← Quay lại trang sách

- 38 - Vườn Bách thảo

Những người dân du mục cập bến vào buổi chiều ngày hôm sau. Ở đó không có bến cảng, đương nhiên rồi, nên họ phải neo tàu ở ngoài khơi. John Faa, Farder Coram và thuyền trưởng vào bờ trên một con xuồng lớn cùng với Serafina Pekkala làm hoa tiêu.

Mary đã kể cho những người mulefa mọi thứ mà bà biết, và vào lúc những người du mục đặt chân lên bờ biển rộng lớn, một đám đông hiếu kì đã tụ tập lại đó, chờ đợi được chào đón họ. Hẳn nhiên, mỗi bên đều đang sốt sắng vì tò mò về bên còn lại, nhưng John Faa đã học được rất nhiều về phép lịch sự và sự kiên nhẫn trong cuộc đời sống thọ của mình, nên ông quyết tâm để những người kì lạ nhất trái đất này được đón nhận không gì khác ngoài sự trọng đãi và tình hữu nghị từ Vua của những người du mục phía tây.

Vậy là ông đứng khá lâu dưới ánh nắng nóng nực trong lúc zalif già Sattamax nói lời chào mừng được Mary cố gắng dịch lại rõ nhất có thể; rồi John Faa trả lời, đem tới cho họ những lời chào hỏi từ vùng Fens và những sông ngòi trên mảnh đất quê hương ông.

Khi họ bắt đầu tiến lên qua các đầm lầy để tới làng, người mulefa đã thấy Farder Coram phải khó khăn thế nào để có thể bước đi, lập tức họ đề nghị được chở ông. Ông mừng rỡ nhận lời, và cứ như vậy họ tới được khu đất tập trung, nơi Will và Lyra tới gặp họ.

Đã lâu đến vậy rồi Lyra mới được gặp lại những người đàn ông thân thương này! Lần cuối họ nói chuyện với nhau là trong tuyết phủ vùng Cực Bắc, trên đường tới giải cứu lũ trẻ khỏi Những Kẻ háu ăn. Cảm thấy hơi ngượng ngùng, cô bé chìa tay ra bắt, vẻ lưỡng lự; nhưng John Faa đã ôm chầm lấy cô và hôn lên cả hai má cô, rồi Farder Coram cũng làm y hệt, chăm chú nhìn cô trước khi ôm chặt cô vào lồng ngực.

“Con bé đã trưởng thành rồi, John này,” ông thốt lên. “Còn nhớ đứa bé gái mà chúng ta đã đưa tới những vùng đất Phương Bắc không? Nhìn nó bây giờ đi, hê! Lyra, cháu gái yêu quý, dù có cái lưỡi của một thiên thần, ta cũng chẳng thể diễn tả hết mình vui mừng đến thế nào khi lại được nhìn ngắm cháu.”

Nhưng trông cô bé thật tiều tụy, ông nghĩ, cô trông thật yếu ớt và mệt mỏi. Cả ông lẫn John Faa, không ai lại không nhận thấy cái cách mà cô bé dính chặt lấy Will, và cái cách mà cậu bé với đôi lông mày thẳng đen nhánh từng giây từng phút đều ý thức được cô đang ở đâu, cẩn thận để không rời xa khỏi cô.

Hai ông già chào cậu với vẻ tôn trọng, vì Serafina Pekkala đã kể cho họ vài việc mà Will đã làm. Về phần Will, cậu ngưỡng mộ uy lực khổng lồ trong sự hiện diện của Ngài Faa, một uy lực được tôi luyện nhờ sự lịch thiệp, và cậu nghĩ đó sẽ là một cách tốt để cư xử khi bản thân cậu về già; John Faa là một chỗ dựa và là một nơi nương náu vững chắc.

“Tiến sĩ Malone,” John Faa nói, “chúng tôi cần phải uống nước sạch, và bất cứ thứ gì ăn được mà những người bạn của bà có thể bán cho chúng tôi. Bên cạnh đó, người của chúng tôi đã ở trên tàu trong một thời gian khá dài, chúng tôi lại phải chiến đấu đôi chút, nên sẽ thật sung sướng nếu tất cả bọn họ có thể chạy trên bờ, để có thể hít thở không khí của mảnh đất này và kể với gia đình của họ ở nhà về thế giới xa xôi mà họ đã đặt chân tới.”

“Ngài Faa,” Mary nói, “những người mulefa đã nhờ tôi nói lại rằng họ sẽ cung cấp mọi thứ các vị cần, và rằng họ sẽ rất vinh dự nếu tất cả các vị có thể tới cùng họ dùng bữa tối nay.”

“Chúng tôi rất hân hạnh được đồng ý,” John Faa đáp.

•••

Vậy là buổi tối hôm đó, những người tới từ ba thế giới đã ngồi xuống bên nhau, cùng nhau chia sẻ bánh mì, thịt, hoa quả và rượu. Người dân du mục trao tặng các chủ nhà những món quà từ mọi ngóc ngách của thế giới mình: những chiếc bình gốm sứ, những tác phẩm chạm khắc từ ngà của con moóc, thảm treo tường bằng lụa của người Turk, cốc bạc từ những hầm mỏ xứ Thụy Điển, đĩa tráng men từ Triều Tiên.

Những người mulefa mừng rỡ đón nhận chúng, và để đáp lại, họ đem tặng những vật phẩm từ tài nghệ khéo léo của người dân mình: bình đựng quý hiếm làm từ gỗ nút cổ xưa, các đoạn dây thừng, dây chão chất lượng tốt nhất, bát sơn mài, cùng lưới đánh cá khỏe và nhẹ tới mức kể cả những người du mục sống tại vùng Fens cũng chưa từng nhìn thấy thứ tương tự.

Sau khi đã cùng nhau dùng yến tiệc, vị thuyền trưởng cảm tạ các chủ nhà và đi để giám sát thủy thủ đoàn trong lúc họ chất hàng dự trữ và nước uống cần thiết lên tàu, bởi vì họ dự tính sẽ ra khơi ngay khi bình minh lên. Trong lúc họ làm vậy, vị zalif già nói với các vị khách của mình:

Một biến động vĩ đại đã bao phủ lên vạn vật. Như một dấu hiệu, chúng tôi đã được giao trọng trách, chúng tôi muốn cho các vị thấy điều này có ý nghĩa gì.

Vậy là John Faa, Farder Coram, Mary và Serafina đi cùng họ tới nơi mà vùng đất của người chết mở ra, nơi những hồn ma đang túa ra, vẫn trong cuộc diễu hành bất tận của mình. Những người mulefa đang trồng một khoảnh rừng quanh đó, bởi vì đó là một nơi linh thiêng, họ nói vậy; họ sẽ bảo tồn nó vĩnh viễn; đó là một nguồn hạnh phúc.

“Đây quả là một điều bí ẩn,” Farder Coram nói, “thật mừng vì tôi đã sống đủ lâu để có thể chứng kiến. Phải bước vào bóng tối của cái chết là một điều mà tất cả chúng tôi đều sợ, dù cho có nói gì đi nữa, chúng tôi cũng sợ nó. Nhưng nếu có một lối thoát cho cái phần của chúng tôi phải đi xuống dưới đó, thật khiến cho trái tim tôi nhẹ nhõm hơn.”

“Ông nói đúng, Coram ạ,” John Faa nói. “Tôi đã chứng kiến rất nhiều người ngã xuống; bản thân tôi cũng đã đẩy nhiều hơn là một vài người xuống vùng tăm tối đó, mặc dù việc đó luôn xảy ra trong cơn thịnh nộ của chiến tranh. Khi biết rằng sau một thời gian ngắn trong tăm tối, ta sẽ lại được tới một mảnh đất ngọt ngào như thế này, được vùng vẫy thỏa thuê trên bầu trời như những chú chim, đó là lời hứa hẹn tuyệt vời nhất mà bất cứ ai có thể ao ước.”

“Chúng ta phải nói chuyện với Lyra về điều này,” Farder Coram nói, “để tìm hiểu nó xảy ra như thế nào, và nó có ý nghĩa gì.”

Mary cảm thấy rất khó khăn để có thể nói lời từ biệt với Atal và những người mulefa khác. Trước khi bà lên tàu, họ tặng cho bà một món quà: một cái lọ sơn mài chứa một ít dầu của cây bánh xe, và quý giá hơn hết là một túi nhỏ đựng hạt.

Chúng có thể sẽ không phát triển ở thế giới của bà, Atal nói, nhưng nếu không thì bà vẫn có tinh dầu. Đừng quên chúng tôi nhé, Mary.

Không bao giờ, Mary đáp. Không bao giờ. Dù có sống lâu như các phù thủy và quên hết mọi thứ khác, tôi vẫn sẽ không quên các bạn và sự tử tế của những người dân ở đây, Atal ạ.

Vậy là cuộc hành trình về quê hương bắt đầu. Gió nhẹ thổi, mặt biển yên bình, và mặc dù họ thấy bóng dáng lấp lánh của những cái cánh khổng lồ trắng như tuyết kia nhiều hơn một lần, lũ chim tỏ ra thận trọng và giữ khoảng cách an toàn. Will và Lyra dành toàn bộ thời gian ở bên nhau, đối với chúng, hai tuần hải trình trôi qua như một cái chớp mắt.

Xaphania đã nói với Serafina Pekkala rằng khi tất cả các lối thông đã được đóng lại, tất cả các thế giới sẽ được khôi phục lại mối quan hệ thích đáng với nhau, Oxford của Lyra và của Will sẽ lại nằm đè lên nhau như những bức ảnh trong suốt trên hai tấm phim đang được dịch lại ngày một gần cho tới khi chúng hòa vào làm một; dù cho chúng sẽ không bao giờ thật sự tiếp xúc.

Tuy nhiên vào lúc đó, hai nơi lại đang cách nhau cả một chặng đường dài - xa như quãng đường mà Lyra đã phải đi từ Oxford của mình đến Cittàgazze. Oxford của Will giờ lại đang ở ngay đây, chỉ cách một nhát dao cắt. Trời đã về chiều khi họ tới nơi, và khi mỏ neo rơi tùm xuống nước, mặt trời muộn giờ đang nằm ấm áp trên những ngọn đồi xanh, các mái nhà bằng đất nung, bến tàu thanh nhã đổ nát và quán cà phê nhỏ của Will và Lyra. Một đợt rà soát dài hơi qua kính viễn vọng của thuyền trưởng không cho thấy bất cứ dấu hiệu nào của sự sống, nhưng John Faa lên kế hoạch đem theo nửa tá lính vũ trang lên bờ phòng trường hợp bất trắc. Họ sẽ không cản đường mà chỉ ở đó khi nào cần thiết.

Họ dùng bữa lần cuối với nhau, ngắm nhìn bóng tối phủ dần. Will nói lời từ biệt với thuyền trưởng và các thuyền viên của ông, với John Faa và Farder Coram. Có vẻ như cậu không ý thức được nhiều về họ, và họ thấy cậu rõ hơn là cậu thấy họ: Họ thấy một người trẻ tuổi nhưng rất mạnh mẽ, và đầy sương gió dặm trường.

Cuối cùng, Will và Lyra cùng hai con linh thú của chúng, Mary và Serafina Pekkala, lên đường đi qua thành phố trống trơn. Nó thật sự trống rỗng; những tiếng bước chân và những cái bóng duy nhất là của chính họ. Lyra và Will đi trước, tay trong tay, tới nơi chúng phải chia lìa, còn hai người phụ nữ nán lại phía sau đôi chút, nói chuyện như những người chị em.

“Lyra muốn đi một đoạn vào Oxford của tôi,” Mary nói. “Cô bé đang dự tính gì đó trong đầu. Sau đó cô bé sẽ trở về ngay lập tức.”

“Bà sẽ làm gì, hả Mary?”

“Tôi à - hẳn nhiên là đi với Will rồi. Chúng tôi sẽ đến căn hộ của tôi - nhà của tôi - vào tối nay, rồi ngày mai chúng tôi sẽ đi tìm nơi mẹ cậu bé đang sống, để xem mình có thể làm gì để giúp bà ấy hồi phục. Có rất nhiều luật lệ và nguyên tắc trong thế giới của tôi, Serafina ạ; người ta sẽ phải làm cho nhà chức trách thỏa mãn và trả lời cả ngàn câu hỏi; tôi sẽ giúp đỡ cậu bé về mảng pháp luật của mọi thứ, các dịch vụ xã hội, nhà ở, vân vân, để cậu bé có thể tập trung vào mẹ của mình. Nó là một cậu bé mạnh mẽ… Nhưng tôi sẽ giúp nó. Hơn nữa, tôi cần nó. Tôi không còn việc làm, không còn nhiều tiền trong ngân hàng, và tôi sẽ không thấy ngạc nhiên nếu có cảnh sát bám đuổi mình… Cậu bé sẽ là người duy nhất trong cả thế giới của mình mà tôi có thể chia sẻ tất cả những chuyện này.”

Họ dạo bước qua những con phố lặng như tờ, qua một tòa tháp to bè với khung cửa mở vào bóng tối, qua một quán cà phê nho nhỏ nơi bàn ghế đứng trên hè đường, rồi ra một đại lộ rộng lớn với hàng cây cọ nằm giữa trung tâm.

“Đây là nơi tôi đã đi qua,” Mary nói.

Ô cửa sổ mà Will đã lần đầu nhìn thấy trong con đường tĩnh lặng vùng ngoại ô Oxford mở ra ở đây, còn tại phía Oxford, nó đang được cảnh sát canh gác - hoặc đã từng như vậy, khi Mary lừa họ để họ cho mình qua. Cô bé nhìn Will bước vào vị trí, khéo léo cử động đôi tay trong không khí, và ô cửa sổ biến mất.

“Lần tới nhìn thấy họ sẽ ngạc nhiên cho mà xem,” cô nói.

Ý định của Lyra là vào Oxford của Mary để cho Will xem một thứ trước khi quay về cùng với Serafina, và rõ ràng là họ phải rất cẩn thận khi cắt xuyên qua; vậy là hai người phụ nữ đi theo phía sau, qua những con phố ngập ánh trăng của Cittàgazze. Phía bên phải họ, một khu công viên rộng lớn và thanh nhã dẫn lên một dinh thự đồ sộ với cánh cổng kiểu cổ điển rực rỡ dưới ánh trăng như một khối đường đóng băng.

“Khi nhắc tới hình dạng linh thú của tôi,” Mary nói, “cô nói cô có thể dạy tôi cách nhìn được nó, nếu chúng ta có thời gian… Ước gì chúng ta có nhỉ.”

“À, chúng ta vẫn đang có mà,” Serafina nói, “và chẳng phải chúng ta đang nói chuyện đó sao? Ta đã dạy cho bà vài câu chuyện dân gian của phù thủy, vốn bị cấm dưới những phương cách cũ trong thế giới của ta. Nhưng bà sẽ về lại thế giới của mình, và các phương cách cổ lỗ sĩ đó đã thay đổi. Bản thân ta cũng đã học hỏi được rất nhiều từ bà. Giờ thì: Khi nói chuyện với các hạt Bóng trên máy tính của mình, bà đã phải duy trì một trạng thái tinh thần đặc biệt, đúng không?”

“Phải… giống như cách Lyra làm với Chân Kế. Ý cô là tôi nên thử làm việc đó?”

“Không chỉ việc đó mà cả sự quan sát thông thường vào cùng một lúc nữa. Thử luôn đi.”

Ở thế giới của Mary, người ta có một dạng hình ảnh nhìn qua thì giống như những chấm màu ngẫu nhiên, nhưng nếu được nhìn theo một cách thức đặc biệt thì dường như lại chuyển thành dạng lập thể: Và ở đó, phía trước tấm giấy sẽ là một cái cây, một gương mặt, hay một thứ gì khác chắc chắn đến kinh ngạc mà trước đó đơn thuần là không hề tồn tại.

Những gì Serafina dạy Mary thực hiện vào lúc này cũng tương tự như vậy. Bà phải duy trì cách nhìn thông thường của mình trong khi đồng thời chìm vào sự mơ mộng mở rộng giống như trạng thái nhập định mà bà có thể thấy được các hạt Bóng. Nhưng giờ bà phải duy trì cả hai cách cùng với nhau, cách thường ngày và cách nhập định, giống như bạn phải nhìn về hai hướng cùng một lúc để thấy những bức ảnh 3D giữa các chấm.

Cũng giống như điều xảy ra với những bức ảnh chấm màu, bà đột nhiên nhìn được.

“A!” Bà hét lên rồi với lấy cánh tay của Serafina để đứng vững lại, vì ở đó trên bờ rào sắt quây quanh khu công viên là một chú chim: đen bóng, với đôi chân đỏ và cái mỏ khoằm màu vàng: Một con quạ mỏ vàng núi Alps, đúng như Serafina đã miêu tả. Nó chỉ cách đó một hoặc hai bước chân, quan sát bà với cái đầu hơi nghiêng, cứ như thể nó đang thấy buồn cười lắm vậy.

Nhưng bà bị bất ngờ tới mức sức tập trung trôi tuột đi, và con chim biến mất.

“Bà đã làm được một lần rồi, lần sau sẽ dễ dàng hơn,” Serafina nói. “Khi ở trong thế giới của mình, bà sẽ học được cách nhìn thấy linh thú của cả những người khác nữa, cũng theo cách đó. Dù cho họ sẽ không thấy được linh thú của bà hay của Will, trừ khi bà dạy cho họ như ta đã dạy bà.”

“Vâng… Ôi, thật là phi thường. Vâng!”

Mary nghĩ: Lyra nói chuyện được với linh thú của mình, không phải sao? Liệu bà có nghe được tiếng con chim cũng như nhìn thấy nó không? Bà đi tiếp, người nóng bừng lên vì hi vọng.

Phía trước họ, Will đang cắt một ô cửa sổ, cậu và Lyra đợi hai người phụ nữ để lại có thể đóng nó lại.

“Bà có biết chúng ta đang ở đâu không?” Will hỏi.

Mary nhìn quanh. Con đường mà lúc này họ đang đứng, trong thế giới của bà, vắng lặng với những hàng cây chạy dọc, những dinh thự lớn theo phong cách Victoria với những khoảnh vườn ngập tràn cây bụi.

“Đâu đó ở phía bắc Oxford,” Mary nói. “Thật ra là không xa căn hộ của ta, mặc dù ta không biết được chính xác đây là con đường nào.”

“Cháu muốn tới Vườn Bách thảo,” Lyra nói.

“Được rồi. Ta đoán là sẽ mất khoảng mười lăm phút đi bộ. Đường này…”

Mary lại thử phương pháp nhìn kép. Bà thấy lần này việc đó đã trở nên dễ dàng hơn, và kia là con quạ chân đỏ, cùng với bà trong thế giới của chính mình, đậu trên một cành cây rủ thấp trên vỉa hè. Để xem chuyện gì sẽ xảy ra, bà chìa bàn tay, không hề ngần ngại, con chim liền bước lên đó. Bà cảm thấy trọng lượng rất nhẹ, những cái móng quặp chặt lên ngón tay mình, và dịu dàng đưa nó lên vai. Nó đậu vào chỗ như thể nó vẫn luôn ở đó suốt cả cuộc đời bà vậy.

Thì, nó luôn ở đó thật mà, bà nghĩ, rồi đi tiếp.

Không có nhiều xe cộ đi lại trên Phố High, và khi họ rẽ xuống những bậc thang đối diện Học viện Magdalen về phía cổng của Vườn Bách thảo, họ hoàn toàn chỉ còn lại một mình. Có một cánh cổng được trang trí công phu, với những ghế ngồi bằng đá bên trong. Trong lúc Mary và Serafina ngồi đó, Will và Lyra trèo qua hàng rào sắt vào trong vườn. Linh thú của chúng lách người qua những thanh chắn rồi lao đi trước chúng vào trong khu vườn.

“Hướng này,” Lyra nói, kéo tay Will.

Cô bé dẫn cậu đi qua một hồ nước có đài phun dưới tán cây xòe rộng rồi sải bước sang trái giữa những luống cây về phía một cây thông vĩ đại chia nhiều nhánh. Có một bức tường đá đồ sộ với một cánh cửa trên đó, và trong khu phía xa của khu vườn, cây cối non hơn và cách trồng cũng bớt kiểu cách hơn. Lyra dẫn cậu gần như tới cuối của khu vườn, qua một cây cầu nhỏ, tới một chiếc ghế băng bằng gỗ dưới một thân cây xòe rộng những cành thấp.

“Đây rồi!” Cô reo lên. “Tớ đã hi vọng rất nhiều, nó đây rồi, giống y hệt… Will, tớ thường tới đây trong Oxford của mình và ngồi đúng lên cái ghế này mỗi khi muốn ở một mình, chỉ có tớ và Pan. Tớ đã nghĩ là nếu cậu - có lẽ là chỉ một lần mỗi năm - nếu chúng ta có thể tới đây vào cùng một thời điểm, chỉ trong một giờ đồng hồ hay gì đấy, khi đó chúng ta có thể giả vờ như mình lại được ở gần bên nhau - bởi vì chúng ta sẽ ở rất gần, nếu cậu ngồi đây còn tớ ngồi ngay đây trong thế giới của tớ…”

“Ừ,” cậu bé nói, “chừng nào còn sống, tớ vẫn sẽ quay lại. Dù cho có ở đâu trên thế giới này, tớ vẫn sẽ quay lại đây…”

“Vào ngày Hạ chí,” cô bé nói. “Giữa trưa. Chừng nào tớ còn sống. Chừng nào tớ còn sống…”

Cậu thấy mình không còn có thể nhìn được nữa, nhưng cậu cứ để cho những giọt nước mắt nóng hổi chảy xuống và ôm chặt lấy cô.

“Và nếu chúng ta - về sau…” Cô đang thì thầm trong lúc run rẩy “… nếu chúng ta gặp một ai đó mà mình thích, và nếu có lấy họ, chúng ta sẽ phải đối xử tốt với họ, không được suốt ngày so sánh và ước gì chúng ta được lấy nhau thay vì họ… Nhưng hãy cứ duy trì việc đến đây mỗi năm một lần, chỉ trong một giờ, chỉ để ở bên cạnh nhau…”

Chúng ôm lấy nhau thật chặt. Nhiều phút trôi qua; một con thủy cầm trên dòng sông bên cạnh chúng động đậy và bắt đầu kêu; thi thoảng một chiếc xe lại phóng qua Cầu Magdalen.

Cuối cùng chúng rời nhau ra.

“Ừm,” Lyra khẽ nói.

Mọi thứ thuộc về cô bé trong khoảnh khắc đó thật dịu dàng; sau này, đó là một trong những kí ức yêu thích của cậu - vẻ yêu kiều pha lẫn căng thẳng của cô được ánh sáng mờ ảo làm dịu đi, đôi mắt, bàn tay và đặc biệt là đôi môi cô, mềm mại khôn xiết. Cậu hôn cô, rồi lại hôn tiếp, mỗi lần lại tiến đến gần hơn với nụ hôn cuối cùng.

Vừa nặng nề lại vừa nhẹ nhàng vì tình yêu, chúng trở lại cổng vào. Mary và Serafina đang đợi.

“Lyra…” Will nói, và cô gọi, “Will.”

Cậu cắt một ô cửa sổ vào Cittàgazze. Chúng đang ở sâu trong khu công viên quanh dinh thự đồ sộ, cách bìa rừng không xa. Chúng bước qua một lần cuối rồi nhìn xuống thành phố im lìm, những mái nhà lợp ngói lấp lánh dưới ánh trăng, tòa tháp phía trên cao, con tàu thắp sáng đang chờ đợi trên mặt biển lặng.

Will quay sang phía Serafina và cố gắng nói giọng vững vàng nhất có thể: “Cảm ơn cô, Serafina Pekkala, vì đã cứu chúng tôi ở vọng lâu, và vì tất cả mọi thứ khác. Hãy đối tốt với Lyra chừng nào cậu ấy còn sống. Tôi yêu cậu ấy hơn bất cứ ai từng được yêu thương.”

Để trả lời, nữ hoàng phù thủy hôn lên cả hai má cậu. Lyra đang thì thầm với Mary, và rồi họ cũng ôm nhau. Sau đó Mary đi trước rồi đến Will bước qua ô cửa sổ cuối cùng, trở lại thế giới của bản thân, trong bóng râm của cây cối trong Vườn Bách thảo.

Will căng đầu ra suy nghĩ hết sức có thể, nhưng việc tỏ ra vui vẻ bắt đầu ngay từ bây giờ giống như cố gắng ghìm lại một con sói chiến trong vòng tay khi nó muốn cào lên mặt cậu và rạch toang cổ họng cậu; dù vậy cậu vẫn làm, và cậu nghĩ chẳng ai có thể thấy được nỗ lực mà việc đấy đòi hỏi ở cậu.

Cậu biết rằng Lyra cũng đang làm điều tương tự, và rằng sự khó khăn cùng gắng gượng trong nụ cười của cô là biểu hiện của việc đó.

Tuy vậy, cô vẫn mỉm cười.

Một nụ hôn cuối cùng, gấp gáp và vụng về đến mức chúng va xương gò má vào nhau, rồi một giọt lệ từ mắt cô truyền sang gương mặt cậu; linh thú của hai đứa hôn từ biệt rồi Pantalaimon lao qua ngưỡng cửa, nhảy vào vòng tay Lyra; sau đó Will bắt đầu đóng ô cửa sổ lại, rồi việc được hoàn thành, con đường đã bị bịt kín, Lyra đã biến mất.

“Giờ…” Cậu bé nói, cố gắng làm giọng thản nhiên, nhưng vẫn phải quay đi khỏi Mary “… cháu phải bẻ gãy con dao.”

Cậu lần tìm trong không khí theo cách quen thuộc cho tới khi tìm thấy một khe hở, và cố gắng nhớ lại chuyện xảy ra trước đây. Cậu đang định cắt một lối đi ra khỏi hang động thì đột nhiên, Phu nhân Coulter không hiểu sao lại nhắc tới mẹ cậu, khiến con dao bị gãy, cậu nghĩ, bởi vì cuối cùng nó đã gặp phải một thứ mà nó không thể cắt được, và đó chính là tình yêu của cậu dành cho mẹ.

Vì vậy lúc này cậu cũng cố gắng gợi lại hình ảnh gương mặt mẹ mình như lần cuối cậu thấy bà, hoảng sợ và quẫn trí trong dãy hành lang nhỏ của bà Cooper.

Nhưng không thành công. Con dao dễ dàng cắt xuyên qua không khí và mở vào một thế giới nơi giông bão đang hoành hành: Những giọt nước nặng nề lao qua, khiến cả hai giật mình. Cậu vội đóng nó lại và đứng bần thần một hồi lâu.

Linh thú của cậu biết cậu nên làm gì, nó chỉ nói đơn giản: “Lyra.”

Hẳn nhiên rồi. Cậu gật đầu, và với con dao trong bàn tay phải, cậu dùng tay trái ấn vào nơi mà giọt nước mắt của cô vẫn đang nằm trên má cậu.

Và lần này, với một tiếng rắc đầy đau đớn, con dao bị phá hủy, lưỡi sắc rơi thành từng mảnh lên mặt đất, lấp lánh trên những hòn đá vẫn còn ướt vì những hạt mưa của một vũ trụ khác.

Will quỳ xuống để nhặt các mảnh vỡ lên một cách cẩn thận, Kirjava dùng đôi mắt mèo của mình để giúp cậu tìm đủ các mảnh.

Mary đang quàng balô lên vai.

“À,” bà nói, “ừm, nghe này, Will. Chúng ta gần như chưa nói chuyện gì với nhau, ta và cháu… Nên chủ yếu chúng ta vẫn là người lạ. Nhưng Serafina Pekkala và ta đã hứa với nhau, và ta cũng vừa hứa với Lyra, mà kể cả có chưa hứa hẹn gì khác, ta cũng sẽ hứa với cháu một điều, đó là nếu cháu cho phép, ta sẽ làm bạn của cháu trong suốt phần đời còn lại của hai ta. Cả hai chúng ta đều còn lại một mình, và ta nghĩ chúng ta đều sẽ thấy ổn với kiểu… Điều ta muốn nói là, chúng ta chẳng còn ai khác để có thể nói chuyện về tất cả những thứ này, trừ người còn lại… Cả hai ta đều phải làm quen với việc sống với linh thú của mình nữa… Cả hai ta đều đang gặp rắc rối, và nếu điều đó không cho chúng ta một vài điểm chung thì ta không biết thứ gì sẽ có thể nữa.”

“Bà đang gặp rắc rối sao?” Will hỏi, nhìn sang bà. Gương mặt lanh lợi, thân thiện và cởi mở của bà nhìn thẳng vào cậu.

“À, ta đã đập vỡ vài tài sản của phòng thí nghiệm trước khi bỏ đi, rồi ta làm giả một tấm thẻ căn cước, rồi… Đó chẳng phải thứ gì mà chúng ta không thể giải quyết được. Cả rắc rối của cháu nữa - chúng ta cũng có thể xử lí nó. Chúng ta có thể tìm lại mẹ cháu và giúp bà ấy được điều trị một cách thích hợp. Còn nếu cháu cần một nơi nào đó để sống, à, nếu cháu không ngại sống với ta, nếu chúng ta có thể sắp xếp điều đó, thì cháu sẽ không phải đến, người ta gọi nó là gì nhỉ, đến chỗ trại chăm sóc. Ý ta là, chúng ta sẽ phải quyết định một câu chuyện và bám lấy nó, nhưng chúng ta có thể làm điều đó đúng không?”

Mary là một người bạn. Cậu có một người bạn. Đó là sự thật. Cậu chưa từng nghĩ tới điều đó.

“Vâng!” Cậu nói.

“Được rồi, quyết định thế nhé. Căn hộ của ta ở cách đây khoảng nửa dặm, và cháu biết ta muốn thứ gì nhất trên thế giới này không? Ta muốn một tách trà. Nào, đi thôi, đi đặt ấm lên bếp thôi.”

Ba tuần sau thời khắc mà Lyra nhìn bàn tay của Will khép thế giới của mình lại mãi mãi, cô một lần nữa lại ngồi bên chiếc bàn ăn tại Học viện Jordan, nơi cô lần đầu tiên thấy ngây ngất trước sức hút của Phu nhân Coulter.

Lần này là một bữa tiệc nhỏ hơn: Chỉ có cô, Hiệu trưởng và Quý bà Hannah Relf, hiệu trưởng trường Thánh Sophia, một trong những học viện dành cho nữ giới. Quý bà Hannah cũng đã có mặt tại bữa tối đầu tiên đó, và nếu Lyra có thấy ngạc nhiên khi lần này lại gặp bà ở đây, cô vẫn chào bà rất lịch sự, và nhận thấy rằng kí ức của mình hoàn toàn sai lầm: Vì Quý bà Hannah đầy khéo léo hơn, thú vị hơn, và tử tế hơn rất nhiều so với con người mờ nhạt và lôi thôi mà cô nhớ được.

Đủ thứ chuyện đã xảy ra khi Lyra đi vắng - với Học viện Jordan, với nước Anh, với cả thế giới. Có vẻ như quyền lực của Giáo hội đã tăng lên khủng khiếp, và rất nhiều luật lệ tàn bạo đã được thông qua, nhưng quyền lực đó cũng lụi tàn nhanh chóng như khi phát triển: Những biến động đột ngột trong nội bộ Huấn Quyền đã lật đổ những kẻ cuồng tín và đem lại quyền lực cho nhiều phe cánh tự do hơn. Tổng Ủy ban Hiến tế đã bị giải thể; Tòa án Công giáo Kỉ luật trở nên lộn xộn và thiếu người dẫn đầu.

Còn các học viện của Oxford, sau một thời kì chuyển tiếp ngắn nhưng đầy hỗn loạn, đang dần ổn định trở lại sự yên bình của uyên bác và lễ nghi. Vài thứ đã biến mất: bộ sưu tập đồ bạc giá trị của Hiệu trưởng bị cướp mất; vài người phục vụ trong trường bỏ đi. Tuy nhiên, nam phục vụ của Hiệu trưởng, Cousins, vẫn đang giữ vị trí đó, và Lyra đã sẵn sàng đối đầu với sự thù địch của cậu ta bằng vẻ thách thức của mình, vì họ vẫn luôn là kẻ thù trong cả kí ức của cô. Cô thấy hơi giật mình khi được cậu ta nồng nhiệt chào đón và dùng cả hai tay bắt tay cô: Giọng cậu ta đang thể hiện sự quý mến sao? Chà, cậu ta đã thay đổi rồi.

Trong suốt bữa tối, Hiệu trưởng và Quý bà Hannah nói về những chuyện xảy ra khi Lyra vắng mặt, cô lắng nghe trong đau buồn, tiếc nuối, hoặc ngạc nhiên. Khi họ rút vào phòng khách của ông để dùng cà phê, Hiệu trưởng nói:

“Giờ thì, Lyra ạ, chúng ta gần như không nghe được tin tức gì về cháu. Nhưng ta biết cháu đã chứng kiến nhiều việc. Liệu cháu có thể kể cho chúng ta nghe vài việc mình đã trải qua không?”

“Vâng,” cô bé đáp. “Nhưng cháu không kể được tất cả một lúc đâu. Có vài chuyện trong đó cháu không hiểu nổi, một vài vẫn sẽ khiến cháu rùng mình và rơi nước mắt; nhưng cháu sẽ kể cho mọi người, cháu hứa, nhiều nhất có thể. Có điều mọi người cũng phải hứa một việc nữa.”

Hiệu trưởng nhìn sang vị phu nhân có mái tóc hoa râm với con linh thú khỉ đuôi sóc nằm trong lòng, một ánh nhìn thích thú lóe lên giữa hai người.

“Đó là gì vậy?” Quý bà Hannah hỏi.

“Mọi người phải hứa sẽ tin lời cháu,” Lyra nghiêm túc nói. “Cháu biết không phải lúc nào cháu cũng nói sự thật, và cháu đã chỉ có thể sống sót ở một vài nơi nhờ nói dối và bịa chuyện. Nên cháu biết đó là tính cách mà cháu vẫn luôn sở hữu, cháu cũng biết là mọi người biết điều đó, nhưng câu chuyện thật của cháu quá quan trọng để kể nếu mọi người chỉ định tin một nửa của nó. Vậy nên cháu hứa sẽ kể sự thật nếu hai người hứa sẽ tin vào nó.”

“Được, ta hứa,” Quý bà Hannah đáp, rồi Hiệu trưởng nói: “Ta cũng vậy.”

“Nhưng hai người biết điều mà cháu ước ao,” Lyra nói, “gần như - gần như hơn tất thảy mọi thứ khác không? Cháu ước gì mình không bị mất khả năng đọc Chân Kế. Ôi, chuyện này thật kì quặc, ông Hiệu trưởng ạ, cái cách mà nó đến lúc đầu và rồi cứ thế bỏ đi! Một ngày, cháu biết rất rõ - cháu có thể đi lên đi xuống các tầng ý nghĩa biểu tượng, bước từ cái này sang cái khác và liên kết mọi thứ lại - nó giống như…” Cô bé mỉm cười rồi nói tiếp: “À, cháu giống như một con khỉ trên cây vậy, rất nhanh nhẹn. Rồi đột nhiên - chẳng còn gì cả. Điều này hoàn toàn vô lí; cháu thậm chí còn không nhớ nổi bất cứ thứ gì trừ những ý nghĩa cơ bản như mỏ neo thì mang nghĩa hi vọng, còn đầu lâu có nghĩa là cái chết. Tất cả hàng ngàn ý nghĩa đó… Cứ thế tan biến.”

“Vậy nhưng chúng không tan biến đâu, Lyra ạ,” Quý bà Hannah nói. “Các cuốn sách vẫn nằm trong Thư viện Bodley. Sự uyên bác để nghiên cứu chúng vẫn tồn tại và sung túc.”

Quý bà Hannah đang ngồi đối diện với Hiệu trưởng trên một trong hai chiếc ghế bành bên cạnh lò sưởi, Lyra trên chiếc sofa đặt giữa họ. Cái đèn bên ghế của Hiệu trưởng là toàn bộ ánh sáng trong phòng, nhưng nó soi tỏ biểu cảm của hai người già. Lyra thấy mình đang chăm chú nhìn gương mặt của Quý bà Hannah. Dịu dàng, Lyra nghĩ, sắc sảo, và thông thái; nhưng ý nghĩa của nó thì cô chẳng thể đọc được gì hơn là đọc Chân Kế.

“Giờ thì,” Hiệu trưởng nói tiếp. “Chúng ta phải suy nghĩ về tương lai của cháu, Lyra ạ.”

Những câu từ của ông khiến cô rùng mình. Cô thu người rồi ngồi thẳng dậy.

“Trong suốt thời gian đi xa,” Lyra nói, “cháu chưa từng nghĩ về điều đó. Tất cả những gì cháu nghĩ tới chỉ là thời điểm mà mình đang sống; là hiện tại. Đã có rất nhiều lần cháu nghĩ rằng mình hoàn toàn sẽ chẳng có tương lai nào hết. Còn giờ… À, đột nhiên nhận thấy mình có cả một cuộc đời để sống, nhưng chẳng… nhưng chẳng biết phải làm gì với nó, giống như là sở hữu Chân Kế mà không biết làm thế nào để đọc được vậy. Cháu nghĩ mình sẽ phải làm việc, nhưng lại không biết phải làm gì. Cha mẹ cháu có thể giàu có đấy, nhưng cháu dám cá là họ chưa từng nghĩ tới việc dành riêng ra một khoản tiền cho cháu, mà dù sao thì cháu nghĩ đến giờ họ hẳn đã dùng hết toàn bộ tài sản của mình theo cách này hay cách khác rồi, nên kể cả cháu có quyền thừa kế gì đi chăng nữa thì cũng sẽ chẳng còn gì sót lại. Cháu không biết nữa, Hiệu trưởng ạ. Cháu quay trở lại Jordan vì nơi đây từng là nhà của cháu, cháu cũng chẳng có chỗ nào khác để đi nữa. Cháu nghĩ Quốc vương Iorek Byrnison sẽ cho phép cháu sống tại Svalbard, và cháu nghĩ Serafina Pekkala sẽ cho phép cháu sống cùng với bộ tộc phù thủy của cô ấy; nhưng cháu chẳng phải gấu cũng không phải phù thủy, nên cháu sẽ không thật sự hòa nhập được ở đó, dù có yêu mến họ đến nhường nào. Có khi những người du mục sẽ nhận cháu… Nhưng thật sự cháu không biết phải làm gì nữa rồi. Cháu thật sự thấy lạc lối.”

Họ nhìn cô bé: Đôi mắt cô đang long lanh hơn thường lệ, cằm cô hếch cao với một vẻ mà cô đã học từ Will dù không hề nhận ra. Trông cô vừa ngang ngạnh lại vừa lạc lối, Quý bà Hannah nghĩ, và bà thấy ngưỡng mộ cô bé vì điều đó; Hiệu trưởng thì lại thấy một điều khác - ông thấy sự duyên dáng một cách vô thức của đứa trẻ đã biến mất ra sao, và cô bé thấy lúng túng trong cơ thể đang trưởng thành của mình như thế nào. Nhưng ông yêu thương đứa trẻ này hết mực, và ông cảm thấy nửa tự hào, nửa kinh sợ trước dáng vẻ người lớn xinh đẹp mà cô sẽ trở thành, sớm thôi.

Ông nói: “Chừng nào học viện này còn đứng vững thì cháu sẽ không bao giờ bị lạc lối đâu, Lyra ạ. Đây là nhà của cháu chừng nào cháu còn cần đến nó. Còn về tiền bạc - cha cháu đã để lại một nguồn vốn để chăm lo cho tất cả các nhu cầu của cháu, và chỉ định ta làm người thực hiện; nên cháu không cần phải lo lắng về điều đó.”

Trên thực tế, Ngài Asriel không hề làm việc gì như vậy, nhưng Học viện Jordan rất giàu có, và Hiệu trưởng cũng có ngân sách của riêng mình, kể cả sau những biến động gần đây.

“Không,” ông nói tiếp, “ta đang nghĩ về việc học. Cháu vẫn còn rất nhỏ, mà việc giáo dục cháu cho đến nay vẫn phụ thuộc vào… Ờm, hết sức chân thành mà nói, vào vị học giả nào ít bị cháu đe dọa nhất,” ông nói, nhưng lại đang mỉm cười. “Việc đấy khá ngẫu nhiên. Giờ chuyện hóa ra lại là đến lúc thích hợp, những tài năng của cháu sẽ đưa cháu theo một hướng mà chúng ta hoàn toàn không thể dự đoán được. Nhưng nếu cháu định đặt Chân Kế làm đối tượng của công việc cả đời mình, và bắt đầu học một cách có ý thức những gì mình từng làm được nhờ trực giác…”

“Vâng,” Lyra quả quyết nói.

“… thì chẳng có phương án nào tốt hơn việc cháu đặt mình dưới sự chỉ dạy của người bạn tốt của ta, Quý bà Hannah đây. Không ai sánh nổi sự uyên thâm của bà ấy trong lĩnh vực đó đâu.”

“Hãy để ta gợi ý một việc,” vị phu nhân nói, “cháu không cần phải trả lời ngay đâu. Cứ suy nghĩ về nó đi đã. Học viện của ta không được thâm niên như Jordan, và dù sao đi nữa cháu cũng vẫn còn quá nhỏ để trở thành sinh viên đại học, nhưng một vài năm trước, chúng ta có được một căn nhà lớn ở miền bắc Oxford và quyết định thành lập một trường nội trú. Ta muốn cháu đến gặp Nữ hiệu trưởng và xem liệu mình có muốn trở thành một trong các học sinh của chúng ta hay không. Cháu thấy đấy một điều mà cháu sẽ sớm cần đến, Lyra ạ, là tình bạn với những cô bé cùng trang lứa khác. Có những điều mà chúng ta học hỏi từ nhau khi còn trẻ, và ta không nghĩ Jordan có thể cung cấp tất cả những điều đó. Nữ hiệu trưởng là một người phụ nữ trẻ thông minh, hoạt bát, sáng tạo, và tốt bụng. Chúng ta rất may mắn vì có được cô ấy. Cháu có thể nói chuyện với cô ấy, và nếu thích ý tưởng đó, cháu có thể tới nhận Thánh Sophia làm trường của mình, cũng như Jordan là nhà của cháu vậy. Còn nếu cháu muốn bắt đầu nghiên cứu Chân Kế một cách có hệ thống, cháu và ta có thể có vài buổi kèm riêng. Nhưng vẫn còn thời gian, cháu yêu ạ, còn rất nhiều thời gian. Đừng trả lời ta ngay bây giờ. Cứ để đó cho tới khi cháu sẵn sàng.”

“Cảm ơn bà,” Lyra nói, “cảm ơn bà, Quý bà Hannah, cháu sẽ làm theo.”

Hiệu trưởng đã giao cho Lyra chìa khóa riêng để mở cửa vào vườn, để cô có thể đến và đi theo ý muốn. Đêm khuya hôm đó, ngay khi người gác cổng đang khóa chòi canh, cô và Pantalaimon liền lẻn ra ngoài rồi tìm đường qua những con phố tối tăm, lắng nghe tất cả những tiếng chuông của Oxford điểm nửa đêm.

Khi đã vào trong Vườn Bách thảo, Pan chạy đi trên cỏ, dồn một con chuột về phía bức tường rồi để nó đi và lao vọt lên cây thông vĩ đại gần đó. Thật mừng khi thấy nó nhảy nhót qua những cành cây ở cách cô rất xa, nhưng chúng phải cẩn thận không làm điều đó khi có người đang nhìn; năng lực chia tách của phù thủy mà chúng đã đạt được một cách đau đớn phải được giữ bí mật. Trước đây, cô hẳn sẽ hăm hở khoe khoang với tất cả lũ bạn đường phố của mình, khiến chúng trợn mắt vì kinh sợ, nhưng Will đã dạy cô giá trị của sự im lặng và thận trọng.

Cô ngồi lên ghế, đợi Pan tới chỗ mình. Nó thích khiến cô bất ngờ, nhưng thường thì cô luôn nhìn thấy nó trước khi nó tới nơi, và kia là hình dáng lờ mờ của nó, đang lao đi bên cạnh bờ sông. Cô nhìn đi hướng khác, giả bộ như mình chưa thấy nó, rồi đột ngột tóm lấy con linh thú khi nó nhảy lên ghế.

“Suýt nữa thì thành công rồi,” nó nói.

“Cậu sẽ phải làm tốt hơn thế đấy. Tớ nghe thấy tiếng cậu lao tới suốt từ chỗ cổng vào cơ.”

Nó ngồi trên lưng ghế với hai chân trước đặt lên vai cô.

“Chúng ta sẽ nói gì với bà ấy đây?” Nó hỏi.

“Chúng ta sẽ đồng ý,” cô đáp. “Đằng nào thì cũng chỉ là gặp cô Hiệu trưởng kia thôi mà. Đâu phải là vào trường đâu.”

“Nhưng chúng ta sẽ học ở đó, đúng không?”

“Ừ”, cô nói, “có lẽ vậy.”

“Như thế khéo lại hay.”

Lyra thắc mắc về những học sinh khác, chúng có thể sẽ thông minh hơn cô, hoặc thông thạo hơn, và chắc chắn là chúng biết nhiều hơn cô về mọi thứ quan trọng đối với con gái ở tuổi của mình. Còn cô thì sẽ chẳng thể kể cho chúng nghe cả trăm thứ mà mình biết, chúng sẽ phải nghĩ rằng cô là kẻ đơn giản và chẳng biết gì.

“Cậu có nghĩ Quý bà Hannah thật sự có thể đọc Chân Kế không?” Pantalaimon hỏi.

“Có mấy cuốn sách kia thì tớ dám chắc là bà ấy có thể. Không biết có bao nhiêu cuốn nhỉ? Tớ dám cá là chúng ta có thể học hết đống đó, và thực hiện mà không cần xem. Cứ tưởng tượng phải bê theo một chồng sách đi khắp nơi mà xem… Pan?”

“Gì?”

“Liệu cậu có bao giờ kể cho tớ nghe những gì mình và linh thú của Will đã làm khi chúng ta tách nhau không?”

“Một ngày nào đó,” nó đáp. “Cậu ấy cũng sẽ kể cho Will nghe, một ngày nào đó. Chúng tớ đã nhất trí rằng mình sẽ biết khi nào là thời điểm thích hợp, nhưng cho đến lúc đó thì chúng tớ sẽ không kể cho bất cứ ai trong số các cậu.”

“Được rồi,” cô bé hòa hoãn nói.

Cô đã kể cho Pantalaimon nghe mọi thứ, nhưng cũng đúng khi nó có vài bí mật với cô, sau khi đã bị cô bỏ mặc như thế.

Cô cũng thấy an ủi khi nghĩ rằng mình và Will lại có thêm một điểm chung nữa. Cô tự hỏi liệu sẽ có một giờ nào đó trong cuộc đời mình mà cô không nghĩ tới cậu; không nói chuyện với cậu trong đầu mình, không sống lại mọi khoảnh khắc chúng đã ở bên nhau, không khao khát giọng nói của cậu, đôi tay cậu và tình yêu của cậu hay không. Cô chưa từng mơ tới cảm giác yêu thương một ai đó quá mức; giữa tất cả những điều đã khiến cô kinh ngạc trong những chuyến phiêu lưu của mình, đó là điều khiến cô kinh ngạc nhất. Cô nghĩ rằng sự dịu dàng mà nó để lại trong tim cô giống như một vết thâm tím sẽ không bao giờ biến mất, nhưng cô sẽ mãi trân trọng nó.

Pan luồn xuống ghế rồi nằm cuộn tròn trong lòng cô. Chúng cùng được an toàn trong bóng tối, cô bé, linh thú của cô và những bí mật của chúng. Đâu đó trong thành phố say ngủ này là những cuốn sách sẽ cho cô biết cách đọc Chân Kế, người phụ nữ tốt bụng và uyên bác sẽ dạy dỗ cô, và những bạn gái ở trường, những người biết nhiều hơn cô rất nhiều.

Cô nghĩ: Họ chưa biết điều này, nhưng họ sẽ trở thành bạn mình.

Pantalaimon lầm bầm: “Điều mà Will nói…”

“Khi nào cơ?”

“Trên bãi biển, ngay khi cậu thử đọc Chân Kế. Cậu ấy nói không còn bất cứ nơi nào khác. Đó là điều mà bố cậu ấy đã nói với cậu. Nhưng vẫn còn một điều khác.”

“Tớ có nhớ. Ý ông ấy là vương quốc đó, thiên quốc, đã chấm dứt, tất cả đã kết thúc. Chúng ta không nên sống như thể nó quan trọng hơn cuộc sống này trên thế giới này, bởi vì nơi chúng ta ở luôn là nơi quan trọng nhất.”

“Ông ấy nói chúng ta phải xây dựng một thứ gì đó…”

“Đó là lí do chúng ta cần trọn vẹn cuộc đời mình, Pan ạ. Đáng ra chúng ta đã đi cùng Will và Kirjava rồi, không phải sao?”

“Phải. Đương nhiên rồi! Và họ đáng ra cũng đã đi với chúng ta. Nhưng…”

“Nhưng khi đó thì chúng ta sẽ không thể xây dựng được nó nữa. Chẳng ai có thể, nếu họ đặt bản thân lên trên hết. Chúng ta phải làm tất cả những điều khó khăn như là vui vẻ, tốt bụng, tò mò, dũng cảm, kiên nhẫn, chúng ta phải học tập và suy nghĩ, phải làm việc chăm chỉ, tất cả chúng ta, trong tất cả những thế giới khác biệt của mình, và rồi chúng ta sẽ xây nên…”

Hai tay cô đang đặt lên bộ lông bóng mượt của con linh thú. Đâu đó trong khu vườn, một con chim sơn ca đang hót, một ngọn gió thoảng chạm vào mái tóc cô và lay động đám lá phía trên. Tất cả những tiếng chuông khác biệt trong thành phố ngân lên, từng cái một, cái này cao, cái kia thấp, có cái gần, những cái khác lại xa, có cái vỡ vụn và cáu bẳn, cái khác lại trang nghiêm và âm vang, nhưng đều đồng tình bằng tất cả những tiếng nói khác biệt của mình về thời gian lúc đó, dù cho một vài trong số chúng đến được đó hơi chậm hơn những cái khác. Trong Oxford kia, nơi cô và Will đã hôn từ biệt, chuông cũng sẽ ngân vang, một con sơn ca sẽ cất tiếng hót, và một cơn gió nhẹ sẽ lay động lá trong Vườn Bách thảo.

“Và rồi sao?” Con linh thú của cô ngái ngủ hỏi. “Xây cái gì cơ?”

“Nước cộng hòa thiên đường,” Lyra đáp.