← Quay lại trang sách

- 5 - Tòa tháp đá kim cương

Với mục tiêu đầy tham vọng

Chống lại ngôi vị và nền quân chủ của Chúa

Khơi dậy cuộc chiến vô thần trên thiên đường

và chiến trận hùng vĩ.

John Milton

Hồ chứa lưu huỳnh nóng chảy trải rộng suốt chiều dài của một hẻm núi mênh mông, bốc thứ hơi nước nồng nặc mùi theo những đợt bùng lên đột ngột, chặn đường tới chỗ dáng người có cánh đang đứng đơn độc bên bờ của nó.

Nếu y bay lên trời, quân do thám của địch, những kẻ đã phát hiện ra nhưng lại để mất dấu y, sẽ lập tức nhìn thấy ngay; nhưng nếu cứ ở dưới mặt đất, sẽ mất quá nhiều thời gian để vượt qua được cái hố độc hại này, và tin tức của y có thể sẽ đến quá muộn.

Y sẽ phải chọn phần liều lĩnh hơn. Y đợi cho tới khi một đám mây khói hôi thối bùng lên khỏi bề mặt vàng vọt rồi lao lên, ẩn trong lớp khói dày đặc.

Bốn đôi mắt tại những vị trí khác nhau trên bầu trời cùng nhìn thấy khoảnh khắc ngắn ngủi đó, lập tức bốn đôi cánh đồng loạt đập trong thứ không khí ám khói nặng mùi, phóng những kẻ theo dõi về phía đám mây.

Vậy là khởi đầu một cuộc săn lùng nơi kẻ bám đuổi không thể thấy con mồi, còn con mồi thì chẳng nhìn thấy gì cả. Kẻ đầu tiên thoát ra khỏi đám mây ở phía bên kia hồ sẽ chiếm được lợi thế, và điều đó có thể có nghĩa là sống sót, hoặc có thể là hạ sát thành công.

Thật không may cho người bay đơn độc, y thấy được không khí thoáng đãng sau một trong những kẻ bám đuổi vài giây. Ngay lập tức họ nhào vào nhau, kéo theo những dòng hơi nước, cả hai đều bị choáng váng vì thứ hơi khói ghê tởm. Ban đầu con mồi chiếm thế thượng phong, nhưng rồi kẻ săn đuổi còn lại cũng thoát ra khỏi đám mây. Trong trận vật lộn dữ dội và cuồng loạn, cả ba quằn quại trong không khí như những đốm tàn lửa, dâng lên, hạ xuống rồi lại dâng lên, chỉ để cuối cùng lại rơi xuống giữa những tảng đá ở đầu bên kia. Hai kẻ săn đuổi còn lại thì không bao giờ thoát khỏi đám mây.

Tại đầu phía tây của một rặng núi lởm chởm như răng cưa, trên một đỉnh núi nhìn bao quát toàn cảnh cánh đồng phía dưới và các thung lũng phía sau, một pháo đài bằng đá bazan trông như mọc ra từ quả núi, như thể một ngọn núi lửa nào đó đã đẩy nó lên cả triệu năm trước.

Trong những hang động mênh mông nằm dưới những bức tường dựng đứng, đồ dự trữ thuộc đủ mọi thể loại được cất giữ và đánh mác; trong các kho vũ khí và kho đạn dược, những cỗ máy chiến tranh được định cỡ, lên đạn và kiểm tra; trong các xưởng chế tạo dưới chân núi, hỏa lực từ núi lửa nuôi dưỡng các lò rèn khổng lồ nơi phốt pho và titan được nấu chảy rồi kết lại thành các hợp kim chưa từng được biết tới hay được sử dụng trước đó.

Trên mặt lộ ra nhiều nhất của pháo đài, tại một điểm chìm sâu trong bóng tối của một cột trụ, nơi những bức tường hùng vĩ dựng lên gần như thẳng đứng từ các dòng dung nham cổ xưa, là một cánh cổng nhỏ, một lối hậu nơi người lính gác canh giữ ngày đêm, thách thức bất cứ ai tìm cách thâm nhập.

Trong lúc phiên trực đổi ca tại các thành luỹ phía trên, người lính gác giậm chân vài lần rồi đập đôi tay đeo găng của mình lên bắp tay để làm ấm cơ thể, vì lúc này đang là thời khắc lạnh lẽo nhất của buổi đêm, mà ánh đèn dầu nhỏ xíu trong giá đỡ bên cạnh ông thì chẳng tỏa ra chút nhiệt nào. Người thay phiên cho ông sẽ đến sau mười phút nữa, ông mong mỏi được thưởng thức cốc chocolatl nóng hổi, lá thuốc, và trên hết là cái giường êm ái của mình.

Ông không thể ngờ lại có tiếng nện thình thình lên cánh cửa nhỏ vào lúc này.

Tuy nhiên, ông cũng rất cảnh giác nên đã mở lỗ nhòm, cùng lúc đó vặn mở van để dầu chảy qua ngọn đèn chong tại trụ tường phía bên ngoài. Trong ánh sáng rực rỡ nó phả ra, ông thấy ba dáng người đội mũ trùm mang theo giữa họ một người thứ tư có hình dạng mờ ảo khó nhìn, người đó có vẻ đang bị bệnh, hoặc bị thương.

Người đứng đầu kéo mũ trùm ra. Đó là một người mà ông lính gác biết mặt, nhưng ông ta vẫn đọc mật khẩu rồi nói: “Chúng tôi tìm thấy ông ta ở hồ lưu huỳnh. Thấy nói tên là Baruch. Ông ta có tin khẩn cho Ngài Asriel.”

Người lính gác tháo then cài cửa, con linh thú chó sục của ông run lên khi ba bóng người khó nhọc khiêng cái gánh nặng của mình qua lối vào chật hẹp. Con linh thú bất giác hú lên một tiếng khe khẽ rồi lại vội vàng im bặt, khi người lính nhìn thấy rằng bóng hình đang được khiêng là một thiên thần, bị thương: Một thiên thần cấp thấp với quyền năng hạn hẹp, nhưng dù gì vẫn là một thiên thần.

“Đặt ông ta trong phòng canh gác đi,” người lính nói với họ, và trong lúc họ làm vậy, ông quay tay cầm của chuông điện thoại rồi báo cáo chuyện đang xảy ra cho sĩ quan trực.

Trên tầng thành luỹ cao nhất của pháo đài là một ngọn tháp bằng đá kim cương: Chỉ một đợt cầu thang duy nhất dẫn tới tổ hợp phòng có cửa sổ nhìn ra đủ bốn hướng bắc, nam, đông và tây. Căn phòng lớn nhất được trang bị một cái bàn, nhiều ghế và rương đựng bản đồ, phòng kia là một cái giường dã ngoại. Một phòng tắm nhỏ hoàn thiện tổ hợp này.

Ngài Asriel ngồi trong tòa tháp đá kim cương, đối diện với đội trưởng trinh sát của mình qua một đống giấy tờ rải tung tóe. Một chiếc đèn dầu treo lơ lửng phía trên cái bàn, cùng một lò chứa than đang cháy trong cái giá lạnh đến tê tái của buổi đêm. Phía trong cánh cửa, một con diều hâu nhỏ màu lam đang đậu trên thanh rầm.

Vị đội trưởng trinh thám được gọi là Ngài Roke. Vẻ ngoài của ông ta thật ấn tượng: Ông ta cao không quá một gan bàn tay của Ngài Asriel, mảnh dẻ như một con chuồn chuồn, nhưng các đội trưởng khác của Ngài Asriel lại tỏ ra cực kì tôn trọng ông, vì ông có ngòi độc trong những cái cựa ở gót của mình.

Thói quen của ông ta là ngồi lên bàn, còn phong cách là dùng miệng lưỡi hiểm độc và ngạo mạn từ chối mọi thiện chí không đến từ thái độ nhã nhặn nhất. Ông ta và những người Gallivespia đồng bào của mình có rất ít những phẩm chất của một kẻ do thám tài tình, đương nhiên là ngoại trừ kích cỡ nhỏ bé khác thường của mình: Họ kiêu hãnh và dễ giận hờn đến nỗi nếu có cùng kích thước cơ thể như Ngài Asriel, họ sẽ chẳng thể nào giữ nổi sự kín đáo.

“Phải,” ông ta nói, chất giọng trong và đanh, đôi mắt lấp lánh như những giọt mực, “con ông, Ngài Asriel của tôi ạ: Tôi biết về cô bé. Rõ ràng là tôi biết nhiều hơn ông.”

Ngài Asriel nhìn thẳng vào ông ta, và người đàn ông tí hon lập tức nhận ra rằng mình đã lợi dụng thái độ lịch sự của vị chỉ huy: Áp lực từ cú lườm của Ngài Asriel dộng vào ông ta như một cái búng tay, khiến ông mất thăng bằng và phải đưa tay ra chống lên cốc rượu của Ngài Asriel. Một lúc sau, nét mặt của Ngài Asriel trở nên ôn hòa và đức độ hơn, giống như nét mặt mà con gái ông có thể thể hiện, từ đó trở đi Ngài Roke đã phải thận trọng hơn.

“Không có gì phải nghi ngờ cả, Ngài Roke ạ,” Ngài Asriel nói. “Nhưng vì những lí do mà ta không hiểu nổi, con bé lại là tâm điểm chú ý của Giáo hội, và ta cần phải biết vì sao. Người ta đang nói gì về nó?”

“Nội bộ Huấn Quyền đang nhan nhản đủ lời suy đoán; một nhánh thì nói điều này, nhánh khác lại điều tra thứ khác, mỗi bên đều đang cố gắng giữ bí mật về những phát hiện của mình. Hai nhánh tích cực nhất là Tòa án Công giáo Kỉ luật và Đoàn Hoạt động của Chúa Thánh Linh, và,” Ngài Roke nói, “tôi có mật thám ở cả hai bên.”

“Vậy có phải ông đã cải biến một thành viên của Đoàn không?” Ngài Asriel hỏi. “Xin chúc mừng ông. Họ vốn vững vàng đến mức không gì lay chuyển nổi.”

“Mật thám của tôi trong Đoàn là Công nương Salmakia,” Ngài Roke đáp, “một đặc vụ lão luyện. Bà ấy đã tiếp cận con linh thú chuột của một linh mục trong lúc họ đang say ngủ. Đặc vụ của tôi giả thuyết rằng người đàn ông đó đã thực hành một nghi lễ bị cấm với ý đồ gợi lên sự hiện diện của Thông Tuệ. Đúng vào lúc cấp thiết đó, Công nương Salmakia xuất hiện trước mặt hắn. Bây giờ tên linh mục cứ nghĩ rằng hắn có thể giao tiếp với Thông Tuệ bất cứ khi nào mình muốn, rằng bà ta có dạng một người Gallivespia và sống trong tủ sách của hắn.”

Ngài Asriel mỉm cười và nói: “Vậy bà ấy đã tìm hiểu được gì?”

“Đoàn cho rằng con gái của ông là đứa trẻ quan trọng nhất từng xuất hiện. Họ nghĩ rằng không lâu nữa một biến động lớn sẽ xảy đến, và rằng số phận của vạn vật sẽ tuỳ thuộc vào việc con bé ứng xử như thế nào vào thời điểm đó. Còn về Tòa án Công giáo Kỉ luật, hiện tại họ đang tiến hành điều tra, cùng với các nhân chứng từ Bolvangar và những nơi khác. Hiệp sĩ Tialys, mật thám của tôi ở Tòa án đang liên lạc với tôi hằng ngày bằng máy cộng hưởng đá nam châm, ông ta cũng thông báo cho tôi những gì họ khám phá được. Tóm lại, tôi muốn nói rằng Đoàn Hoạt động của Chúa Thánh Linh chẳng mấy chốc sẽ tìm ra vị trí của đứa trẻ, nhưng họ sẽ không làm gì cả. Sẽ mất thêm chút ít thời gian cho Tòa án Công giáo, nhưng khi tìm ra, họ sẽ hành động quyết đoán và ngay lập tức.”

“Hãy cho tôi biết ngay khi ông nghe ngóng được thêm.”

Ngài Roke cúi chào rồi búng ngón tay, lập tức con diều hâu nhỏ màu lam đang đậu trên thanh rầm bên cạnh cửa sải cánh rồi lượn về phía bàn. Trên người nó có dây cương, yên, và bàn đạp để cưỡi. Trong thoáng chốc, Ngài Roke đã nhảy vọt lên lưng nó, rồi cả hai bay ra khỏi ô cửa sổ mà Ngài Asriel đang giữ mở.

Ông để mở cửa thêm một lúc bất chấp không khí giá buốt ùa vào, rồi tựa lên ghế ngồi bên cửa sổ, vân vê đôi tai của con linh thú báo tuyết.

“Con bé đến gặp ta ở Svalbard và ta đã chẳng bận tâm đến nó,” ông nói. “Ngươi nhớ cú choáng váng đó đấy… Ta cần một vật hi sinh, mà đứa trẻ đầu tiên đến lại là con gái của chính mình… Nhưng khi nhận ra có một đứa trẻ khác đi cùng con bé, có nghĩa là nó an toàn, ta thấy nhẹ nhõm hẳn. Đó liệu có phải là một sai lầm tai hại không? Sau đó ta không nghĩ đến nó nữa, không một chút nào, thế mà nó lại là nhân vật quan trọng, Stelmaria ạ!”

“Thử nghĩ cụ thể xem nào,” con linh thú đáp. “Nó có thể làm gì?”

“Làm à - không nhiều. Nó biết điều gì chăng?”

“Nó có thể đọc Chân Kế; nó có thể tiếp cận tri thức.”

“Cái đó thì có gì đặc biệt đâu. Những người khác cũng có mà. Mà nó đang ở chỗ quái quỷ nào được nhỉ?”

Có tiếng gõ cửa vang lên phía sau, khiến ông lập tức quay lại.

“Thưa ngài,” người sĩ quan vừa bước vào lên tiếng, “một thiên thần vừa tới cổng phía tây - bị thương - ông ta nhất quyết đòi nói chuyện với ngài.”

Và ngay phút sau, Baruch đã nằm trên chiếc giường cắm trại được mang tới phòng chính. Một hộ lí chữa bệnh đã được gọi tới, nhưng rõ ràng là hi vọng cho vị thiên thần rất mỏng manh: Ông ta bị thương rất nghiêm trọng, cánh nát tả tơi còn đôi mắt đã mờ đục.

Ngài Asriel ngồi lại gần rồi ném một nắm thảo dược lên đống than trong lò. Giống như Will đã phát hiện ra công dụng của khói từ đống lửa của mình, nó giúp định hình cơ thể thiên thần nên ông có thể nhìn thấy rõ hơn.

“Vậy,” ông nói, “ông tới tìm tôi để nói chuyện gì vậy?”

“Ba việc. Làm ơn hãy để tôi nói hết trước khi ông lên tiếng. Tên tôi là Baruch. Người đồng hành Balthamos và tôi thuộc phe chống đối, vì vậy ngọn cờ kêu gọi của ông đã thu hút chúng tôi ngay khi nó được giương lên. Nhưng chúng tôi muốn mang tới cho ông một thứ đáng giá, vì uy lực của chúng tôi rất nhỏ bé, và cách đây không lâu chúng tôi đã tìm được đường vào trung tâm của Núi Mây Phủ, thành trì của Đấng Quyền Năng trên thiên quốc. Tại đó chúng tôi biết được…”

Thiên thần phải ngừng lại một lúc để thở trong đám khói từ chỗ thảo dược, việc đó dường như cũng khiến ông bình tĩnh hơn. Ông nói tiếp:

“Chúng tôi biết được sự thật về Đấng Quyền Năng. Chúng tôi biết rằng ông ta đã lui về một căn phòng bằng pha lê ở tít sâu phía trong Núi Mây Phủ, và rằng ông ta không còn lo những công việc thường nhật của thiên quốc nữa. Thay vào đó ông ta lại suy tính những bí ẩn thâm sâu hơn. Kẻ trị vì thay cho ông ta là một thiên thần có tên Metatron. Tôi có lí do để biết rõ thiên thần đó, dù rằng khi tôi biết hắn…”

Giọng Baruch lịm đi. Đôi mắt Ngài Asriel đang rực cháy, nhưng ông cố giữ miệng để chờ Baruch nói tiếp.

“Metatron rất kiêu hãnh,” Baruch nói tiếp sau khi đã lấy lại được chút sức lực, “tham vọng của ông ta là vô tận. Bốn nghìn năm trước, Đấng Quyền Năng chọn hắn làm Nhiếp chính của mình, và họ đã cùng nhau lên kế hoạch. Kế hoạch mới của họ chính là điều tôi và người bạn đồng hành đã khám phá ra. Đấng Quyền Năng cho rằng những sinh vật có ý thức thuộc mọi giống loài đều đã trở nên độc lập một cách nguy hiểm, vì vậy Metatron sẽ tích cực can thiệp nhiều hơn vào các vấn đề của con người. Hắn tính bí mật đưa Đấng Quyền Năng ra khỏi Núi Mây Phủ, tới một thành trì vĩnh cửu ở nơi khác, rồi biến ngọn núi thành một cỗ máy chiến tranh. Hắn cho rằng Giáo hội ở mọi thế giới đều đã thối nát và suy yếu, họ đang quá sẵn lòng muốn thỏa hiệp… Hắn muốn thành lập một ban thẩm tra thường trực ở tất cả các thế giới, được điều hành trực tiếp từ thiên quốc. Và chiến dịch đầu tiên của hắn sẽ là hủy diệt nền cộng hòa của ông…”

Cả hai đều đang run lên, cả thiên thần và người đàn ông, nhưng một người là do sức khỏe suy yếu, còn người kia lại là phấn khích.

Baruch dồn hết sức lực còn sót lại rồi nói tiếp:

“Đây là điều thứ hai. Có một con dao có thể cắt ra lối thông giữa các thế giới, cũng như mọi thứ trong đó. Quyền năng của nó là vô hạn, nhưng chỉ khi nằm trong tay của người biết cách sử dụng. Và người đó là một cậu bé…”

Một lần nữa, thiên thần lại phải ngừng lại để hồi sức. Ông đang hoảng sợ; ông cảm nhận được rằng mình đang lịm dần đi. Ngài Asriel có thể thấy thiên thần đang nỗ lực đến mức nào để giữ tỉnh táo, ông ngồi căng thẳng, ghì chặt lấy tay vịn của ghế cho tới khi Baruch có sức để nói tiếp.

“Bây giờ bạn đồng hành của tôi đang ở cùng với cậu bé. Chúng tôi muốn đưa nó tới thẳng chỗ ông, nhưng nó từ chối, vì… Đây là điều thứ ba tôi phải nói với ông: Cậu bé và con gái ông là bạn. Nó không đồng ý đến gặp ông cho tới khi tìm ra cô bé. Cô bé đang…”

“Cậu bé đó là ai?”

“Nó là con trai của vị pháp sư. Stanislaus Grumman.”

Ngài Asriel sửng sốt đến nỗi bất giác đứng bật dậy, khiến khói cuộn xoáy quanh người thiên thần.

“Grumman có con trai sao?” Ông kêu lên.

“Grumman không sinh ra tại thế giới của ông. Mà tên thật của ông ta cũng không phải Grumman. Tôi và bạn đồng hành của mình bị mong muốn tìm thấy con dao của ông ta thu hút. Chúng tôi đã bám theo ông ta, biết rằng ông ta sẽ dẫn mình tới chỗ con dao và người nắm giữ nó, với dự định đưa người nắm giữ đến với ông. Nhưng cậu bé từ chối…”

Lại một lần nữa Baruch phải ngừng lại. Ngài Asriel lại ngồi xuống, tự nguyền rủa sự nôn nóng của mình, rồi rải thêm chút thảo dược lên đống lửa. Linh thú của ông nằm bên cạnh, đuôi chậm rãi quét ngang mặt sàn bằng gỗ sồi, đôi mắt vàng lấp lánh của nó chưa từng rời khỏi gương mặt hằn sâu nỗi đau đớn của thiên thần. Baruch chầm chậm hít lấy vài hơi, còn Ngài Asriel thì cố gắng giữ im lặng. Tiếng dây thừng đập bồm bộp trên cột cờ phía cao là âm thanh duy nhất.

“Xin ông cứ từ tốn,” Ngài Asriel ân cần nói. “Ông có biết con gái của tôi ở đâu không?”

“Himalaya… ở thế giới của cô bé,” Baruch thì thào. “Những ngọn núi hùng vĩ. Một hang động gần một thung lũng tràn ngập cầu vồng…”

“Quả là một quãng đường dài trong cả hai thế giới. Ông bay nhanh thật.”

“Đó là món quà duy nhất mà tôi có,” Baruch nói, “nếu không tính tới tình yêu của Balthamos, người mà tôi sẽ không bao giờ gặp lại nữa.”

“Nếu ông tìm thấy con bé dễ dàng đến vậy…”

“Thì bất cứ thiên thần nào khác cũng có thể làm được.”

Ngài Asriel vớ lấy một tập bản đồ thế giới khổng lồ từ rương đựng bản đồ rồi mở nó ra đánh xoạch một cái, tìm kiếm những trang vẽ núi Himalaya.

“Ông có thể nói rõ được không?” Ông nói. “Ông có thể chỉ cho tôi vị trí chính xác không?”

“Với con dao…” Baruch cố gắng cất tiếng nói, và Ngài Asriel nhận ra rằng ông ta đã đang mê sảng: “Với con dao, cậu bé có thể ra vào bất cứ thế giới nào mình muốn… Will là tên của cậu bé. Nhưng họ đang gặp nguy hiểm, nó và Balthamos… Metatron biết chúng tôi đang nắm giữ bí mật của hắn. Chúng bám đuổi chúng tôi… Chúng bắt được tôi một mình ở ranh giới với thế giới của ông… Tôi là em trai hắn… Đó là cách chúng tôi tìm được đường tới chỗ hắn trong Núi Mây Phủ. Metatron đã từng là Enoch, con trai của Jared, con trai của Mahalalel… Enoch có rất nhiều vợ. Hắn là người ham mê xác thịt… Người anh Enoch đã đuổi tôi đi, vì tôi… Ôi, Balthamos yêu dấu của ta…”

“Đứa con gái đang ở đâu?”

“Phải. Phải. Một hang động… mẹ của cô bé… thung lũng ngập tràn gió và cầu vồng…. những ngọn cờ tả tơi trên ngôi đền…”

Thiên thần rướn người lên để nhìn tấm bản đồ.

Đúng lúc đó con linh thú báo tuyết đứng vụt dậy rồi lao ra phía cửa ra vào, nhưng đã quá muộn: Người hộ lí vừa gõ cửa đã không buồn chờ mà mở ngay cửa ra. Đó là cách mọi việc diễn ra ở đây; chẳng phải lỗi của ai cả; nhưng khi thấy biểu hiện trên gương mặt của người lính khi ông ta nhìn qua phía ông, Ngài Asriel liền quay lại và thấy Baruch đang run rẩy, gồng người cố gắng giữ vững hình dạng đầy thương tích của mình. Nỗ lực đó đã là quá sức. Gió lùa từ cánh cửa mở đã đẩy một luồng không khí cuộn xoáy ngang qua giường, khiến những hạt cấu tạo nên hình dạng của thiên thần, vốn đã đang dần rời ra do sức lực suy kiệt của ông, bay lên thành một vòng xoáy hỗn độn, rồi cứ thế tan biến.

“Balthamos!” Một tiếng thì thầm trong không khí văng vẳng vọng lại.

Ngài Asriel đặt tay lên cổ con linh thú; nó cảm thấy ông đang run rẩy nên bèn an ủi ông. Ông quay về phía người hộ lí.

“Thưa ngài, xin ngài…”

“Không phải lỗi của ông. Gửi lời khen của ta đến Quốc vương Ogunwe. Ta sẽ rất mừng nếu ông ấy và các chỉ huy khác của ta có thể đến đây ngay lập tức. Ta cũng muốn ông Basilides tham dự, cùng với Chân Kế. Cuối cùng, ta muốn Hạm đội Xa thăng[2] được vũ trang và cung cấp nhiên liệu, đồng thời lập tức khởi hành một chiếc zeppelin chở dầu hướng về phía tây nam. Ta sẽ gửi thêm các mệnh lệnh khác khi bay.”

Người hộ lí cúi chào, rồi bằng một cái liếc nhìn thật nhanh, đầy bứt rứt về phía chiếc giường trống không, ông bước ra và đóng cửa lại.

Ngài Asriel gõ gõ lên bàn bằng chiếc compa đồng, rồi băng qua phòng để mở cửa sổ hướng nam. Phía sâu bên dưới, những đám lửa cháy không ngừng nghỉ phả ánh sáng và khói bốc từ nó vào bầu không khí tối sầm. Ngay cả khi ở trên cao đến vậy, tiếng búa nện vẫn có thể được nghe thấy trong tiếng gió quất.

“Nói chung chúng ta cũng đã biết được nhiều điều rồi nhỉ, Stelmaria,” ông khẽ nói.

“Nhưng không đủ.”

Một tiếng gõ cửa nữa vang lên, rồi Chân Kế gia bước vào. Đó là một người đàn ông gầy gò, da tái nhợt, đang ở tầm đầu trung tuần; tên ông ta là Teukros Basilides, linh thú của ông là một con chim sơn ca.

“Ông Basilides, chào ông,” Ngài Asriel nói. “Đây là vấn đề của chúng ta, vì vậy ta muốn ông gạt mọi thứ khác sang bên trong lúc lo liệu việc này…”

Ông thuật lại với người đàn ông về điều mà Baruch đã nói, rồi cho ông ta xem tập bản đồ.

“Xác định rõ vị trí hang động đó,” ông nói. “Cho ta tọa độ chính xác nhất mà ông có thể tìm được. Đây là nhiệm vụ quan trọng nhất mà ông từng thực hiện. Nếu được, nhờ ông làm ngay lập tức.”

*

giậm chân mạnh đến mức đến cả trong giấc mơ cô cũng thấy đau. “Cậu đâu có tin là tớ sẽ làm thế, Roger, nên đừng có nói thế. Tớ sẽ tỉnh dậy và sẽ không quên, vậy đấy.”

Cô nhìn quanh, nhưng tất cả những gì cô có thể thấy là những đôi mắt mở thô lố và những gương mặt tuyệt vọng, những gương mặt nhợt nhạt, tối sầm, cả trẻ lẫn già, tất cả những kẻ đã chết đang dồn đống lại thật sát, im lặng và sầu não.

Gương mặt Roger thì lại khác. Đó là biểu cảm duy nhất chứa đựng hi vọng.

Cô bé nói: “Tại sao trông cậu lại như thế? Sao cậu không tỏ ra khổ sở như họ? Sao cậu không thấy tuyệt vọng?”

Cậu bé liền đáp: “Bởi vì