thấy họ nói gì.
Cuối cùng họ quay trở lại, và cậu nghe thấy:
“Được rồi. Cậu đang phạm sai lầm, nhưng cậu không cho chúng ta lựa chọn. Chúng ta sẽ giúp cậu tìm đứa trẻ này.”
Will cố gắng nhìn xuyên qua màn đêm để thấy được họ rõ hơn, nhưng mưa khiến mắt cậu đầy ậc nước.
“Lại gần đây để tôi có thể thấy các ông,” cậu nói.
Họ tiến lại gần, nhưng dường như lại còn trở nên mờ mịt hơn.
“Liệu tôi có thấy các ông rõ hơn trong ánh sáng ban ngày không?”
“Không, còn kém hơn. chúng ta không phải cấp cao trong số các thiên thần.”
“Ồ, nếu tôi không thể thấy các ông thì những người khác cũng sẽ không thể, như vậy các ông có thể tránh bị phát hiện. Hãy đi xem các ông có thể tìm ra Lyra đã đi đâu không. Chắc chắn cậu ấy không thể đi xa được. Có một người phụ nữ - bà ta sẽ ở cùng với cậu ấy - người phụ nữ đã đưa cậu ấy đi. Đi tìm đi, rồi quay lại nói cho tôi biết các ông thấy được gì.”
Các thiên thần bay lên bầu không khí bão tố rồi biến mất. Một cảm giác u ám cùng cực đè nặng lên trái tim Will; cậu vẫn còn chút ít sức lực trước cuộc chiến với bố mình, nhưng giờ thì cậu sắp gục rồi. Việc duy nhất cậu muốn làm lúc này là nhắm đôi mắt nặng trĩu và đau nhức vì khóc này lại.
Cậu kéo áo choàng lên quá đầu, ôm chặt chiếc balô vào ngực, rồi thiếp đi chỉ trong giây lát.
“Không đâu cả,” một giọng nói cất lên.
Will nghe thấy nó ở tận sâu thẳm trong giấc ngủ và vật lộn để tỉnh dậy. Cuối cùng (mất gần một phút vì cậu đang hoàn toàn vô thức) cậu cũng mở được mắt ra trước ánh bình minh rực rỡ trước mặt.
“Các ông ở đâu thế?” Cậu lên tiếng.
“Bên cạnh cậu,” thiên thần đáp. “Hướng này.”
Mặt trời vừa ló rạng, các tảng đá cùng địa y và rêu trên đó tỏa sáng rực rỡ và lộng lẫy dưới ánh nắng sớm, nhưng cậu chẳng thể thấy bóng dáng nào cả.
“Ta đã nói chúng ta sẽ khó nhìn thấy hơn dưới ánh sáng ban ngày,” tiếng nói tiếp tục. “Cậu sẽ thấy chúng ta rõ nhất vào lúc ánh sáng mờ ảo, lúc hoàng hôn hoặc bình minh; sau đó là trong bóng tối; kém nhất là dưới ánh nắng. Bạn ta và ta đã tìm xa phía dưới ngọn núi, nhưng không thấy cả người phụ nữ lẫn đứa trẻ. Nhưng có một hồ nước xanh mà bà ta hẳn đã cắm trại. Có một người đàn ông đã chết ở đó, và một phù thủy bị Quỷ hút hồn ăn mất.”
“Một người chết? Ông ta trông như thế nào?”
“Ông ta vào tầm lục tuần. Mập mạp, da căng mịn. Tóc xám bạc. Ăn vận sang trọng, và có dấu vết của một mùi nồng quanh mình.”
“Ngài Charles,” Will thốt lên. “Là ông ta. Chắc chắn Phu nhân Coulter đã giết ông ta. Chậc, ít ra thì đó cũng là điều tốt.”
“Bà ta để lại dấu vết. Bạn ta đã đi theo họ, anh ấy sẽ quay lại khi tìm ra vị trí của bà ta. Ta sẽ ở với cậu.”
Will đứng dậy nhìn quanh. Cơn bão đã làm sạch không khí, khiến buổi sáng thật trong lành và tươi mát, nhưng điều đó lại chỉ khiến khung cảnh xung quanh cậu càng trở nên đau buồn hơn; vì nằm gần đó là xác của vài phù thủy đã hộ tống cậu và Lyra tới cuộc gặp gỡ với bố mình. Một con quạ ăn xác thối có cái mỏ hung bạo đã tới rỉa mặt của một trong số họ, Will còn có thể thấy một con chim lớn hơn đang lượn vòng phía trên, như thể đang lựa chọn bữa tiệc nào thịnh soạn nhất.
Will lần lượt kiểm tra từng cái xác một, nhưng không ai trong số đó là Serafina Pekkala, nữ hoàng của tộc phù thủy, người bạn đặc biệt của Lyra. Rồi cậu sực nhớ ra: Chẳng phải cô đã đột ngột bỏ đi vì một việc khác không lâu trước khi hoàng hôn xuống sao?
Vậy thì có thể cô vẫn còn sống. Ý nghĩ đó khiến cậu phấn chấn hơn, cậu rà soát đường chân trời để tìm một dấu hiệu nào đó của cô, nhưng chẳng thấy được gì ngoài không khí xanh biếc và đá nhọn ở mọi hướng đưa mắt.
“Ông đang ở đâu thế?” Cậu nói với thiên thần.
“Bên cạnh cậu,” giọng nói cất lên, “luôn là vậy.”
Will nhìn sang bên trái, nơi giọng nói phát ra, nhưng chẳng thấy gì cả.
“Vậy thì không ai có thể thấy được ông. Liệu có ai khác nghe được ông rõ như tôi không?”
“Không, nếu ta thì thầm,” thiên thần chanh chua nói.
“Tên ông là gì? Các ông có tên chứ?”
“Chúng ta có. Tên ta là Balthamos. Bạn của ta là Baruch.”
Will suy tính xem nên làm gì. Khi ta lựa chọn một cách trong số rất nhiều cách khác, tất cả những cách ta không chọn sẽ bị dập tắt như ngọn nến, như thể chúng chưa hề tồn tại. Vào lúc này, tất cả các lựa chọn của Will đều cùng đồng thời tồn tại. Nhưng để giữ cho tất cả cùng tồn tại có nghĩa là chẳng làm gì cả. Rốt cuộc thì cậu vẫn sẽ phải lựa chọn.
“Chúng ta sẽ xuống núi,” cậu nói. “Chúng ta sẽ tới chỗ cái hồ đó. Ở đó có thể có thứ tôi tận dụng được. Mà dù sao tôi cũng đang khát nước. Tôi sẽ đi theo lối mà mình nghĩ là đúng và ông có thể chỉ dẫn nếu tôi đi nhầm.”
Chỉ khi đã đi được vài phút xuống con dốc lởm chởm đá chẳng có lấy một lối đi này, Will mới nhận ra rằng bàn tay cậu không còn đau nữa. Thật ra cậu chưa từng nghĩ tới vết thương của mình kể từ khi tỉnh dậy.
Cậu dừng lại nhìn miếng vải xù xì mà bố đã quấn quanh vết thương sau cuộc vật lộn giữa họ. Nó đang trơn nhẫy vì thứ thuốc mỡ mà ông đã bôi lên, nhưng không hề có một dấu hiệu nào của máu rỉ; và sau khi đã bị chảy máu không ngừng kể từ lúc bị mất hai ngón tay, điều này dễ chịu đến mức cậu cảm thấy tim mình gần như đang đập rộn ràng vì vui sướng.
Cậu thử cử động các ngón tay. Quả vậy, các vết thương vẫn còn đau, nhưng mà là một kiểu đau khác: Không phải là sự nhức nhối sâu hoắm khiến sức lực cạn kiệt của ngày hôm trước, mà là một cảm giác âm ỉ, yếu ớt hơn. Cảm giác như nó đang lành lại vậy. Bố cậu đã làm điều đó. Bùa chú của các phù thủy đã thất bại, nhưng bố cậu đã chữa lành cho cậu.
Cậu phấn khởi tiến bước xuống dốc.
Mất ba tiếng đồng hồ và vài lời chỉ dẫn trước khi cậu tới một cái hồ nhỏ màu xanh biếc. Lúc đến được đó, họng cậu đã khô khốc vì khát. Dưới ánh mặt trời thiêu đốt, chiếc áo choàng trở nên nặng trịch và nóng bức; mặc dù sau khi cởi ra cậu lại nhớ sự bao bọc của nó, vì đôi tay và cái cổ trần của cậu đang bỏng rát. Cậu thả rơi áo choàng và balô rồi chạy vài mét cuối cùng về phía làn nước, để vục mặt xuống và nuốt từng ngụm nước lớn lạnh toát. Nước lạnh tới mức khiến răng và đầu cậu đau buốt.
Khi cơn khát đã dịu đi, cậu ngồi dậy rồi nhìn quanh. Ngày hôm trước cậu đã không có tâm trí nào để để ý tới mọi thứ, nhưng giờ cậu đã thấy rõ hơn màu sắc mãnh liệt của mặt nước, và nghe thấy tiếng côn trùng rúc rích khắp xung quanh.
“Balthamos?”
“Vẫn luôn ở đây.”
“Người chết đâu rồi?”
“Đằng sau tảng đá cao phía bên phải cậu.”
“Có con Quỷ hút hồn nào quanh đây không?”
“Không, không có con nào cả.”
Will nhặt balô và áo choàng lên rồi men theo mép hồ, đi tới tảng đá mà Balthamos đã chỉ.
Phía sau tảng đá, một khu cắm trại nhỏ được dựng lên, với năm hay sáu căn lều và dấu tích của lửa nấu ăn. Will thận trọng đi xuống, phòng trường hợp ai đó vẫn còn sống hoặc đang ẩn trốn.
Nhưng sự tĩnh lặng tuyệt đối đến mức tiếng côn trùng rả rích chỉ lớt phớt trên bề mặt của nó. Đám lều nằm im lìm còn mặt nước lặng như tờ trong lúc những gợn sóng vẫn đang chậm rãi trôi đi từ nơi cậu uống nước. Một vệt màu xanh vụt chạy qua gần chân cậu khiến cậu hơi giật mình, nhưng đó chỉ là một con thằn lằn nhỏ xíu.
Những căn lều được làm từ vật liệu ngụy trang, chỉ khiến chúng càng thêm nổi bật giữa những tảng đá đỏ xỉn màu. Cậu kiểm tra căn đầu tiên và thấy nó trống trơn. Căn thứ hai cũng vậy, nhưng trong căn thứ ba cậu tìm thấy vài thứ có giá trị: một bộ cà mèn bằng thiếc và một hộp diêm. Ngoài ra còn một dải gì đó đen ngòm vừa dài vừa dày dặn như cẳng tay của cậu. Ban đầu cậu nghĩ đó là một miếng da, nhưng trong ánh nắng, cậu thấy rõ rằng đó là thịt sấy khô.
Xét cho cùng thì cậu cũng có một con dao. Cậu cắt lấy một miếng mỏng, nếm thấy nó khá mềm và hơi mặn, nhưng được tẩm ướp rất ngon. Cậu cho miếng thịt và số diêm, cùng với bộ cà mèn vào balô rồi kiểm tra các căn lều còn lại, nhưng chúng rỗng không.
Cậu để dành căn lều lớn nhất đến phút cuối cùng.
“Đó có phải nơi có người đàn ông đã chết không?” Cậu nói vào không khí.
“Phải,” Balthamos nói. “Ông ta đã bị bỏ độc.”
Will cẩn trọng đi vòng tới cửa vào hướng ra hồ. Nằm sóng soài bên cạnh chiếc ghế vải bạt bị đổ nhào là cơ thể của người đàn ông được biết tới ở thế giới của Will dưới cái tên Ngài Charles Latrom, còn ở thế giới của Lyra là Ngài Boreal, người đã đánh cắp Chân Kế của cô, và sau đó cũng đã dẫn Will đến với con dao kì ảo. Ngài Charles từng là một kẻ hòa nhã, không trung thực và uy quyền, nhưng giờ thì ông ta đã chết rồi. Gương mặt ông ta méo mó một cách khó coi, khiến Will không muốn nhìn vào nó. Nhưng chỉ một cái lướt nhìn vào trong lều là đủ thấy có khối thứ để lấy trộm, vậy là cậu liền bước qua cái xác để nhìn kĩ hơn.
Bố cậu, người chiến sĩ, nhà thám hiểm, hẳn sẽ biết chính xác cần phải lấy cái gì. Will thì sẽ phải đoán. Cậu lấy chiếc kính lúp nhỏ trong cái hòm sắt, vì cậu có thể dùng nó để nhóm lửa và tiết kiệm được diêm; một cuộn dây bện cứng cáp; một bi đông đựng nước bằng hợp kim, nhẹ hơn nhiều so với cái bình da dê mà cậu vẫn mang theo, cùng một cái cốc thiếc nhỏ; một cái ống nhòm nhỏ; một súc tiền xu vàng to bằng ngón tay cái của một người đàn ông, được bọc trong giấy; bộ dụng cụ cứu thương; viên lọc nước; một gói cà phê nhỏ; ba gói hoa quả sấy được hút chân không; một túi bánh quy yến mạch; sáu thanh bánh bạc hà Kendal; một gói móc câu cá và dây nilon; và cuối cùng, một cuốn sổ tay cùng vài chiếc bút chì, và một cái đèn pin nhỏ.
Cậu xếp tất cả vào balô của mình, cắt một miếng thịt nữa, làm đầy bụng và sau đó là bi đông của mình bằng nước hồ, rồi nói với Balthamos:
“Ông có nghĩ là tôi cần thêm thứ gì không?”
“Cậu sẽ cần thêm chút ít phán đoán,” tiếng trả lời vọng tới. “Một thứ khả năng giúp cậu nhận biết được sự thông thái, khiến cậu tôn trọng và tuân theo nó.”
“Ông có thông thái không?”
“Hơn cậu nhiều.”
“À, ông biết đấy, cái đó thì tôi không đoán được. Ông là đàn ông à? Nghe ông nói thì có vẻ là đàn ông.”
“Baruch đã từng. Ta thì không. Giờ thì anh ấy là thiên thần.”
“Vậy…” Will dừng việc mình đang làm lại, đó là sắp xếp đồ trong balô sao cho những vật nặng nhất ở dưới cùng, rồi cố gắng nhìn vị thiên thần. Chẳng có gì ở đó để nhìn cả. “Vậy ra ông ấy đã từng là người,” cậu nói tiếp, “rồi sau đó… Người ta trở thành thiên thần khi họ chết đi à? Đó có phải điều sẽ xảy ra không?”
“Không phải lúc nào cũng thế. Không phải đại đa số các trường hợp… Rất hiếm.”
“Vậy ông ấy sống vào lúc nào?”
“Ít nhiều cũng phải bốn nghìn năm trước. Ta thì già hơn nhiều.”
“Ông ấy sống ở thế giới của tôi à? Hay là của Lyra? Hay thế giới này?”
“Ở thế giới của cậu. Nhưng có vô số thế giới tồn tại. Cậu biết điều đó mà.”
“Nhưng làm thế nào người ta trở thành thiên thần được?”
“Cái sự suy xét siêu hình này có ích gì chứ?”
“Tôi chỉ là muốn biết thôi.”
“Tốt hơn hết là tập trung vào nhiệm vụ của cậu đi. Cậu đã tước đoạt tài sản của kẻ đã chết này, cậu có tất cả những món đồ chơi mình cần để sống sót; giờ thì chúng ta đi tiếp được rồi chứ?”
“Khi tôi biết được cần phải đi hướng nào.”
“Dù chúng ta có đi hướng nào thì Baruch cũng sẽ tìm được.”
“Vậy thì ông ấy vẫn sẽ tìm được nếu chúng ta ở đây. Tôi có vài việc khác cần làm.”
Will ngồi xuống một vị trí mà cậu không nhìn thấy cái xác của Ngài Charles rồi ăn ba miếng bánh bạc hà Kendal. Cảm giác khoan khoái và mạnh mẽ mà cậu cảm thấy khi món ăn bắt đầu nuôi dưỡng cơ thể cậu thật tuyệt vời. Sau đó cậu lại ngắm nghía Chân Kế. Ba mươi sáu bức hình nhỏ xíu được vẽ trên ngà voi đều rõ ràng một cách tuyệt đối: chẳng có gì phải nghi ngờ về việc đây là một đứa bé, kia là một con rối, cái này là ổ bánh mì, vân vân. Chỉ có ý nghĩa của chúng là mờ mịt.
“Lyra đã đọc cái này kiểu gì vậy?” Cậu nói với Balthamos.
“Rất có khả năng là cô ta tự bịa ra. Những người sử dụng thứ thiết bị này đã phải nghiên cứu trong nhiều năm, nhưng kể cả thế thì họ cũng chỉ có thể hiểu được chúng nhờ sự giúp đỡ của rất nhiều sách tham khảo.”
“Cậu ấy không hề bịa ra. Cậu ấy đã đọc thật sự. Cậu ấy đã nói cho tôi biết những điều đáng ra không bao giờ có thể biết được.”
“Vậy thì điều đó đối với ta cũng bí ẩn không kém, ta đảm bảo với cậu,” thiên thần nói.
Khi đang quan sát Chân Kế, Will nhớ lại một điều mà Lyra đã nói về việc đọc nó: Điều gì đó về trạng thái tinh thần mà cô phải đạt được để khiến nó hoạt động. Trạng thái tinh thần ấy cũng đã giúp cậu cảm nhận được sự tinh tế của lưỡi dao bạc.
Cảm thấy tò mò, cậu rút con dao ra rồi cắt lấy một ô cửa sổ nhỏ phía trước chỗ mình ngồi. Qua đó cậu chẳng thấy gì ngoài bầu trời xanh biếc, nhưng ở bên dưới, xa tít tận bên dưới, là cảnh cây cối và ruộng vườn: Thế giới của chính cậu, chắc chắn là vậy.
Vậy là núi ở thế giới này không tương ứng với núi ở chỗ cậu. Cậu đóng cửa sổ lại, lần đầu tiên dùng tay trái. Thật sung sướng khi lại có thể sử dụng nó!
Rồi một ý tưởng đến với cậu đột ngột đến mức cảm giác chẳng khác gì một cú sốc điện.
Nếu có vô vàn các thế giới thì tại sao con dao lại chỉ mở ra những cánh cửa giữa thế giới này và thế giới của cậu?
Chắc chắn nó có thể cắt vào bất cứ thế giới nào.
Cậu lại giơ con dao lên, để cho tâm trí trôi theo lưỡi dao tới tận đầu mũi như Giacomo Paradisi đã dặn, cho tới khi ý thức của cậu len lỏi giữa từng nguyên tử, cậu cảm thấy được từng vết rạn và gợn sóng lăn tăn rất nhỏ trong không khí.
Thay vì cắt ngay khi cảm nhận được điểm dừng đầu tiên như vẫn thường làm, cậu để cho con dao đi tiếp hết điểm này đến điểm khác. Việc này giống như lần theo một hàng mũi đan trong lúc ấn nhẹ đến mức không làm hỏng mũi nào.
“Cậu đang làm gì vậy?” Tiếng nói trong không khí vang lên, lôi ngược cậu trở lại.
“Khám phá,” Will đáp. “Yên lặng và tránh ra đi. Ông mà tới gần cái này là sẽ bị cắt trúng đó, mà tôi không thấy được ông nên cũng không thể tránh được.”
Balthamos phát ra một tiếng kêu bất mãn bị kìm nén lại. Will lại giơ con dao ra, cảm nhận những điểm dừng và ngập ngừng nhỏ xíu. Cậu không ngờ là có nhiều đến vậy. Trong lúc cảm nhận chúng mà không cần phải cắt xuyên qua ngay lập tức, cậu thấy rằng mỗi điểm đều mang một tính chất khác nhau: chỗ này thì cứng và rõ ràng, chỗ kia lại mờ ảo; điểm thứ ba trơn trượt, còn điểm thứ tư lại mỏng manh dễ vỡ…
Nhưng trong tất cả số đó, có những chỗ cậu cảm thấy dễ dàng hơn những nơi khác, và vì đã biết trước đáp án, cậu cắt qua một điểm để kiểm tra chắc chắn: Lại là thế giới của chính cậu.
Cậu đóng ô cửa lại rồi dùng mũi dao lần tìm một vết rạch có tính chất khác. Cậu tìm thấy một cái đàn hồi và bền chắc, rồi để cho con dao lách dần qua.
Quả không sai! Thế giới mà cậu nhìn thấy qua ô cửa sổ này không phải là của cậu: mặt đất ở đây gần hơn, còn cảnh vật thì không phải là những cánh đồng và bờ giậu xanh rì mà là một sa mạc cuồn cuộn những đụn cát.
Cậu đóng nó lại rồi mở ra một cái khác: bầu không khí ngập khói bao trùm một thành phố công nghiệp, cùng dòng nhân công bị xích và ủ rũ đang lê bước vào nhà máy.
Cậu đóng thế giới đó lại rồi trở về với thực thể của mình. Cậu cảm thấy chóng mặt đôi chút. Lần đầu tiên cậu hiểu ra phần nào năng lực thật sự của con dao, cậu cẩn thận đặt nó lên hòn đá trước mặt mình.
“Cậu định ở đây cả ngày đó à?” Balthamos lên tiếng.
“Tôi đang nghĩ. Ta chỉ có thể di chuyển dễ dàng từ thế giới này sang thế giới khác khi mặt đất ở cùng vị trí. Có thể có những nơi như vậy, mà cũng có thể cần phải cắt qua rất nhiều lần mới lần tới được… Và ta sẽ phải biết được thế giới của chính mình có cảm giác như thế nào trên đầu mũi dao, nếu không ta có thể không bao giờ về được mà sẽ bị lạc mãi mãi.”
“Quả là vậy. Nhưng chúng ta có nên…”
“Ngoài ra còn phải biết thế giới nào có mặt đất ở cùng vị trí, nếu không thì có mở ra cũng chẳng ích gì,” Will nói, vừa với chính bản thân mình, vừa với thiên thần. “Nên là việc này không hề dễ như tôi đã nghĩ. Chúng tôi chỉ là gặp may ở Oxford và Cittàgazze, có lẽ vậy. Nhưng tôi sẽ chỉ…”
Cậu lại nhặt con dao lên. Đồng thời với cảm giác rõ rệt và hiển nhiên mà cậu có khi chạm tới điểm mở ra thế giới của chính mình, còn có một kiểu cảm nhận khác mà cậu đã chạm vào nhiều hơn một lần: Một đặc tính cộng hưởng, giống như cảm giác nện vào một cái trống gỗ nặng nề, chỉ khác là hẳn nhiên giống như mọi cái khác, nó tới bằng chuyển động li ti nhất qua không gian trống trải.
Nó đây rồi. Cậu chuyển vị trí rồi lần tìm ở chỗ khác: Lại là nó kìa.
Cậu cắt xuyên qua và thấy rằng mình đã đoán trúng. Cảm giác vang dội có nghĩa là mặt đất ở thế giới cậu vừa mở ra ở cùng vị trí với thế giới này. Cậu thấy mình đang nhìn vào một thảo nguyên trên cao rợp cỏ dưới một bầu trời u ám, nơi một đàn thú vật đang điềm nhiên gặm cỏ - những con thú cậu chưa từng thấy bao giờ - những sinh vật có kích cỡ của bò rừng bison, với sừng lớn, lông xanh lam bờm xờm và một cái bờm bằng lông cứng chạy dọc sống lưng.
Cậu bước qua. Con vật gần nhất nhìn lên vẻ lãnh đạm rồi lại quay lại với bãi cỏ. Cứ để cửa sổ mở, Will đứng trong đồng cỏ của thế giới khác, lần đầu mũi dao để tìm những vết rạn quen thuộc, và thử rạch chúng.
Phải, cậu có thể mở ra thế giới của mình từ nơi này, cậu cũng vẫn đang ở cao phía trên các trang trại và hàng rào cây; và phải, cậu có thể dễ dàng tìm thấy cảm giác vang vọng chắc chắn ám chỉ thế giới Cittàgazze mà cậu vừa rời khỏi.
Cảm thấy hết sức nhẹ nhõm, Will trở về với khu cắm trại bên hồ rồi đóng mọi thứ lại. Giờ thì cậu có thể tìm được đường về nhà; giờ thì cậu sẽ không bị lạc nữa; giờ thì cậu có thể ẩn trốn khi cần thiết, và đi khắp nơi một cách an toàn.
Càng học hỏi được thêm nhiều kiến thức, cậu càng mạnh mẽ hơn. Cậu đút con dao vào bao đựng bên hông rồi quăng cái balô lên vai.
“Chà, giờ thì cậu sẵn sàng rồi chứ?” Giọng nói châm biếm vang lên.
“Rồi. Tôi sẽ giải thích nếu ông muốn, nhưng xem ra ông không có vẻ quan tâm lắm.”
“Ồ, tôi cho rằng bất cứ điều gì cậu làm cũng đều là một nguồn mê hoặc bất tận. Nhưng khỏi lo đến tôi. Cậu định nói gì với những người đang đến kia?”
Will nhìn quanh và giật mình. Ở xa phía dưới con đường mòn, rất rất xa, là một đoàn lữ khách cùng ngựa thồ, đang đều đặn leo lên về phía hồ. Họ vẫn chưa nhìn thấy cậu, nhưng nếu cậu ở nguyên tại chỗ, họ sẽ sớm phát hiện ra.
Will thu dọn chiếc áo choàng của bố mà cậu đang trải trên một tảng đá dưới ánh nắng. Cái áo lúc này trở nên nhẹ hơn rất nhiều khi đã khô. Cậu nhìn quanh: Chẳng có thứ gì khác mà cậu có thể mang đi cả.
“Đi tiếp thôi,” cậu nói.
Cậu muốn buộc lại băng gạc nữa, nhưng việc đó để sau cũng được. Cậu khởi hành dọc theo mép hồ, rời xa khỏi đoàn lữ hành, vị thiên thần theo sau, vô hình trong không khí sáng bừng.
Cùng ngày đó vào một lúc lâu sau, họ xuống khỏi rặng núi trơ trụi, bước vào một đoạn đường bộ phủ đầy cỏ và đỗ quyên lùn. Will đang khao khát muốn được nghỉ ngơi, và chẳng bao lâu sau cậu đã quyết định dừng lại.
Cậu gần như không nghe được gì mấy từ vị thiên thần. Cứ thỉnh thoảng Balthamos lại nói: “Không phải hướng đó,” hay: “Có một lối đi dễ hơn ở phía bên trái,” và cậu chấp nhận những lời khuyên đó; nhưng thật ra cậu đang đi chỉ để mà đi, và để tránh xa khỏi đám lữ hành kia, bởi cho tới khi thiên thần còn lại mang thêm thông tin về, có lẽ cậu nên ở nguyên chỗ cũ.
Lúc này, khi mặt trời đã dần lặn, cậu nghĩ mình có thể thấy được người đồng hành kì lạ của mình. Đường viền của một người đàn ông dường như đang run rẩy trong ánh sáng, còn không khí bên trong đó thì đặc quánh hơn.
“Balthamos?” Cậu nói. “Tôi muốn tìm một dòng suối. Có cái nào gần đây không?”
“Có một con suối dưới nửa chừng con dốc này,” thiên thần đáp, “ngay trên đám cây kia.”
“Cảm ơn ông,” Will nói.
Cậu tìm thấy con suối và lao vào uống lấy uống để, rồi đổ đầy bi đông. Nhưng trước khi cậu đi tiếp xuống khu rừng nhỏ, một tiếng kêu vọng lại từ phía Balthamos. Will liền quay lại và thấy hình dáng của thiên thần vụt qua con dốc về phía - cái gì thế nhỉ? Vị thiên thần chỉ hiện ra như một vệt chuyển động lấp loáng, và Will có thể thấy ông ta rõ hơn nếu không nhìn thẳng vào đó; nhưng ông ta dường như đang dừng lại, lắng nghe, rồi lại lao người vào không khí để lướt thật nhanh về phía Will.
“Ở đây!” Ông kêu lên, chỉ riêng lần này giọng ông không hề có chút chê trách và mỉa mai nào. “Baruch đã đi hướng này! Và còn có một ô cửa sổ ấy, gần như không thấy được. Đi - đi nào. Đến đây.”
Will háo hức theo sau, hoàn toàn quên bẵng cơn mệt mỏi. Khi tới gần, cậu nhìn thấy rằng ô cửa sổ mở ra một quang cảnh mờ ảo có vẻ như là một lãnh nguyên bằng phẳng hơn vùng núi thuộc thế giới của Cittàgazze, và lạnh hơn, với bầu trời mây giăng kín. Cậu bước qua, Balthamos lập tức đi theo.
“Thế giới nào thế này?” Will hỏi.
“Thế giới của cô bé. Đây là nơi họ đã đi qua. Baruch đã đi trước để bám theo họ.”
“Làm sao ông biết được ông ta ở đâu? Ông đọc suy nghĩ của ông ta được à?”
“Đương nhiên là ta đọc được suy nghĩ của anh ấy. Dù cho anh ấy có đi đâu thì trái tim ta cũng theo cùng; chúng ta cảm nhận như một thể, dù cho vốn là hai.”
Will nhìn quanh. Chẳng có dấu hiệu gì về sự sống của con người, sự lạnh lẽo trong không khí đang tăng dần vào giây phút ánh nắng lịm đi.
“Tôi không muốn ngủ ở đây,” cậu nói. “Chúng ta sẽ ở qua đêm tại thế giới Ci’gazze rồi quay lại đây vào buổi sáng. Ít nhất thì ở đó cũng có rừng, và tôi có thể nhóm lửa. Với lại, bây giờ khi đã biết thế giới của cậu ấy có cảm giác như thế nào, tôi có thể tìm được nó nhờ con dao… À, Balthamos? Ông có thể biến thành hình dạng khác được không?”
“Sao ta lại muốn làm thế chứ?”
“Ở thế giới này, con người ai cũng có linh thú, nếu tôi cứ đi loanh quanh mà không có con nào bên cạnh thì họ sẽ nghi ngờ mất. Hồi đầu Lyra đã chết khiếp với tôi bởi điều đó. Vậy nên nếu chúng ta định đi lại trong thế giới của cậu ấy, ông sẽ phải giả vờ làm linh thú của tôi, và biến hình thành một loài động vật nào đó. Có thể là một con chim. Ít nhất khi đó ông cũng có thể bay.”
“Ôi, nghe mới ngán ngẩm làm sao.”
“Nhưng ông có làm được không?”
“Ta có thể…”
“Vậy thì làm luôn đi. Cho tôi xem.”
Hình dạng của thiên thần dường như cô đặc lại rồi cuộn xoáy thành một cơn lốc nhỏ ở giữa không trung, rồi một con chim hoét sà xuống nền cỏ bên cạnh chân của Will.
“Bay lên vai tôi đi,” Will nói.
Con chim làm theo, rồi cất tiếng bằng giọng điệu chua chát quen thuộc của thiên thần:
“Ta sẽ chỉ làm điều này khi thật sự cần thiết. Quả là một sự sỉ nhục không thể diễn tả nổi.”
“Đáng tiếc ghê,” Will nói. “Bất cứ khi nào chúng ta thấy con người ở thế giới này, ông đều sẽ phải biến thành chim. Có làm ầm lên hay tranh cãi cũng chẳng ích gì đâu. Cứ thế làm thôi.”
Con chim hoét bay khỏi vai cậu rồi biến mất giữa không trung, và vị thiên thần lại ở đó, vẻ mặt hờn dỗi trong ánh sáng nhá nhem. Trước khi cả hai bước qua ô cửa sổ, Will nhìn xung quanh, hít ngửi không khí, đo đạc thế giới nơi Lyra đang bị giam giữ.
“Bây giờ bạn của ông đang ở đâu?” Cậu hỏi.
“Đi theo người đàn bà về phía nam.”
“Vậy thì chúng ta cũng sẽ đi theo hướng đó, khi trời sáng.”
Ngày kế tiếp, Will đi mải miết hàng giờ đồng hồ mà chẳng gặp ai. Phần lớn vùng đồng quê chỉ toàn những ngọn đồi thấp tè phủ một lớp cỏ khô ngắn tủn. Cứ khi nào thấy mình đang ở trên cao một chút, cậu lại nhìn quanh tìm kiếm dấu hiệu sinh sống của con người, nhưng chẳng thấy gì cả. Sự biến đổi duy nhất trên vùng đất trơ trọi bụi bặm màu nâu xanh này là một vệt xanh lá thẫm ở phía xa. Cậu hướng tới đó vì Balthamos nói rằng nó là một khu rừng, còn có cả một con sông nữa. Nó đưa cậu tiến về phía nam. Khi mặt trời lên tới đỉnh, cậu cố gắng chợp mắt giữa vài bụi cây thấp nhưng thất bại; và khi màn đêm tới gần, chân cậu đã đau nhừ, toàn thân rệu rã.
“Tiến triển chậm quá,” Balthamos cay nghiệt nói.
“Tôi không làm thế nào khác được,” Will nói. “Nếu ông không thể nói điều gì hữu ích thì tốt nhất đừng mở miệng.”
Vào lúc cậu tới được bìa rừng thì mặt trời đã xuống thấp, còn không khí lại nặng trĩu phấn hoa, nhiều đến mức khiến cậu hắt xì đến mấy phát, làm một con chim gần đó giật mình bay lên trong lúc kêu lên thảng thốt.
“Đó là sinh vật sống đầu tiên tôi thấy ngày hôm nay đó,” Will nói.
“Cậu định cắm trại ở đâu?” Balthamos hỏi.
Lúc này thiên thần cứ thỉnh thoảng lại hiện hình trong những cái bóng trải dài của đám cây. Will có thể đọc được trên biểu cảm của ông ta một vẻ hờn dỗi.
Will nói: “Tôi sẽ phải dừng lại ở đâu đó quanh đây thôi. Ông có thể giúp tìm một chỗ thích hợp. Tôi nghe thấy tiếng suối chảy - đi xem ông có thể tìm thấy nó không.”
Vị thiên thần liền biến mất. Will lết tới, qua những bụi thạch nam lùn và mía đầm lầy, ước gì có một thứ giống lối đi để chân cậu lần theo, trong lúc e sợ nhìn ánh nắng: Cậu sẽ phải nhanh chóng chọn chỗ dừng chần, nếu không màn đêm sẽ buộc cậu phải dừng lại mà không có lựa chọn nào cả.
“Bên trái,” Balthamos nói từ cách đó tầm một sải tay. “Một dòng suối và một cái cây chết để làm củi. Lối này…”
Will đi theo giọng nói của thiên thần, chẳng bao lâu sau cậu đã thấy được nơi ông miêu tả. Một dòng suối cuồn cuộn tung bọt giữa những tảng đá phủ đầy rêu, rồi biến mất qua mép vào một khe nứt nhỏ, đen ngòm dưới bóng cây rủ. Bên cạnh đó, một bờ suối ngập cỏ trải rộng về phía những bụi rậm và tầng cây thấp.
Trước khi cho phép bản thân nghỉ ngơi, cậu đi xung quanh thu lượm gỗ. Không lâu sau cậu bắt gặp một vòng tròn bằng đá đã cháy đen thui trên nền cỏ, nơi có ai đó đã nhóm lửa từ rất lâu rồi. Cậu thu thập những cành con và cành lớn hơn rồi dùng con dao cắt chúng thành một độ dài hữu dụng trước khi thử châm lửa. Cậu không biết cách tốt nhất để tiến hành việc này nên đã lãng phí vài que diêm trước khi có thể làm cho lửa bén.
Vị thiên thần quan sát sự việc với vẻ như lòng kiên nhẫn sắp cạn kiệt.
Sau khi lửa đã bùng lên, Will ăn hai chiếc bánh quy yến mạch, chút thịt khô, vài phong bánh bạc hà Kendal, rồi nuốt trôi chúng bằng những ngụm nước lạnh toát. Balthamos ngồi gần đó trong im lặng, cuối cùng Will lên tiếng:
“Ông định nhìn tôi suốt đấy à? Tôi có đi đâu đâu.”
“Ta đang đợi Baruch. Anh ấy sẽ sớm quay lại thôi, đến lúc đó ta có thể lờ cậu đi, nếu cậu muốn.”
“Ông có muốn ăn chút gì không?”
Balthamos hơi cựa quậy: Ông ta đang bị cám dỗ.
“Ý tôi là, tôi không biết liệu các ông có ăn uống gì không,” Will nói, “nhưng nếu ông muốn dùng thứ gì đó thì cứ tự nhiên.”
“Cái đó là gì vậy…” Thiên thần nói vẻ kén cá chọn canh, ám chỉ bánh bạc hà Kendal.
“Phần lớn là đường, tôi nghĩ vậy, và bạc hà. Đây.”
Will bẻ lấy một miếng rồi giơ ra. Balthamos nghiêng đầu hít ngửi. Rồi ông ta cầm nó lên, những ngón tay nhẹ bẫng và mát lạnh chạm vào lòng bàn tay của Will.
“Chừng này có lẽ sẽ nuôi dưỡng được ta,” ông ta nói. “Một miếng là đủ rồi, cảm ơn cậu.”
Ông ta ngồi xuống rồi lặng lẽ nhấm nháp. Will nhận thấy rằng nếu nhìn vào đống lửa, với thiên thần ở khóe mắt của mình, cậu sẽ thấy được ông ta rõ hơn rất nhiều.
“Baruch đang ở đâu thế?” Cậu hỏi. “Ông ấy có thể giao tiếp với ông không?”
“Ta cảm thấy rằng anh ấy đang ở rất gần. Anh ấy sẽ đến ngay thôi. Khi anh ấy trở lại, chúng ta có thể nói chuyện. Nói chuyện là cách tốt nhất.”
Chỉ mười phút sau, một tiếng vỗ cánh rất nhẹ vọng tới tai họ, khiến Balthamos hăm hở đứng bật dậy. Ngay sau đó, hai thiên thần đã ôm chầm lấy nhau, còn Will, nhìn vào đống lửa, thấy được tình cảm họ dành cho nhau. Còn hơn cả cảm xúc quý mến, họ yêu nhau một cách nồng nhiệt.
Baruch ngồi xuống cạnh người đồng hành của mình, trong lúc Will cời lửa, khiến một đám mây khói trôi qua hai người bọn họ. Nó có tác dụng làm đậm đường nét cơ thể họ, nhờ vậy mà lần đầu tiên cậu thấy rõ được cả hai. Balthamos có thân hình mảnh dẻ; đôi cánh thuôn dài thanh nhã gập lại phía sau vai, còn gương mặt thì mang một biểu hiện xen lẫn giữa vẻ cao ngạo và một mối thương cảm dịu dàng nhưng đầy mãnh liệt, như thể ông sẽ yêu thương tất thảy chỉ khi nào bản tính cho phép ông quên đi những khiếm khuyết của chúng. Nhưng ông không thấy chút khiếm khuyết nào ở Baruch cả, điều đó là rõ ràng. Baruch trông có vẻ trẻ hơn, như Balthamos đã nói, tầm vóc to lớn hơn, đôi cánh của ông đồ sộ và có màu trắng như tuyết. Ông có tính cách đơn giản hơn; cái cách mà ông nhìn Balthamos đầy tôn kính giống như đang nhìn vào cội nguồn của mọi tri thức và niềm vui vậy. Will thấy mình bị lôi cuốn và xúc động trước tình yêu mà hai người dành cho nhau.
“Ông tìm ra được Lyra ở đâu chưa?” Cậu nói, nôn nóng muốn nghe tin.
“Rồi,” Baruch đáp. “Có một thung lũng vùng Himalaya ở trên cao, gần một dòng sông băng nơi ánh sáng bị băng tuyết chuyển hóa thành cầu vồng. Ta sẽ vẽ cho cậu một bản đồ lên nền đất để cậu không nhầm lẫn. Cô bé bị bắt giữ trong một hang động lẩn quất giữa rừng cây, bị người đàn bà giữ cho ngủ không tỉnh dậy được.”
“Ngủ à? Người phụ nữ đó có một mình thôi sao? Không có binh lính nào đi cùng à?”
“Một mình, phải. Đang ẩn trốn.”
“Lyra không bị thương chứ?”
“Không. Chỉ say ngủ, và chìm trong mơ. Để ta cho cậu thấy nơi họ ở.”
Bằng ngón tay nhợt nhạt, Baruch vạch một bản đồ trên nền đất trơ trụi bên đống lửa. Will lấy sổ tay ra và chép lại chính xác. Một dòng sông băng với dạng hình rắn lạ lùng, chảy xuống giữa ba đỉnh núi gần như giống hệt nhau.
“Giờ,” thiên thần nói, “ta sẽ lại gần hơn. Thung lũng có hang động đó trải dài xuống từ mé bên trái của dòng sông băng, và một con sông chứa nước từ băng tan chảy qua nó. Khởi đầu thung lũng là ở đây…”
Ông ta vẽ một bản đồ khác, Will cũng chép lại; rồi thêm cái thứ ba, mỗi lần lại tiến sát hơn, nhờ đó Will cảm thấy rằng cậu có thể tự tìm đường tới đó mà không gặp khó khăn gì - nếu như cậu vượt qua được bốn hay năm nghìn dặm giữa vùng lãnh nguyên và những dãy núi. Con dao rất hữu dụng khi dùng để cắt qua các thế giới, nhưng lại chẳng thể rút ngắn khoảng cách giữa chúng.
“Có một ngôi đền gần sông băng,” Baruch kết thúc bài giải thích, “treo những biểu ngữ đỏ bằng lụa bị gió quật tơi tả. Một cô gái nhỏ mang thức ăn đến hang động. Họ cho rằng người đàn bà kia là một vị thánh sẽ ban phước lành tới nếu họ chăm lo cho những nhu cầu của bà ta.”
“Vậy à,” Will nói. “Mà bà ta đang trốn sao… Đó là điểm tôi không lí giải nổi. Trốn khỏi Giáo hội à?”
“Có vẻ như vậy.”
Will cẩn thận gấp những tấm bản đồ lại rồi cất đi. Cậu đặt chiếc cốc thiếc lên mấy hòn đá bên rìa ngọn lửa để đun nước, và giờ thì cậu đang đổ bột cà phê vào, dùng một cái que để nguấy, rồi bọc bàn tay trong một tấm khăn trước khi cầm cốc lên để uống.
Một que củi cháy tàn sụp xuống trong đống lửa; một con chim ăn đêm rúc lên gọi bầy.
Đột nhiên, chẳng hiểu vì sao Will có thể thấy được, cả hai thiên thần cùng ngước lên và nhìn về một hướng. Cậu dõi theo hướng họ nhìn, nhưng lại chẳng thấy gì. Cậu từng thấy con mèo của mình làm như vậy một lần: Ngẩng lên nhìn đầy cảnh giác trong lúc thiu thiu ngủ, quan sát thứ gì đó hay kẻ nào đó vô hình bước vào phòng và đi băng qua. Lần đó đã khiến lông tóc cậu dựng ngược lên, và lần này cũng vậy.
“Dập lửa đi,” Balthamos thì thào.
Will vục lấy ít đất bằng bàn tay lành lặn rồi tạt lên lửa. Ngay lập tức cơn giá lạnh ập vào tận xương tuỷ, khiến cậu run lên cầm cập. Cậu kéo áo choàng kín người rồi lại nhìn lên.
Giờ thì có thứ gì đó đã hiện hình: Phía trên những đám mây là một hình dạng đang tỏa sáng, và đó không phải là mặt trăng.
Cậu nghe thấy tiếng Baruch lầm bầm: “Cỗ chiến xa à? Có lẽ nào?”
“Đó là gì vậy?” Will thì thào.
Baruch ngả tới gần rồi thì thầm đáp lại: “Họ biết chúng ta ở đây rồi. Họ đã tìm thấy chúng ta. Will, lấy con dao của cậu rồi…”
Trước khi ông ta kịp nói hết câu, có thứ gì đó lao ra khỏi bầu trời và đâm sầm vào Balthamos. Chỉ trong tích tắc, Baruch đã nhảy bổ lên nó, còn Balthamos đang vùng vẫy để giải phóng đôi cánh của mình. Ba sinh thể vật lộn tới lui trong ánh sáng lờ mờ, chẳng khác nào những con ong vò vẽ khổng lồ bị mắc trong một mạng nhện vĩ đại. Họ không tạo ra bất cứ tiếng động nào, tất cả những gì Will có thể nghe thấy được là tiếng cành non gãy rời và tiếng lá lạo xạo khi họ giao đấu.
Cậu không thể sử dụng con dao: Bọn họ đang di chuyển quá nhanh. Thay vào đó, cậu lấy cây đèn pin trong balô ra rồi bật lên.
Không ai trong số họ lường trước được điều đó. Kẻ tấn công giương vội cánh lên, Balthamos vung tay lên che mắt, chỉ có Baruch là đủ bình tĩnh để chống chịu. Nhưng giờ thì Will đã thấy được kẻ thù này là thứ gì: Một thiên thần khác, to lớn hơn và hùng mạnh hơn hai vị kia, bàn tay của Baruch đang bịt chặt trên miệng hắn.
“Will!” Balthamos kêu lên. “Con dao - cắt một đường ra…”
Cũng chính vào lúc đó, kẻ tấn công vùng thoát khỏi vòng tay của Baruch và gào lên:
“Ngài Nhiếp chính! Tôi tóm được chúng rồi!”
Giọng của hắn khiến đầu óc Will long lên, cậu chưa từng nghe thấy một tiếng hét nào như thế. Đáng ra chỉ trong thoáng chốc thiên thần đó đã có thể bay vọt lên không trung, nhưng Will thả cái đèn xuống và lao tới trước. Cậu đã giết một con quỷ vực, nhưng dùng con dao với một sinh vật có hình dạng giống cậu thì khó khăn hơn nhiều. Bất chấp, cậu ôm lấy đôi cánh đồ sộ đang đập loạn xạ rồi chém tới tấp vào đám lông vũ cho tới khi không khí ngập tràn những mẩu lông trắng xoay vòng. Ngay cả khi bộn bề những xúc cảm dữ dội, cậu vẫn nhớ tới lời của Balthamos: Các cậu có da thịt thật sự, còn chúng ta thì không. Con người mạnh hơn thiên thần, và điều đó không hề sai: Cậu đang dồn thiên thần đó xuống mặt đất.
Kẻ tấn công vẫn đang gào thét bằng thứ giọng đinh tai kia: “Ngài Nhiếp chính! Tới chỗ tôi, tới chỗ tôi!”
Will cố nhìn lên trời và thấy mây vần vũ, cuộn xoáy, còn ánh sáng le lói kia - một thứ gì đó rất to lớn - đang dần trở nên chói chang hơn, như thể chính những đám mây đang bừng sáng và chứa chan năng lượng như những tia plasma vậy.
Balthamos hét lên: “Will - tránh ra rồi cắt xuyên qua đi, trước khi ông ta tới…”
Nhưng tên thiên thần còn lại đang quẫy đạp dữ dội, giờ một bên cánh của hắn đã thoát ra còn hắn đang vùng dậy khỏi mặt đất. Will phải cố ghìm chặt xuống nếu không sẽ để hắn thoát mất. Baruch lao tới giúp cậu, liên tục ấn đầu kẻ tấn công xuống.
“Không!” Balthamos lại gào lên. “Không! Không!”
Ông ta bổ nhào vào Will, lắc cánh tay, vai, bàn tay cậu, trong lúc kẻ tấn công cố gắng hét lên nhưng Baruch đã kịp bịt tay lên miệng hắn. Từ phía trên dồn tới một cơn chấn động rung chuyển trời đất, không khác gì một cái máy phát điện khổng lồ. Dù cho âm thanh phát ra trầm đến mức gần như không thể thấy được, nó vẫn đang lay động từng nguyên tử trong không khí và khiến tủy trong xương của Will nảy bật lên.
“Hắn ta đang tới…” Balthamos kêu lên, gần như đang thút thít khóc. Giờ thì một phần nỗi sợ của ông đã tác động tới Will. “Làm ơn, làm ơn đi, Will…”
Will ngước lên nhìn.
Mây đang tẽ dần, và qua khoảng hở đem ngòm, một dáng hình đang phóng xuống rất nhanh: Ban đầu còn nhỏ xíu, nhưng cứ một giây trôi qua, hình hài đó lại tiến đến gần hơn, trở nên to lớn và đường bệ hơn. Hắn đang lao thẳng tới chỗ họ, mang theo một ác tâm không thể nhầm lẫn được; Will chắc chắn rằng mình có thể thấy được cả đôi mắt của hắn.
“Will, cậu phải làm đi,” Baruch khẩn khoản kêu lên.
Will đứng dậy, định bụng nói: “Giữ chặt lấy hắn,” nhưng ngay khi những lời đó chạm tới tâm trí cậu, gã thiên thần lún xuống nền đất, tan ra rồi lan tỏa như sương mù, rồi hắn hoàn toàn biến mất. Will nhìn quanh, cảm thấy ngu ngốc và nôn nao.
“Có phải tôi đã giết hắn không?” Cậu run rẩy nói.
“Cậu buộc phải làm vậy,” Baruch đáp. “Nhưng giờ…”
“Tôi ghét chuyện này,” Will gay gắt nói, “thật sự, thật sự ghét cái sự giết chóc này! Bao giờ nó mới chấm dứt?”
“Chúng ta phải đi thôi,” Balthamos yếu ớt nói. “Nhanh lên, Will - nhanh lên - làm ơn…”
Cả hai đều đang sợ chết khiếp.
Will dùng đầu mũi dao lần tìm trong không khí: Thế giới nào cũng được, miễn là thoát khỏi đây. Cậu cắt thật nhanh rồi nhìn lên: Thiên thần từ trên bầu trời kia chỉ còn cách có vài giây, biểu cảm của hắn thật kinh hãi. Ngay cả từ khoảng cách đó, cả trong giây phút khẩn cấp đó, Will cũng cảm thấy toàn bộ sự tồn tại của mình đang bị rà soát và lùng sục bởi một kẻ tài trí to lớn, hung bạo và nhẫn tâm.
Còn hơn thế nữa, hắn có một cây giáo - hắn đang nâng nó lên, chuẩn bị ném…
Nhưng nhân lúc thiên thần đang bận kiểm tra tầm bay của mình, ngồi thẳng trở lại rồi vung tay về sau để quăng vũ khí, Will theo sau Baruch và Balthamos qua ô cửa sổ rồi đóng nó lại. Khi những ngón tay của cậu ép tấc không khí cuối cùng lại với nhau, cậu cảm thấy không gian rung lên bần bật - nhưng nó đã tan biến, cậu an toàn rồi: Cây giáo hẳn đã cắm xuyên qua người cậu nếu còn ở thế giới bên kia.
Họ đang ở trên một bãi biển đầy cát dưới ánh trăng vằng vặc sáng. Những cái cây giống như dương xỉ khổng lồ mọc sâu vào đất liền; những đụn cát lè tè trải dài hàng dặm quanh bờ biển. Không khí nóng nực và ẩm ướt.
“Đó là ai vậy?” Will hỏi, run rẩy đối mặt với hai thiên thần.
“Đó là Metatron,” Balthamos đáp. “Cậu đáng lẽ phải…”
“Metatron? Ai vậy? Tại sao hắn lại tấn công? Đừng có nói dối tôi đấy.”
“Chúng ta phải kể cho cậu ta,” Baruch nói với người đồng hành của mình. “Đáng ra anh phải làm từ trước rồi.”
“Phải, tôi nên làm vậy,” Balthamos đồng tình, “nhưng tôi đang giận cậu ta, lại lo lắng cho anh nữa.”
“Vậy thì nói cho tôi biết ngay đi,” Will nói. “Nhưng nhớ là có bảo tôi phải làm gì cũng vô tác dụng thôi - tôi không quan tâm đến mấy thứ đó, không hề. Chỉ có Lyra là quan trọng thôi, cả mẹ tôi nữa. Và đó,” cậu nói thêm với Balthamos, “là điểm cốt yếu của toàn bộ cái sự suy xét siêu hình này, như ông đã đặt tên cho nó.”
Baruch nói: “Ta nghĩ chúng ta nên kể lại cho cậu thông tin mà mình biết. Will, đây là lí do hai ta đã đi tìm cậu, và là lí do chúng ta phải đưa cậu đến với Ngài Asriel. chúng ta đã phát hiện ra một bí mật của thiên quốc - thế giới của Đấng Quyền Năng - và chúng ta phải chia sẻ điều đó với ông ấy. Chúng ta ở đây có an toàn không?” Ông nói thêm trong lúc nhìn quanh quất. “Không có đường thông nào chứ?”
“Đây là một thế giới khác. Một vũ trụ tách biệt.”
Thứ cát mà họ đang đứng trên rất mềm, còn sườn dốc của đụn cát gần đó thật mời gọi. Họ có thể phóng tầm mắt ra nhiều dặm dưới ánh trăng; họ hoàn toàn đơn độc.
“Vậy thì kể cho tôi nghe đi,” Will nói. “Kể cho tôi nghe về Metatron, và về điều bí mật đó nữa. Tại sao thiên thần kia lại gọi hắn là Nhiếp chính? Còn Đấng Quyền Năng là gì? Ông ta có phải Thượng Đế không?”
Cậu ngồi xuống. Hai thiên thần cũng ngồi xuống với cậu, hình dạng của họ dưới ánh trăng trở nên rõ ràng hơn bao giờ hết.
Balthamos khẽ khàng nói: “Đấng Quyền Năng, Thượng Đế, Đấng Sáng Tạo, Thiên Chúa, Yahweh, El, Adonai, Đức Vua, Đức Cha, Đấng Tối Cao - tất cả đều là những cái tên ông ta tự đặt cho mình. Ông ta chưa bao giờ là đấng sáng tạo. Ông ta chỉ là một thiên thần giống như chúng ta - thiên thần đầu tiên, phải, kẻ hùng mạnh nhất, nhưng ông ta cũng được tạo thành từ Bụi giống như chúng ta, mà Bụi thì chỉ là một cái tên cho những gì xảy ra khi vật chất bắt đầu hiểu biết về bản thân nó. Vật chất yêu thương vật chất. Nó cố gắng tìm hiểu nhiều hơn về bản thân mình, và rồi Bụi hình thành. Những thiên thần đầu tiên cô đặc lại từ Bụi, và Đấng Quyền Năng ra đời trước tất cả. Ông ta nói với những kẻ tới sau rằng chính ông ta đã tạo ra họ, nhưng đó là một lời dối trá. Một trong những người đến sau lại thông thái hơn ông ta, bà ấy đã tìm ra sự thật và bị ông ta trục xuất. Nhưng chúng ta vẫn phục vụ bà. Còn Đấng Quyền Năng vẫn đang thống trị thiên quốc, với Metatron làm Nhiếp chính.
“Nhưng còn điều đã khám phá ra tại Núi Mây Phủ, chúng ta không thể cho cậu biết điểm mấu chốt của nó. Chúng ta đã thề với nhau rằng người đầu tiên được nghe sẽ là Ngài Asriel.”
“Vậy thì cho tôi biết những gì các ông có thể nói đi. Đừng để tôi mù mờ không biết gì nữa.”
“Chúng ta đã tìm được đường vào Núi Mây Phủ,” Baruch nói, rồi lập tức tiếp thêm: “Thứ lỗi cho ta; chúng ta dùng những từ này thật quá dễ dãi. Đôi khi nó được gọi là Chiến xa. Nó không đứng yên một chỗ, cậu thấy đấy; nó dịch chuyển từ chỗ này sang chỗ khác. Dù nó có đi đâu thì cũng sẽ mang theo trung tâm của thiên quốc, thành quách của ông ta, cung điện của ông ta. Khi Đấng Quyền Năng còn trẻ, nó không bị mây bao bọc, nhưng thời gian trôi qua, ông ta thu thập chúng lại quanh mình ngày càng dày đặc. Đã hàng ngàn năm rồi chưa ai thấy được đỉnh của ngọn núi. Vì vậy hiện nay thành trì của ông ta được biết tới dưới cái tên Núi Mây Phủ.”
“Các ông đã tìm thấy gì ở đó?”
“Bản thân Đấng Quyền Năng ngụ tại một căn buồng ở trung tâm ngọn núi. Chúng ta không thể lại gần, dù cho đã thấy được ông ta. Quyền năng của ông ta…”
“Ông ta đã ủy thác phần lớn quyền năng của mình,” Balthamos chen ngang, “cho Metatron, như ta định nói. Cậu đã thấy hắn trông thế nào rồi đấy. Chúng ta từng trốn thoát khỏi hắn, và giờ thì hắn đã lại phát hiện ra chúng ta, hơn nữa hắn còn thấy cả cậu và con dao. Ta đã nói…”
“Balthamos,” Baruch nhẹ nhàng nói, “đừng trách cứ Will. Chúng ta cần sự giúp đỡ của cậu ấy, chẳng thể nào trách cậu bé vì không biết điều đã khiến chúng ta mất bao nhiêu thời gian mới có thể tìm ra được.”
Balthamos quay mặt đi.
Will nói: “Vậy là các ông không định nói cho tôi biết cái bí mật đó phải không? Được thôi. Thay vào đó thì cho tôi biết điều này: Chuyện gì sẽ xảy ra khi ta chết đi?”
Balthamos quay lại nhìn trong kinh ngạc.
Baruch nói: “À, có một thế giới dành cho người chết. Nó ở đâu, và chuyện gì diễn ra ở đó, chẳng ai biết được. Nhờ có Balthamos, hồn phách của ta chưa từng phải tới đó; ta là thứ đã từng là hồn ma của Baruch. Thế giới của người chết đối với chúng ta chỉ là một màn đen sâu thẳm.”
“Đó là một trại giam,” Balthamos nói. “Đấng Quyền Năng lập nên nó vào thuở sơ khai. Sao cậu lại muốn biết? Rồi cậu sẽ thấy nó thôi.”
“Bố tôi vừa mới mất, đó là lí do. Nếu không bị giết thì ông ấy đã kể với tôi mọi điều mình biết rồi. Các ông nói đó là một thế giới - có phải ý các ông là một thế giới như cái này, một vũ trụ khác không?”
Balthamos nhìn sang Baruch, người đang nhún vai.
“Vậy chuyện gì xảy ra ở thế giới người chết?” Will tiếp tục.
“Cái đó không thể nói được,” Baruch đáp. “Mọi thứ về nó đều là bí mật. Kể cả các Giáo hội cũng không biết; người ta nói với các tín đồ của mình rằng họ sẽ sống trên Thiên đường, nhưng đó là một lời dối trá. Nếu họ thực sự biết…”
“Vậy là hồn phách của bố tôi đã tới đó.”
“Chắc chắn là vậy, và cả hằng hà sa số những người đã chết trước ông ấy nữa.”
Will cảm thấy trí tưởng tượng của mình run lên.
“Mà tại sao các ông không đi thẳng tới chỗ Ngài Asriel với cái bí mật khủng khiếp của mình, dù nó là cái gì đi nữa,” cậu nói, “thay vì tìm kiếm tôi?”
“Chúng ta không dám chắc,” Balthamos nói, “rằng ông ấy sẽ tin tưởng mình, trừ khi chúng ta mang tới cho ông ấy minh chứng cho thành ý của mình. Hai thiên thần cấp thấp, trong số tất cả những uy quyền mà ông ấy đang phải chống chọi lại - sao ông ấy lại phải coi trọng chúng ta chứ? Nhưng nếu chúng ta có thể mang tới con dao và người nắm giữ nó, ông ấy có thể sẽ lắng nghe. Con dao là một thứ vũ khí hùng mạnh, Ngài Asriel cũng sẽ vui mừng nếu có cậu về phe mình.”
“Ồ, tôi rất tiếc,” Will nói, “nhưng điều đó với tôi nghe nhu nhược lắm. Nếu có chút tin tưởng nào vào bí mật của mình, các ông sẽ chẳng cần một lí do bào chữa để gặp Ngài Asriel.”
“Còn một lí do nữa,” Baruch nói. “Chúng ta biết rằng mình sẽ bị Metatron truy đuổi, và muốn đảm bảo rằng con dao không bị rơi vào tay ông ta. Nếu có thể thuyết phục cậu tới gặp Ngài Asriel trước thì ít nhất…”
“Ồ không, chuyện đó sẽ không xảy ra đâu,” Will kêu lên. “Các ông đang khiến việc tìm thấy Lyra khó khăn hơn chứ chẳng dễ dàng đi tẹo nào. Cậu ấy là điều quan trọng nhất, thế mà các ông lại quên bẵng luôn. Tôi thì không. Sao các ông không tới chỗ Ngài Asriel và để cho tôi yên đi? Buộc ông ta phải lắng nghe. Các ông có thể bay đến đó nhanh hơn nhiều so với tôi có thể đi bộ. Mà dù có thế nào tôi cũng sẽ đi tìm Lyra trước. Cứ làm vậy đi. Đi đi. Để mặc tôi.”
“Nhưng cậu cần tôi,” Balthamos nói không khoan nhượng, “vì tôi có th?