← Quay lại trang sách

Dương bản đèn chiếu

Đôi khi một tác giả có thể quay lại thăm một câu chuyện và chơi đùa với nó, không phải để chuyển thể nó sang một phương tiện truyền đạt khác (với một tác giả gốc, việc thực hiện điều đó không phải lúc nào cũng là một ý tưởng hay), hoặc để chỉnh sửa hay “cải tiến” nó (dù việc đó rất lôi cuốn nhưng giờ thì muộn rồi: Đáng ra anh phải làm thế trước khi câu chuyện được xuất bản, còn giờ công việc của anh là với những cuốn sách mới, chứ không phải những cuốn cũ). Chỉ đơn thuần để chơi đùa thôi.

Trong mỗi câu chuyện kể lại có những khoảng hở: Những nơi mà tại đó, mặc dù có các sự việc xảy ra, các nhân vật nói chuyện, hành động và sống cuộc sống của họ, nhưng câu chuyện lại chẳng hề nhắc gì đến những thứ đó cả. Thật thú vị khi thăm viếng một vài khoảng hở này và suy đoán đôi chút về điều tôi có thể thấy ở đây.

Còn về lí do vì sao tôi lại gọi những mẩu nhỏ này là “dương bản đèn chiếu”, thì đó là do tôi còn nhớ những chiếc hộp gỗ mà ông của tôi từng có, trong mỗi chiếc lại được xếp gọn gàng những tấm dương bản thể hiện các cảnh trong những câu chuyện của Kinh Thánh, những câu chuyện thần tiên, ma quỷ hay những vở kịch hài nho nhỏ với các hình dạng ngớ ngẩn. Cứ thỉnh thoảng ông lại lấy ra chiếc đèn chiếu ma thuật nặng nề và cũ mèm rồi chiếu vài tấm ảnh này lên một bức màn, còn chúng tôi sẽ ngồi trong một căn phòng tối có mùi kim loại bị nung nóng để nhìn ngắm từng khung cảnh nối tiếp nhau, cố gắng hiểu được mạch chuyện và thắc mắc không biết Thánh Paul đang làm gì trong câu chuyện về Cô bé quàng khăn đỏ; bởi vì chúng chẳng bao giờ ra khỏi hộp theo đúng thứ tự cả.

Tôi nghĩ thứ mà Ngài Asriel sử dụng trong chương hai của Bắc Cực Quang chính là chiếc đèn chiếu ma thuật của ông tôi. Sau đây là một vài tấm dương bản đèn chiếu, và chúng có đi theo thứ tự nào thì cũng chẳng quan trọng.

Philip Pullman

Oxford

Tháng Hai năm 2007

*

Học viện Jordan, giống như một hệ thống máy đồng hồ khổng lồ với mỗi phần lại gắn kết một cách chặt chẽ với tất cả những phần còn lại, tất cả cùng chầm chậm và nặng nề tích tắc bất chấp lớp bụi phủ lên mọi bánh răng, những bức màn mạng nhện bọc lấy mỗi ngóc ngách, phân chuột, xác côn trùng, những bộ gân lá bị thổi vào mỗi khi gió tới từ hướng đông… Những nghi lễ và thói quen mà chẳng ai nhớ nổi nguồn gốc, nhưng cũng chẳng ai muốn làm nhiễu loạn. Những bánh xe khổng lồ và những chiếc nhỏ hơn, những cái trục và đòn bẩy, tất cả đều thực hiện chức năng của mình mặc cho kết cấu gỗ cổ xưa không ngừng rền rĩ đủ thứ tiếng cọt kẹt. Đôi khi các bộ phận riêng lẻ (một người phục vụ hay một Học giả) quên mất chính xác chức năng của mình là gì trong mối tương quan với tổng thể, nhưng không bao giờ quên rằng tổng thể có một chức năng; thế là chỉ việc lặp lại những việc đã làm ngày hôm qua cùng mọi ngày trước đó, và tin tưởng vào tục lệ, vậy là đủ.

Lyra thơ thẩn trong xưởng đóng tàu Castle Mill. Mỗi gia đình du mục lại có những họa tiết đặc thù để trang trí thuyền bè của họ, dựa trên những mẫu thiết kế hoa cách điệu nhưng phức tạp và lộng lẫy hơn nhiều lần. Một ngày nọ, Lyra quan sát ông già Piet van Poppel sơn sửa thuyền của mình và hì hục chép lại mẫu hoa hồng và huệ tây mà ông đang sử dụng, sau đó cô trở lại phòng, cố gắng vẽ nó lên bộ đầm đẹp thứ nhì của mình trước khi nhận ra rằng đáng ra nó nên được thêu. Ngay sau đó, sau khi đã châm kim vào các ngón tay vô số lần, làm đứt chỉ, và mất hết kiên nhẫn với công việc này, cô bực tức vứt bộ đầm đi, để rồi phải giải thích sự vắng mặt của nó với cô Lonsdale.

Lee Scoresby, bị thu hút tới phía bắc bởi số tiền được tạo ra từ cơn sốt vàng nhưng lại chẳng kiếm được gì, thay vào đó ông lại tình cờ giành được một chiếc khí cầu trong một trận đấu bài. Trong một thời gian ngắn, ông đã từng là người tình của một phù thủy đến từ vùng Karelia, nhưng cô đã bị hạ sát khi giao chiến - “Vì cô ấy mà tôi không bao giờ để mắt đến những phụ nữ trẻ hơn ba trăm tuổi nữa”; nói thế nhưng ông vẫn có cả núi người tình.

Asriel giữa bầy gấu: “Iofur Raknison, ta sẽ hoàn toàn thẳng thắn với ông,” nối tiếp bởi một tràng dối trá đầy tự tin và hống hách - liệu có phải ông đã nhận ra con linh thú búp bê của vua gấu, manh mối thể hiện rằng nó không giống gấu đến mức có thể bị lừa? Hay đó chỉ là may mắn? - nhưng ông hiểu lũ gấu đủ rõ. Ông rất giống con gái mình.

Phu nhân Coulter lựa chọn người tình của mình dựa trên thế lực và tầm ảnh hưởng của họ, nhưng nếu họ có ưa nhìn thì cũng chẳng tổn hại gì. Bà đã từng thực sự yêu mến một người tình nào chưa? Chưa từng. Bà cũng chẳng thể giữ nổi những người phục vụ của mình.

Lyra cảm nắng Dick Orchard, thằng bé lớn tuổi hơn có thể nhổ nước bọt xa hơn bất cứ ai. Cô bé sẽ đi lang thang trong Chợ Mái che, vô vọng nhìn thằng bé, và vụng về hôn lấy hôn để lên cái gối của mình, chỉ để xem cảm giác của nó sẽ như thế nào.

Hằng năm, Thủ quỹ Nội bộ tại Jordan sẽ gọi Lyra tới - hoặc lần theo cô bé rồi tóm gọn - để chụp ảnh. Lyra cam chịu với vẻ thờ ơ, gầm ghè về phía máy ảnh; đó chỉ là một trong những chuyện xảy ra. Cô bé chưa từng nghĩ đến việc hỏi xem những bức ảnh đó sẽ được gửi về đâu. Thật ra tất cả đều sẽ đến chỗ Ngài Asriel, nhưng ông không đời nào lại để cho cô bé biết.

Thợ làm bánh Benny tại Jordan, người có linh thú cũng là đực, đang ngồi trong căn buồng ấm cúng cùng với các anh em họ thuộc gia đình Costa của mình, lắng nghe việc Lyra đã cướp thuyền của họ như thế nào, và việc họ yêu cầu phải trừng phạt con nhóc hỗn xược, ông không thể kìm nén được trước sự căm phẫn của họ nên đã phá lên cười. Để bù lại, ông kể cho họ nghe về việc cô bé đã cứu thoát một con chim sáo đá khỏi vuốt của con mèo nhà bếp, chỉ để chứng kiến nó chết đi sau đó như thế nào, rồi cô đã vụng về nhổ lông, moi ruột con chim rồi lén nhét nó vào cái lò nướng lớn ra sao, với hi vọng lấy lại được nó sau khi đã nấu chín. Nhưng bếp trưởng lập tức tống khứ cô bé ra ngoài, và trong sự hối hả, con sáo đá đã được bưng tới bàn ăn cùng với phần còn lại của yến tiệc, và được Hiệu trưởng dùng với vẻ thích thú. Sự thật lộ ra khi người ta phải gọi bác sĩ đến để chữa trị cho cơn đau của người đàn ông tội nghiệp. Lyra không tỏ ra chút hối hận. “Nó đâu phải để dành cho ông ấy,” cô nói. “Rõ ràng là dạ dày của ông ấy quá yếu. Cháu có thể đã ăn được nó rồi.” Cô bé bị cấm vào Bếp trong một thời gian. “Anh thấy chúng ta đã thoát được một thảm họa rồi đó,” Tony Costa nói.

John Parry và chiếc nhẫn bằng ngọc lam: Làm sao ông lại có được nó? Ta có thể kể một câu chuyện về chiếc nhẫn và mọi điều đã xảy ra với nó kể từ khi nó rời khỏi ngón tay người mẹ của Lee Scoresby; ta cũng có thể kể một câu chuyện về bản thân Lee nữa, thuật lại thật chi tiết toàn bộ lịch sử của ông, từ thuở niên thiếu đến thời điểm ông ngồi bên cạnh căn lều nhỏ trên bờ sông ngập nước của Yenisei, nhìn nắm tay của vị pháp sư mở ra, để lộ cái vật được yêu thích vô cùng mà cách đó rất lâu, ông đã xoay nó không ngừng quanh ngón tay của mẹ mình. Các mạch truyện chệch đi, tách khỏi nhau rất xa rồi lại tụ lại, và có chuyện xảy ra khi chúng chạm tới nhau. Cái chuyện đó sẽ dẫn Lee đến với cái chết của mình, nhưng chuyện gì đã xảy ra với cái nhẫn? Nó hẳn vẫn còn ở đâu đó, quanh đây.

Suốt thời gian ở Cittàgazze, ý thức về việc một nơi có thể khác biệt đến nhường nào nếu nó không bị mục nát; sẽ dễ dàng ra sao khi con dao không được tạo ra, nếu người ta thấy được những hậu quả. Một thế giới tràn trề sung túc, thế giới của những bãi biển xinh đẹp và thời tiết ôn hòa, của phồn vinh và hòa bình - vậy mà người ta vẫn muốn nhiều hơn.

Will và mẹ của cậu, tới thăm một đôi vợ chồng có vẻ luống tuổi trong một căn nhà đồ sộ, và được chào đón một cách lạnh nhạt. Cậu bé thấy bối rối: Cậu còn quá nhỏ để hiểu được cuộc nói chuyện, những tiếng nói rì rầm, những giọt nước mắt của mẹ cậu. Sau này, tất cả những gì cậu nhớ được là vẻ khinh bỉ trên gương mặt người đàn bà lớn tuổi, cảm giác rằng hai kẻ này coi người mẹ yêu quí của cậu như cỏ rác, và sự cương quyết mãnh liệt của bản thân không bao giờ để bà phải hứng chịu sự tàn ác đó một lần nữa. Lúc đó cậu sáu tuổi. Nếu có thể giết họ, cậu hẳn sẽ làm. Rất lâu sau đó, cậu nhận ra rằng họ chính là phụ mẫu của bố mình.

Lyra nằm thao thức trên những phiến đá lạnh lẽo, giả vờ đang ngủ, trong lúc Will thì thầm với linh thú của cô. Vào những ngày sau đó, cô không ngừng nghĩ tới điều đấy!

Ô cửa ở Alaska. Hẳn nhiên là những người ở vùng này, nếu họ có biết tới nó, sẽ cho rằng đó là cánh cửa vào thế giới linh hồn; hẳn nhiên là những ô cửa sổ khác dẫn tới thế giới của chúng ta sẽ rất khó tìm, và thường bị bỏ quên. Người ta không thích những thứ kì bí, nên thay vì nhìn thẳng vào một thứ gây khó chịu, họ sẽ né tránh nó bằng được. Căn nhà mà dường như đã không có ai sinh sống trong một thời gian dài, một góc cánh đồng mà nông dân không bao giờ có thể cày bừa nổi, bức tường hỏng mà luôn luôn sắp được sửa, nhưng lại chẳng bao giờ được đụng tới… Có một nơi như thế ở Cader Idris thuộc phía bắc Xứ Wales, và một nơi khác trong một phòng ngủ khách sạn ở Glasgow.

Ngài Charles Latrom hằng sáng đều nhỏ hai giọt tinh dầu hoa vào chính giữa một chiếc khăn tay lớn bằng lụa, sau đó ông sẽ cuộn nó lại rồi cứ thế nhét một cách bất cẩn vào túi áo trên cùng của mình, ông không thể đặt tên cho thứ dầu này được: Ông đã lấy cắp nó từ một khu chợ ở Damascus, nhưng là Damascus thuộc một thế giới khác, nơi những bông hoa này được gây giống vì sự nồng nàn như da thịt tới từ mùi hương của nó. Khi phát triển qua ngày, mùi thơm của dầu mục thối như một quả sơn trà; Ngài Charles sẽ ngả đầu sang trái rồi hít hà với vẻ mãn nguyện, có lẽ là quá thẳng thắn khiến hầu hết những người ở đó đều thấy khó chịu.

Cittàgazze dưới ánh trăng, hoang vu, tĩnh lặng và thoáng đãng: những dãy cột ướt sũng trong bóng râm dịu nhẹ, các khu vườn sòng bạc được cắt tỉa và quét dọn thật hoàn hảo, những con đường rải sỏi… Tất cả các ngôi nhà đều sáng đèn, tất cả những cánh cửa đều mở toang chào đón màn đêm ấm áp. Đó là nơi đầu tiên mà Will từng cảm thấy an toàn trọn vẹn, được chào đón toàn vẹn, và hoàn toàn thoải mái như ở nhà. Cô độc, có chứ, ban đầu thì thế, nhưng cậu bé sống trong điều kiện đó chẳng khác nào cá vẫy vùng trong nước. Cậu sẽ không bao giờ biết được trông mình kì quặc đến không tưởng thế nào khi Lyra lần đầu thấy cậu.

Mary cứ nghĩ rằng người mulefa không có lịch sử, nhưng đó là bởi lịch sử mà bà được dạy trong trường là về chính trị, sự xung đột giữa những thành bang của đất nước, sự hưng thịnh và suy tàn của các đế chế. Trong thời gian sống giữa loài mulefa, bà đã học được về một loại Lịch sử khác. Họ không hề quên bất cứ thứ gì mà mình từng biết tới, những thứ như câu chuyện về trận bão khổng lồ mười lăm nghìn năm về trước, hay sự khám phá ra loài cây sợi chão, hoặc hành trình dài cả tuần trời của một người sống sót trong vụ động đất ở bờ biển phía nam, vừa chăm sóc cái bánh xe đã bị vỡ của mình, anh ta vừa phải băng qua đất nước để tránh lũ lụt, là toàn bộ chủ đề của câu chuyện kể dài dòng và rối rắm, được thêu dệt và đối âm bởi cả người kể chuyện lẫn các thính giả. Mary không ở bên họ đủ lâu để khám phá ra liệu họ có khái niệm về giả tưởng - hay liệu thật ra, những câu chuyện đó là được ghi nhớ hay được sáng tác ra.

Bánh bạc hà Kendal, và sự tò mò vừa cảnh vẻ vừa tế nhị của Balthamos khi ông nhấm nháp một cạnh của nó. Trong suốt phần còn lại của cuộc đời, hương vị của bạc hà tẩm đường luôn gợi lại hình ảnh đó trong tâm trí của Will, và cậu lại ở đó, bên cạnh đống lửa nhỏ bốc khói, với dòng nước tung bọt trong bóng đêm gần kề.

Trong thế giới của Lyra: các linh thú, trong thế giới của người mulefa: những cái bánh xe chứa dầu - cả hai cách đều khiến cho hoạt động của Bụi hiện ra rõ ràng. Còn thế giới của chúng ta là gì?

Lại là Will, về sau này: Cảm giác mà bàn tay và trí não cậu đã cùng nhau học được khi chóp nhọn của con dao lần tìm trong những hạt vật chất nhỏ bé nhất của không khí, cảm giác của cảm nhận mà không cần đụng chạm, của hiểu biết mà không phá hỏng, của thông suốt mà không tính toán. Cậu không bao giờ để mất nó. Khi là một sinh viên ngành y, thỉnh thoảng cậu lại phải giả bộ chuẩn đoán sai một lần: Thành công khiến cậu có nguy cơ bị coi như có siêu năng lực. Sẽ an toàn hơn khi đã có đủ tư cách để đi thẳng tới đáp án đúng. Và rồi quá trình trọn đời phải học cách giải thích nó được bắt đầu.

Mary, mê mải và sung sướng khi đùa nghịch với sơn mài để tạo ra cái ống nhòm của mình; đùa nghịch là điều mà bà chưa bao giờ có thể giải thích được với người cộng sự Oliver Payne, ông cần phải biết mình đang làm gì trước khi tiến hành. Trở lại Oxford, bà đã đem ba trong số những hạt giống cây bánh xe quý giá của mình tặng cho một nhà khoa học tại Vườn Bách thảo, một người tử tế hiểu được tầm quan trọng của việc đùa bỡn. Đám cây con đang lớn lên khỏe mạnh, nhưng bà từ chối kể cho ông biết chúng tới từ đâu.

Trên bãi biển, chiếc Chân Kế đột ngột trở nên trơ lì trong đôi tay của Lyra, như thể nó đã bỏ rơi cô bé vậy.

Một miền bất tận của màu lục ánh bạc và màu nâu vàng cát lấp lánh, tiếng thì thầm của cỏ miên man trong làn gió ấm áp. An yên, nắng tràn.

Phu nhân Coulter trong động, quan sát Will, suy đoán; Will quan sát bà, suy đoán. Những từ ngữ của họ giống như những quân cờ, được đặt xuống với sự cẩn trọng tột bậc, mỗi quân lại mang theo vầng hào quang vô hình của ẩn ý, khả năng và đe doạ. Về sau, cả hai đều cảm thấy như thể họ đã thoát chết trong gang tấc.

Lyra năm mười tám tuổi ngồi miệt mài và chăm chú trong Thư viện Công tước Humfrey cùng với Chân Kế và một chồng sách bọc da. Vén tóc ra sau hai tai, miệng ngậm bút chì, ngón tay lần xuống một danh sách các biểu tượng, Pantalaimon giữ những trang giấy cũ cứng đờ mở ra cho cô… “Nhìn này, Pan, có một dạng khuôn mẫu ở đây - thấy không? Đó là lí do tại sao chúng lại đi theo trình tự đó!” Cảm giác lúc đó như mặt trời vừa ló rạng vậy. Đó là điều thứ hai cô kể với Will vào ngày hôm sau trong Vườn Bách thảo.

Chú thích:

[1] Danh hiệu dành cho các vị tái sinh, hóa thân của các Lạt-ma quá cố trong Phật giáo Tây Tạng.

[2] Loại trực thăng có cánh quạt nâng tự do, là loại máy bay đặc biệt lai tạp giữa máy bay có cánh cố định và trực thăng.

[3] Here’s the church, and here’s the steeple: Bài đồng dao có kết hợp với những cử động của bàn tay, rất phổ biến với trẻ em Anh Quốc.

[4] Một dạng canxit trong suốt được dùng để chứng minh sự phân cực của ánh sáng.

[5] Loại bánh mỏng, dẹp, tròn như chiếc đĩa, được làm từ bột mì nguyên chất của Ấn Độ và một số nước Nam Á khác.

[6] Loại bánh mì dạng dẹt được làm từ bột ngô hoặc bột mì, có xuất xứ từ Mexico và các nước Nam Mỹ.

[7] Thuật ngữ chỉ đáy biển.

[8] Yêu nữ đầu người mình chim trong thần thoại Hy Lạp.

[9] Đôi cánh thanh nhã.