- 6 - Xá tội trước
Di vật, tràng hạt,
Đặc xá, ban phước, xá tội, sắc lệnh,
Cuộc chơi của những cơn gió
John Milton
“Giờ, Đan sĩ Pavel,” Thẩm tra viên của Tòa án Công giáo Kỉ luật nói: “Ta muốn ông nhớ lại chính xác, nếu có thể, những lời ông đã nghe ả phù thủy nói trên tàu.”
Qua ánh sáng mờ ảo của buổi chiều tà, mười hai thành viên của Tòa án nhìn vị linh mục đứng trên bục làm chứng, nhân chứng cuối cùng của họ. Ông ta là vị tu sĩ có dáng dấp của một học giả, người có linh thú mang dạng một con ếch. Tòa án đã lắng nghe chứng cứ về trường hợp này suốt tám ngày liền, trên tòa tháp cao tại Học viện Thánh Jerome cổ kính.
“Tôi không thể nhớ lại chính xác từng lời của phù thủy,” Đan sĩ Pavel mệt mỏi nói. “Tôi chưa từng bao giờ thấy cảnh tra tấn, như đã khai tại tòa vào ngày hôm qua, và việc đó khiến tôi cảm thấy choáng váng và nôn nao. Vì vậy chính xác cô ta đã nói gì thì tôi không thể thuật lại, nhưng tôi nhớ ý nghĩa lời nói đó. Phù thủy nói rằng các tộc phía bắc đã nhận ra đứa trẻ Lyra là chủ thể của lời tiên tri mà họ đã biết từ lâu. Số phận của nó là nắm giữ quyền năng tạo ra lựa chọn mang tính quyết định, tương lai của tất cả mọi thế giới đều phụ thuộc vào đó. Hơn nữa, có một cái tên dẫn tới một trường hợp tương tự, một cái tên sẽ khiến Giáo hội căm ghét và sợ hãi cô bé.”
“Phù thủy đó đã tiết lộ về cái tên chưa?”
“Chưa. Trước khi có thể nói ra, một phù thủy khác dùng thần chú vô hình đã kịp giết cô ta rồi trốn thoát.”
“Nếu là vậy, người đàn bà tên Coulter hẳn chưa nghe nói tới cái tên?”
“Đúng thế.”
“Và Phu nhân Coulter đã bỏ đi ngay sau đó?”
“Chính vậy.”
“Ông đã khám phá ra điều gì sau đó?”
“Tôi biết được rằng đứa trẻ đó đã đi vào một thế giới khác thông qua khe nứt mà Ngài Asriel tạo ra, và rằng nó đã có được sự giúp đỡ của một cậu bé, người sở hữu, hoặc có quyền sử dụng, một con dao chứa đựng những năng lực phi thường,” Đan sĩ Pavel trả lời. Rồi ông ta hắng giọng đầy căng thẳng và nói tiếp: “Tôi có thể hoàn toàn được tự do phát biểu tại phiên tòa này chứ?”
“Tự do tuyệt đối, Đan sĩ Pavel ạ,” giọng nói lanh lảnh, chói tai của vị Chủ tịch vang lên. “Ông sẽ không bị trừng phạt vì kể cho chúng tôi những điều bản thân ông được nghe lại. Xin hãy tiếp tục.”
Được trấn an, ông linh mục nói tiếp:
“Con dao thuộc quyền sở hữu của cậu bé này có thể tạo ra lối thông giữa các thế giới. Ngoài ra, nó còn mang một năng lực vĩ đại hơn thế nữa - xin ngài, tôi xin nhắc lại, tôi rất lo ngại cho điều mình sắp nói… Nó có khả năng hạ sát những thiên thần thượng đẳng nhất, và cả nhân vật đứng trên họ nữa. Không có gì con dao này không thể phá hủy.”
Ông ta đang đổ mồ hôi đầm đìa và run rẩy, con linh thú ếch của ông rơi khỏi mép bục làm chứng xuống sàn trong cơn kích động. Đan sĩ Pavel thở hắt ra vì đau đớn rồi vội bồng nó lên, cho nó uống nước trong chiếc cốc đặt trước mặt mình.
“Ông có hỏi kĩ thêm về cô bé không?” Thẩm tra viên hỏi. “Ông đã tìm ra cái tên mà phù thủy nhắc đến chưa?”
“Tôi đã tìm được rồi. Một lần nữa, tôi khẩn cầu sự đảm bảo của tòa rằng…”
“Ta đảm bảo,” Chủ tịch ngắt lời. “Đừng sợ. Ông không phải dân dị giáo. Hãy báo cáo lại những gì mình biết, đừng để phí thời gian nữa.”
“Ngàn lần xin ngài thứ lỗi. Vậy thì, đứa trẻ mang vị trí của Eve, vợ của Adam, người mẹ của tất cả chúng ta, nguyên căn của mọi tội lỗi.”
Những người tốc kí ghi chép lại mọi lời nói là các sơ thuộc dòng tu Thánh Philomel, thề sẽ giữ im lặng; nhưng trước những lời của Đan sĩ Pavel, một tiếng thở hắt bị kìm nén phát ra từ một trong số họ, và những bàn tay náo loạn đưa lên khi họ làm dấu thánh giá trên người. Đan sĩ Pavel giật thót mình, rồi nói tiếp:
“Xin hãy nhớ rằng, Chân Kế không dự báo tương lai; nó nói: ‘Nếu những việc này xảy ra thì hậu quả sẽ là…’ vân vân. Nó nói rằng nếu việc xảy đến là đứa trẻ bị cám dỗ, giống như Eve, thì có khả năng là nó sẽ sa ngã. Hậu quả xảy ra sẽ gây ảnh hưởng đến mọi thứ. Nếu sự cám dỗ này xảy ra, và nếu đứa trẻ chịu thua nó, Bụi và tội lỗi sẽ chiến thắng.”
Cả phòng xét xử chìm vào im lặng. Qua những ô cửa sổ kính màu ghép lớn, ánh nắng vàng vọt chứa đựng trong những tia sáng chiếu xiên của nó ngàn vạn hạt vàng lấp lánh, nhưng đó là bụi, chứ không phải Bụi; dù cho có nhiều hơn một thành viên trong hội đồng xét xử lại thấy trong chúng hình ảnh của thứ Bụi vô hình đang bám lên mọi con người, dẫu họ có tuân thủ luật pháp một cách chỉn chu đến đâu.
“Cuối cùng, Đan sĩ Pavel,” Thẩm tra viên nói, “hãy nói cho chúng tôi ông biết những gì về nơi ở của đứa trẻ hiện nay.”
“Nó đang nằm trong tay Phu nhân Coulter,” Đan sĩ Pavel đáp. “Họ đang ở Himalaya. Hiện tại thì đó là tất cả những gì tôi có thể nói. Tôi sẽ lập tức đi hỏi vị trí cụ thể hơn, và ngay khi có được thông tin, tôi sẽ báo lại với toà; nhưng…”
Ông ngừng bặt lại, người co quắp vì sợ sệt, bàn tay run rẩy nâng cốc nước lên môi.
“Sao hả, Đan sĩ Pavel?” Cha MacPhail lên tiếng. “Đừng giấu giếm gì cả.”
“Tôi tin rằng, thưa Cha Chủ tịch, Đoàn Hoạt động của chúa Thánh Linh biết về việc này rõ hơn là tôi.”
Giọng của Đan sĩ Pavel yếu ớt đến mức nó gần như chỉ là một tiếng thì thào.
“Vậy sao?” Viên Chủ tịch nói, đôi mắt ông dường như lóe lên vì giận dữ.
Con linh thú của Đan sĩ Pavel khẽ rên lên một tiếng ếch kêu. Vị linh mục biết về sự ganh đua giữa những nhánh khác nhau của Huấn Quyền, và hiểu rằng sẽ rất nguy hiểm nếu bị kẹt giữa hai làn đạn công kích; nhưng việc giấu giếm những gì mình biết sẽ còn nguy hiểm hơn.
“Tôi tin rằng,” ông nói tiếp trong cơn run lẩy bẩy, “họ đang tiến gần hơn nhiều đến việc tìm ra vị trí chính xác của đứa bé. Họ có những nguồn thông tin khác mà tôi không được phép biết tới.”
“Đúng vậy,” Thẩm tra viên nói. “Vậy Chân Kế nói với ông về điều này à?”
“Vâng.”
“Được rồi. Đan sĩ Pavel, ông sẽ làm tốt việc tiếp tục hướng điều tra đó. Bất cứ điều gì cần trợ giúp trong công việc của linh mục hay quốc vụ khanh, ông đều được toàn quyền ra lệnh. Xin hãy lui xuống.”
Đan sĩ Pavel cúi chào, cùng với con linh thú ếch trên vai, ông thu thập giấy tờ rồi rời khỏi phòng xét xử. Các sơ khum những ngón tay của mình lại.
Cha MacPhail gõ bút chì lên chiếc trường kỉ bằng gỗ sồi đặt trước mặt.
“Sơ Agnes, Sơ Monica,” ông nói, “hai sơ có thể đi được rồi. Hãy để bản ghi chép lên bàn làm việc của ta vào cuối ngày.”
Hai bà sơ cúi đầu chào rồi rời đi.
“Các quý ngài,” vị Chủ tịch nói, vì đó là cách xưng hô trong Tòa án Công giáo, “hãy ngừng buổi họp ở đây.”
Mười hai thành viên, từ người lớn tuổi nhất (Cha Makepwe già cỗi, mắt đã nhoà) tới người trẻ nhất (Cha Gomez nhợt nhạt, run rẩy vì cuồng tín), thu thập giấy tờ rồi đi theo vị Chủ tịch tới phòng hội đồng, nơi họ có thể đối mặt với nhau qua một chiếc bàn và trao đổi cực kì riêng tư.
Vị Chủ tịch đương nhiệm của Tòa án Công giáo là một người Scot có tên Hugh MacPhail. Ông ta trúng cử từ khi còn rất trẻ: Chủ tịch sẽ làm việc cả đời, mà ông mới chỉ ngoài tứ tuần, nên người ta mong đợi rằng Cha MacPhail sẽ định hình số phận của Tòa án Công giáo, từ đó tiến tới toàn thể Giáo hội, trong nhiều năm sắp tới. Đó là một người đàn ông có nét mặt u tối, cao lớn bệ vệ, với mái tóc bạc xám cứng quèo và lộn xộn, ông hẳn đã phát phì nếu không nhờ kỉ luật hà khắc tự áp đặt lên bản thân: Ông chỉ uống nước, ăn duy nhất bánh mì và hoa quả, mỗi ngày đều tập thể dục một tiếng dưới sự giám sát của một huấn luyện viên cho các tuyển thủ vô địch. Kết quả là ông ta gầy hốc hác, nhăn nheo và luôn tỏ ra bồn chồn không yên. Linh thú của ông ta là một con thằn lằn.
Khi tất cả đã yên vị, Cha MacPhail cất tiếng:
“Vậy thì đây là tình trạng hiện nay. Xem ra có vài điểm chúng ta cần lưu ý.”
“Đầu tiên là về Ngài Asriel. Một phù thủy thân thiết với Giáo hội báo cáo rằng ông ta đang tập hợp một đội quân khổng lồ, bao gồm cả các lực lượng có thể là thiên thần. Theo như phù thủy đó biết, ông ta có dã tâm với Giáo hội, và cả với Đấng Quyền Năng nữa.
“Thứ hai, Ủy Ban Hiến tế. Chúng đang thiết lập chương trình nghiên cứu tại Bolvangar, và bằng việc cấp vốn cho các hoạt động của Phu nhân Coulter, có khả năng là chúng đang hi vọng sẽ thay thế Tòa án Công giáo Kỉ luật để trở thành cánh tay đắc lực và hiệu quả của Nhà thờ Thánh, chúng ta đã bị vượt mặt rồi, các quý ngài ạ. Chúng đang hành động một cách nhẫn tâm và khéo léo. Chúng ta đáng bị trừng phạt vì đã sao nhãng để cho chuyện đó xảy ra. Một lúc nữa ta sẽ quay lại nói đến việc chúng ta có thể xử lí việc này như thế nào.
“Thứ ba, thằng bé trong lời khai của Đan sĩ Pavel, với con dao có thể làm những việc phi thường. Rõ ràng là chúng ta phải tìm nó và chiếm được con dao càng sớm càng tốt.
“Thứ tư, Bụi. Ta đã tiến hành những bước để tìm hiểu xem Ủy ban Hiến tế đã khám phá được gì về nó. Một trong những nhà thần học thực nghiệm làm việc tại Bolvangar đã bị thuyết phục phải nói với chúng ta chính xác họ đã phát hiện được gì. Chiều nay ta sẽ nói chuyện với ông ta ở tầng dưới.”
Một hoặc hai linh mục ngó ngoáy người một cách lo lắng, vì “tầng dưới” ám chỉ những căn hầm bên dưới tòa nhà: Những căn phòng lát gạch trắng có gắn các điểm cho dòng mạch, cách âm và thoát nước tốt.
“Dù sao thì, dù có tìm hiểu được gì về Bụi,” Chủ tịch nói tiếp, “chúng ta vẫn phải luôn luôn lưu tâm đến mục đích của mình. Ủy ban Hiến tế muốn lí giải những ảnh hưởng của Bụi: Chúng ta phải triệt tiêu nó hoàn toàn. Không được kém hơn. Nếu để triệt tiêu Bụi mà phải hủy diệt cả Ủy ban Hiến tế, Học viện Giám mục, mọi cơ quan mà Nhà thờ Thánh dùng để thực thi công việc của Đấng Quyền Năng - chúng ta vẫn sẽ làm. Rất có thể, các quý ngài ạ, rằng chính Nhà thờ Thánh được thiết lập nên để thực hiện nhiệm vụ này và để bị tiêu diệt khi đang thực hiện nó. Nhưng thà là một thế giới không có nhà thờ, không có Bụi, còn hơn một thế giới mà ngày nào chúng ta cũng phải vật lộn dưới gánh nặng ghê tởm của tội lỗi. Tốt hơn hết là một thế giới đã được thanh lọc tất cả những thứ đó!”
Cha Gomez mắt sáng rực nhiệt tình gật đầu.
“Và cuối cùng,” Cha MacPhail nói, “đứa trẻ. Vẫn chỉ là một đứa trẻ, ta cho là vậy. Nhân vật Eve này là kẻ sẽ bị cám dỗ, và nếu bị tiền lệ dẫn lối, sẽ sa ngã, đó cũng là kẻ mà khi sa ngã sẽ lôi theo tất cả chúng ta vào cảnh điêu tàn. Các quý ngài, trong tất cả những cách thức để đối phó với vấn đề mà con bé gây ra cho chúng ta, tôi sẽ đề xuất phương cách căn bản nhất, và tôi tự tin sẽ được sự đồng thuận của quý vị.
“Tôi đề nghị cử một người đi tìm và giết nó trước khi nó có thể bị cám dỗ.”
“Cha Chủ tịch,” Cha Gomez lập tức lên tiếng, “kể từ khi trưởng thành, ngày nào tôi cũng thực hành sám hối trước khi gây tội. Tôi đã nghiên cứu, tôi đã rèn luyện…”
Vị Chủ tịch giơ tay lên. Sám hối và xá tội trước là những học thuyết được nghiên cứu và phát triển bởi Tòa án Công giáo, nhưng không được biết đến rộng rãi trong Giáo hội. Chúng bao gồm việc ăn năn hối cải vì một tội lỗi chưa được thực hiện, sự ăn năn mạnh mẽ và nhiệt thành đi kèm với hình phạt bằng roi, để tích dần công trạng dự trữ. Khi sự sám hối đạt tới mức thích hợp cho một tội lỗi cụ thể, người sám hối sẽ được xá tội trước, dù cho anh ta có thể sẽ chẳng bao giờ bị buộc phải phạm vào tội lỗi đó cả. Ví dụ như thỉnh thoảng việc giết người cũng là cần thiết, và sẽ đỡ phiền phức hơn rất nhiều cho sát thủ nếu hắn có thể cứ đường đường chính chính mà làm.
“Ta nhớ ông rồi,” cha MacPhail ôn tồn nói. “Ta có được sự đồng thuận của Tòa chứ? Có. Khi Cha Gomez đi, cùng với sự chúc phúc của chúng ta, ông ấy sẽ hoàn toàn đơn độc, không thể với tới hay gọi về được. Dù cho có chuyện gì xảy ra với tất cả những điều khác, ông ấy vẫn sẽ tiến bước như mũi tên của Chúa, thẳng tới chỗ đứa trẻ, và hạ thủ nó. Ông ấy sẽ tàng hình; sẽ ập tới vào ban đêm, giống như thiên thần đã đánh tan quân Assyria; ông ấy sẽ lặng lẽ tuyệt đối. Giá mà có một Cha Gomez trong Vườn Địa Đàng thì số phận của tất cả chúng ta có phải đã tốt đẹp hơn rất nhiều rồi không! Chúng ta sẽ chẳng bao giờ phải rời khỏi thiên đường.”
Vị linh mục trẻ gần như khóc nức lên vì hãnh diện. Tòa án gửi lời chúc phúc đến ông ta.
Và trong góc tối nhất của trần nhà, ẩn trốn giữa những thanh xà sẫm màu bằng gỗ sồi, một người đàn ông không lớn hơn một gan bàn tay đang ngồi đó. Gót chân ông ta có gắn cựa, ông ta đã nghe được từng lời họ nói.
Trong khu hầm, người đàn ông tới từ Bolvangar mặc mỗi một chiếc áo sơmi trắng đã nhuốm bẩn và một cái quần lỏng cạp mà chẳng hề có thắt lưng, đứng dưới bóng đèn trần, một tay tóm lấy quần còn một tay giữ con linh thú thỏ của mình. Trước mặt ông ta, đang ngồi trong chiếc ghế duy nhất, là Cha MacPhail.
“Tiến sĩ Cooper,” Chủ tịch lên tiếng, “mời ngồi xuống.”
Trong hầm chẳng có đồ đạc gì ngoài cái ghế, chiếc giường gỗ, và một cái xô. Giọng nói của Chủ tịch vang vọng một cách khó chịu từ lớp gạch lát trắng xếp trên tường và trần nhà.
Tiến sĩ Cooper ngồi lên giường. Ông ta không thể rời mắt khỏi vị Chủ tịch hốc hác có mái tóc hoa râm. Ông liếm đôi môi khô khốc, chờ đợi xem chuyện bực mình gì sắp xảy ra.
“Vậy là ông đã suýt thành công trong việc cắt đứa trẻ khỏi linh thú của nó?” Cha MacPhail hỏi.
Tiến sĩ Cooper run rẩy đáp: “Chúng tôi cho rằng chờ đợi cũng không ích gì, vì thí nghiệm đó đằng nào cũng sẽ phải tiến hành, vậy nên chúng tôi đã cho đứa bé vào khoang thí nghiệm, nhưng đúng lúc đó chính Phu nhân Coulter lại can thiệp và đem đứa trẻ về khu nhà của mình.”
Con linh thú thỏ mở đôi mắt to tròn của mình ra rồi sợ sệt nhìn Chủ tịch, sau đó nó lại nhắm lại và giấu mặt đi.
“Vất vả cho ông quá,” Cha MacPhail nói.
“Toàn bộ chương trình này đều quá sức khó khăn,” Tiến sĩ Cooper vội vàng đồng tình.
“Ta ngạc nhiên là ông lại không tìm đến sự trợ giúp của Tòa án Công giáo, chúng ta có nguồn lực lớn ở đây.”
“Chúng tôi - tôi - chúng tôi hiểu rằng chương trình này được cho phép bởi… Đó là vấn đề của Ủy ban Hiến tế, nhưng chúng tôi được thông báo rằng nó cũng được sự chấp thuận của Tòa án Công giáo Kỉ luật. Nếu không chúng tôi sẽ không bao giờ tham gia vào. Không bao giờ!”
“Không, đương nhiên là không rồi. Giờ thì nói đến việc khác. Ông có biết chút gì,” Cha MacPhail chuyển sang mục đích thực sự khiến ông tới thăm khu hầm, “về chủ đề nghiên cứu của Ngài Asriel không? Về thứ có thể là ngọn nguồn của năng lượng khổng lồ mà ông ta giải phóng ra ở Svalbard?”
Tiến sĩ Cooper nuốt nước bọt. Trong sự im lặng cùng cực, một giọt mồ hôi của ông rơi từ cằm xuống nền nhà bê tông, và cả hai cùng nghe thấy nó rõ mồn một.
“À…” Ông bắt đầu: “có một người trong nhóm của chúng tôi đã quan sát thấy rằng có năng lượng được giải phóng trong quá trình cắt đứt. Để điều khiển được năng lượng ấy sẽ cần đến những nguồn lực cực lớn, nhưng cũng giống như một vụ nổ nguyên tử được kích hoạt bởi những chất gây nổ thông thường, việc này có thể được thực hiện bằng cách tập trung một dòng mạch công suất lớn… Tuy nhiên, ông ta không được coi trọng. Tôi không quan tâm gì đến những ý tưởng của ông ta cả,” ông sốt sắng nói thêm, “vì biết rằng nếu không được cho phép, chúng cũng chỉ là một thứ dị giáo.”
“Rất sáng suốt. Vậy người đồng nghiệp đó bây giờ đang ở đâu?”
“Ông ta là một trong những người đã chết trong cuộc tấn công.” Chủ tịch mỉm cười. Biểu cảm đó tử tế đến nỗi linh thú của Tiến sĩ Cooper run bắn lên rồi ngất lịm trong lòng ông ta.
“Dũng khí, Tiến sĩ Cooper ạ,” Cha MacPhail nói. “Chúng ta cần ông mạnh mẽ và dũng cảm! Ta có một nhiệm vụ lớn cần hoàn thành, một cuộc chiến vĩ đại cần tiến hành. Ông phải giành được sự tha thứ của Đấng Quyền Năng bằng cách hợp tác hoàn toàn với chúng ta, bằng cách không giấu giếm điều gì, kể cả những suy đoán ngông cuồng, kể cả những tin đồn nhảm. Giờ ta muốn ông dành toàn bộ sự chú ý tới những gì người đồng nghiệp nói mà ông còn nhớ được. Ông ta có tiến hành thí nghiệm nào không? Có để lại ghi chép gì không? Có thổ lộ gì với ai khác không? Ông ta đã dùng loại thiết bị gì? Nghĩ về mọi thứ, Tiến sĩ Cooper ạ. Ông sẽ được cung cấp giấy bút và toàn bộ thời gian cần thiết.
“Với lại, căn phòng này không được thoải mái lắm. Chúng ta sẽ chuyển ông tới một nơi thích hợp hơn. Ví dụ như ông có yêu cầu gì về đồ đạc không? Ông thích viết trên bàn thường hay bàn làm việc? Ông có muốn một cái máy đánh chữ không? Hay có lẽ ông thích đọc cho một người viết tốc kí chép lại hơn?
“Cứ nói với các lính canh, rồi ông sẽ có mọi thứ mình muốn. Nhưng vào mọi lúc, Tiến sĩ Cooper ạ, ta muốn ông nghĩ về người đồng nghiệp của mình và lí luận của ông ta. Nhiệm vụ trọng đại của ông là phải nhớ lại, và nếu cần thiết là phải khám phá lại, những gì ông ta biết. Khi đã biết được mình cần trang thiết bị gì, ông cũng sẽ có chúng. Đây là một nhiệm vụ lớn, Tiến sĩ Cooper ạ! Ông thật may mắn vì đã được tin tưởng giao phó! Hãy cảm tạ Đấng Quyền Năng.”
“Vâng, thưa Cha Chủ tịch! Tôi rất biết ơn ngài!”
Vừa tóm chặt lấy cái đai quần lỏng, nhà triết học vừa đứng dậy cúi chào lia lịa mà gần như không nhận ra, khi Chủ tịch của Tòa án Công giáo Kỉ luật rời khỏi hầm nhốt ông ta.
Chiều tối hôm đó, Hiệp sĩ Tialys, mật thám người Gallivespia, băng qua những con hẻm và ngóc ngách của thành phố Geneva để gặp mặt đồng nghiệp của mình, Công nương Salmakia. Đó là một hành trình hiểm nghèo với cả hai bọn họ: Nó cũng nguy hiểm với bất cứ ai hay bất cứ thứ gì thách thức họ, nhưng chắc chắn là đầy rẫy hiểm họa đối với những người Gallivespia nhỏ bé. Nhiều hơn một con mèo đi lang thang đã phải nhận án tử trước cựa sắc của họ, nhưng mới chỉ một tuần trước, vị hiệp sĩ đã gần như mất một cánh tay cho bộ răng của một con chó ghẻ; may nhờ có hành động lanh lẹ của công nương mà ông được cứu thoát.
Họ gặp nhau tại địa điểm thứ bảy trong số những nơi họp được định sẵn, giữa đám rễ của một cây tiêu huyền trong một quảng trường nhỏ tồi tàn, để trao đổi thông tin. Đầu mối liên lạc của Công nương Salmakia trong Đoàn đã cho bà biết rằng trước đó vào buổi chiều, họ nhận được một lời mời thân mật từ Chủ tịch Tòa án Công giáo, mời họ tới thảo luận về những vấn đề đôi bên cùng quan tâm.
“Làm việc rất nhanh chóng,” hiệp sĩ nhận xét. “Nhưng đảm bảo cả trăm lần là ông ta không nói cho họ biết về kẻ ám sát của mình.”
Ông nói với công nương về kế hoạch giết Lyra. Bà không hề tỏ ra ngạc nhiên.
“Đó là việc làm hợp lí,” bà nói. “Những con người rất sáng suốt. Tialys, ông có cho rằng chúng ta có bao giờ gặp được đứa bé này không?”
“Tôi không biết, nhưng tôi muốn gặp nó. Bảo trọng, Salmakia. Hẹn ngày mai ở đài phun nước.”
Điều không được nói ra đằng sau cuộc trao đổi chóng vánh đó là thứ duy nhất họ không bao giờ nhắc đến: rằng cuộc sống của họ ngắn ngủi hơn nhiều so với cuộc đời của con người. Dân Gallivespia sống được tới chín hoặc mười năm, hiếm khi lâu hơn, mà Tialys và Salmakia đều đã đến năm thứ tám. Họ không sợ tuổi già; đồng bào của họ chết đi vào lúc sung mãn và tràn trề khí lực nhất, một cách đột ngột, tuổi thơ của họ cũng rất ngắn ngủi; nhưng so với họ, cuộc đời của một đứa trẻ như Lyra lại trải dài đến tương lai giống như cuộc đời của các phù thủy kéo dài hơn Lyra rất nhiều.
Vị hiệp sĩ trở lại Học viện Thánh Jerome và bắt đầu soạn thảo thông điệp mà ông muốn gửi tới Ngài Roke trên chiếc máy cộng hưởng đá nam châm.
Nhưng trong lúc ông đang gặp mặt nói chuyện với Salmakia, vị Chủ tịch đã triệu tập Cha Gomez. Tại phòng làm việc của ông, họ cùng nhau cầu nguyện trong một tiếng đồng hồ, rồi Cha MacPhail ban cho vị linh mục trẻ sự xá tội trước, khiến cho việc ông ta giết Lyra không còn là tội giết người nữa. Gương mặt Cha Gomez như bừng sáng; sự vững tin chảy trong huyết quản dường như đã khiến đôi mắt ông sáng rực lên.
Họ thảo luận những chuẩn bị cần thiết, tiền bạc, vân vân; rồi Chủ tịch nói: “Một khi đã rời khỏi đây, Cha Gomez ạ, ông sẽ bị cắt đứt hoàn toàn, mãi mãi, với mọi sự trợ giúp mà chúng ta có thể cung cấp. Ông có thể sẽ không bao giờ quay về; sẽ không bao giờ nghe được thông tin gì từ phía chúng ta. Ta không thể cho ông lời khuyên nào tốt hơn thế này: Đừng tìm kiếm đứa trẻ. Việc đó sẽ khiến ông bị bại lộ. Thay vào đó hãy tìm kẻ cám dỗ. Bám theo kẻ cám dỗ, và bà ta sẽ dẫn ông tới chỗ đứa trẻ.”
“Bà ta sao?” Cha Gomez kinh ngạc thốt lên.
“Phải, bà ta,” Cha MacPhail đáp. “Chúng ta đã biết được ngần đó nhờ Chân Kế. Thế giới mà từ đó kẻ cám dỗ tới là một thế giới kì lạ. Ông sẽ thấy nhiều thứ khiến ông bất ngờ và kinh ngạc, Cha Gomez ạ. Đừng để sự kì quặc của chúng khiến ông sao nhãng khỏi sứ mệnh thiêng liêng mà mình cần hoàn thành. Ta tin tưởng,” ông tử tế nói thêm, “vào sức mạnh lòng tin của ông. Người đàn bà này đang di chuyển, được dẫn dắt bởi những thế lực xấu xa, tới nơi mà có thể rốt cuộc bà ta cũng sẽ gặp đứa trẻ vào đúng lúc để cám dỗ nó. Điều đó hẳn nhiên là nếu chúng ta không thành công trong việc di dời đứa con gái khỏi vị trí hiện tại của nó. Đó vẫn là kế hoạch tiên quyết của chúng ta. Cha Gomez, ông là người đảm bảo sau cùng rằng nếu kế hoạch đó có thất bại, các thế lực ma quỷ cũng sẽ không chiếm được ưu thế.”
Cha Gomez gật đầu. Linh thú của ông ta, một con bọ cánh cứng lớn, lưng xanh ngọc lấp lánh, bật tanh tách cặp cánh trước của mình.
Chủ tịch mở một ngăn kéo rồi đưa cho vị linh mục trẻ một tập giấy tờ được gấp gọn.
“Đây là tất cả những gì chúng ta biết về người đàn bà đó,” ông giải thích. “Thế giới của bà ta, và nơi cuối cùng người ta thấy bà ta. Đọc thật kĩ nhé, Luis thân mến, ta cầu phúc cho chuyến đi của ông.”
Ông ta chưa từng dùng tới tên riêng của vị linh mục. Cha Gomez cảm thấy những giọt nước mắt vui sướng đang ứa ra khi ông hôn từ biệt Chủ tịch.
*cậu là Lyra.”
Khi đó cô bé mới nhận ra điều đó có nghĩa gì. Cô cảm thấy choáng váng, ngay cả trong giấc mơ; cô thấy một gánh nặng khủng khiếp đang đè trên vai. Và để khiến nó càng trở nên nặng nề hơn, cơn buồn ngủ lại ập đến, và gương mặt của Roger lùi dần vào bóng đêm.
“Ừ, tớ… tớ biết… Có đủ kiểu người ở phe chúng ta, giống như Tiến sĩ Malone… Cậu có biết là có một Oxford khác không, Roger, giống hệt như của chúng ta? À, bà ấy… Tớ tìm thấy bà ấy ở… Bà ấy sẽ giúp… Nhưng chỉ có một người duy nhất thực sự…”
Lúc này việc nhìn thấy cậu nhóc đã gần như trở nên vô vọng, những suy nghĩ của cô đang bị dàn trải và vẩn vơ khắp nơi như lũ cừu lang thang trên đồng.
“Nhưng chúng ta có thể tin tưởng cậu ấy, Roger ạ, tớ thề đấy,” cô nói với nỗ lực cuối cùng,