CHƯƠNG 31
Joey Perrone dụi đầu vào cái áo khoác da cừu của anh trai.
“Ở lại chơi vài ngày nữa đi anh?”
“Anh phải về, còn chinh chiến và yêu đương nữa chứ,” Corbett Wheeler. “Với lại, không có anh thì lũ cừu biết sống sao.”
“Em mong anh biết mình đang làm gì. Lỡ cô kia chỉ thích bồ bịch vớ vẩn thôi thì sao?”
“Em gái à, đời này còn nhiều bi kịch tồi tệ hơn nhiều mà.”
Joey giả vờ thét lên phẫn nộ rồi kéo sụp cái mũ Corbett đang đội xuống qua mắt. Mick Stranahan mang hành lý ra trực thăng, cái trực thăng suýt nữa khiến Đầu Đất trụy tim khi đáp xuống đảo. Phi công khởi động lại cánh quạt, Joey lùi ra xa, cố để không khóc.
Corbett làm động tác hôn gió rồi xoay gậy bước đi. Trước khi lên lên máy bay, anh dừng lại bắt tay Stranahan một cái. Joey chăm chú nhìn hai người đàn ông của đời mình nói chuyện với nhau. Mick gật đầu và có vẻ như hỏi lại mấy câu. Rồi anh trở lại đứng cạnh cô khi cái trực thăng nhấc mình khỏi mặt đất. Hai người vẫy tay chào thật mạnh khi chiếc máy bay trực chỉ đất liền.
“Ricca sẽ gặp ảnh ở sân bay. Cổ có chuyện phải tạt qua Boca vào sáng nay,” Stranahan thông báo.
“Chuyện gì nữa?” Joey hỏi.
“Thì chuyện đó đó.”
“Coi nào, Mick. Hai anh có gì giấu em vậy?”
“Không có gì, thiệt đó,” anh nhấn mạnh. “Ảnh chỉ muốn cám ơn anh vì đã chăm sóc em. Ảnh bảo chú coi vậy mà lì lợm, vì con nhỏ phiền phải biết. ”
Joey rượt anh chạy về tận bến tàu. Ở đó, họ cởi đồ cho nhau và cùng nhảy ùm xuống biển. Họ bơi quanh đảo đến vòng thứ ba thì một chiếc tàu kiểm lâm bất ngờ xuất hiện. Đó là một chiếc SeaCraft lớn với động cơ đôi Mercury. Trên tàu là một nhân viên cơ bắp người Cuba, tầm bốn mươi tuổi. Anh nhìn cặp đôi đang bơi lội và cười toe toét.
“Chà, có vài thứ chẳng thay đổi nhỉ,” anh nói.
“Chào, Luis.”
“Chào, Mick. Chào quý cô xinh đẹp.”
Liếc nhìn thận trọng qua vai của Mick, Joey khẽ chào người lạ.
“Xin giới thiệu với em, Luis Cordova huyền thoại,” Stranahan vừa đứng nước vừa nói. “Tụi anh biết nhau từ thời ở Stiltsville. Hồi ấy ảnh mới là một gã tân binh trong đội tuần tra biển. Bây giờ thì ngon rồi, sĩ quan chiến của Sở Lâm Viên, chuyên do thám mấy người tắm tiên hồn nhiên.”
Luis Cordova cười rộ trong lúc thả neo. “Tớ đến đây là vì việc công đấy nha, ông bạn già mê gái.”
“Ây, đừng nói với tớ là ngài Zedillo thăng thiên rồi nhé,” Stranahan nói.
Miguel Zedillo là nhà văn người Mexico làm chủ hòn đảo này. Joey đã nhìn thấy tên ông ở chồng sách trên kệ, trong phòng ngủ của Mick. Anh cho cô biết sức khỏe của ông dạo này rất tệ và hòn đảo có lẽ sẽ bị bán khi ông qua đời. Joey bỗng reo vui, cô nói cô sẽ mua lại hòn đảo này cho hai người. Mick mừng rỡ đến mức kéo cô xuống làm tình ngay dưới bàn ăn.
“Bình tĩnh nào,” Luis Cordova nói. “Theo chỗ tớ biết thì ông già vẫn còn sống và đang hưởng thụ ở Tampico. Tớ đến đây hỏi thăm cậu về một chiếc thuyền bị bỏ ngoài khơi.”
Mick chụp lấy sợi dây thừng, Joey bám vào lưng để anh cõng lên thuyền. Người kiểm lâm viên kéo hai người lên SeaCraft, để họ nghỉ ngơi ở khoang lặn. Joey rất hài lòng khi thấy Luis Cordova là một quý ngài đích thực, đã chủ động né ánh mắt ra khỏi cặp mông trần của cô.
“Thuyền nào đó?” Mick hỏi.
“Một con thuyền thuê dài bảy mét, đậu trên bãi cạn của Mũi Florida vào đêm qua, có lẽ sau khi cơn bão đi qua. Không thấy đồ lặn, không thấy đồ câu, mà cũng không thấy ai sất. Chỉ có một cây đèn pin đã bể và vài vệt máu bên mép thuyền.”
“Máu người á?”
Luis Cordova giang rộng hai tay. “Vậy tớ mới tìm cậu nè.”
“Giấy tờ trên tàu có cho manh mối gì không?”
“Không giấy tờ gì sất, Mick,” người kiểm lâm nói. “Công ty cho thuê bảo con thuyền đã bị trộm trước khi bão tới. Nhưng tớ nghĩ bọn cho thuê tàu đang bao che ai đó.”
“Thuyền dài tới bảy mét à?”
“Có dù Bimini màu xanh ở trên, động cơ Yamaha bốn kỳ.”
Stranahan nói: “Xin lỗi Luis. Tớ chẳng thấy con thuyền nào giống vậy cả.”
Joey nói thêm: “Tụi em ở trong nhà cả đêm. Thời tiết ghê quá mà.”
“Ghê thiệt,” Luis Cordova đồng ý. Anh vẫn ga lăng, nói chuyện với mỹ nhân mà chỉ nhìn từ cổ trở lên. “À, quý cô đây tên gì nhỉ?”
Joey, hai tay vẫn đang che bộ ngực trần, huých nhẹ cùi chỏ vào xương sườn của Mick. Anh liền hiểu ý.
“Cổ còn mắc cỡ lắm,” anh nói với người bạn kiểm lâm. “Mấy chuyện gia đình tế nhị ấy mà. Cậu hiểu mà phải không?”
“À, tớ có nhắc đến lỗ đạn ở kính chắn gió chưa nhỉ?”
“Chưa, Luis.”
“Hôm qua hai người có nghe thanh âm gì không - tiếng súng chẳng hạn?”
“Bão như điên ngoài kia làm sao còn nghe được gì,” Stranahan nói.
Joey nói thêm, “Tụi em ngồi sát bên nói chuyện mà còn muốn không nghe mà.”
Luis Cordova gật đầu, nhưng Joey có cảm giác là anh chưa thật sự tin.
Luis nói: “Ừa, tớ nói cái này mong cậu bỏ quá cho. Cứ mỗi lần thấy vệt máu trên thuyền, tớ nghĩ ngay đến cậu, Mick à.”
“Cám ơn cậu đã đánh giá cao, nhưng thời gian qua tớ sống đời tẻ nhạt lắm.”
“Ờ, tớ thấy mà,” Luis Cordova nói giọng khô khốc. “Xin lỗi vì làm phiền buổi chiều của hai người. Muốn tớ chở về lại bến tàu không?”
“Thôi, bọn tớ sẽ bơi vào.” Stranahan lùi dần về phía đuôi tàu để trở lại mặt biển, Joey vẫn ôm lấy vai anh. “Gặp cậu vui quá, bạn mình,” anh nói với người kiểm lâm.
“Tớ cũng thế.”
“Anh đang truy tìm một xác chết à?” Câu hỏi vọt ra khỏi miệng Joey mà chính cô cũng không ngờ tới. Stranahan thò tay xuống và véo nhẹ vào mông cô một cái.
“Xác chết ư?” Luis Cordova nói.
Joey nghĩ thêm: Trời ơi, sao mình lại ngu thế!
“Ý tôi là,” cô nói. “Có lẽ ai đó đã rơi khỏi thuyền vì cơn bão ấy.”
Người kiểm lâm bảo chưa thấy thông báo mất tích gì cả. “Nhưng đừng quên đây là Miami,” anh nói thêm. “Thỉnh thoảng người ta mất tích mà chẳng có ai báo cảnh sát cả. Đại dương bao la quá mà.”
Tôi còn không biết vụ ấy sao, Joey tự nói với mình.
Trong lúc bơi trở lại đảo, cô không thể ngăn mình suy nghĩ về thằng chồng. Nếu như phát hiện thấy cái vali chứa nửa triệu đô trên con thuyền vô chủ, Luis Cordova có lẽ đã nói ra.
Còn nếu như không thấy vali lẫn không thấy xác, phải chăng Chaz Perrone vẫn sống và giông thẳng với mớ tiền ấy. Nghĩ đến viễn cảnh ấy cô chịu không nổi.
“Anh cứ bảo em là đừng có lo,” cô hét lên với Mick, đang bơi sau lưng cô tầm chục thước. “Giờ anh vừa lòng chưa? Thằng khốn nó đã trốn đi rồi kìa!”
“Sao em lại không tin anh?” Stranahan đáp lời.
“Vì anh là đàn ông chứ sao?” Joey cười ra bong bóng.
“OK,” anh nói, “xin cô trả lại hai tuần tiền phòng và đi cho.”
“Bắt được tôi cái đã.”
Cô hạ đầu xuống và bắt đầu sải mạnh, người cô lao đi giữa những bọt sóng. Cô chỉ còn nghe loáng thoáng tiếng anh hét theo. “Hey, Joey, chờ anh với! Anh yêu em!”
Người gì tánh kỳ, cô nghĩ.
Nhưng cô vẫn tiếp tục bơi về phía hòn đảo, bơi trong hạnh phúc. Trên bờ Đầu Đất đang chạy ra đón, không quên quẫy cái đuôi ngớ ngẩn.
Red Hammernut liếm mép. Lão đã phun nước bọt và chửi thề nhiều đến nỗi lưỡi khô như ngói. Và lão tiếp tục lải nhải, đến lần thứ sáu rồi: “Tao chưa từng thấy ai có hai con mắt còn ngon mà bắn tệ như mày.”
Earl Edward O’Toole giữ “hai con mắt còn ngon” nhìn vào mặt đường đê phía trước và không nói gì cả. Nó đã xin lỗi đủ rồi.
Red giận đến sôi gan về màn đào thoát của Chaz Perrone. Tool bảo ông đừng lo nữa, thằng khốn ấy vô dụng đến mức còn lâu nó mới sống sót ra khỏi đầm lầy.
Rồi lỡ nó sống sót thì sao? Red nghĩ.
“Thằng chó nó có thể làm tan nát cơ đồ của tao,” lão nói, giọng ảm đạm.
Tool cười. “Nó chẳng thể làm tan nát ai được cả, nó sẽ chạy đến khi nó chết.”
“Bộ mày biết gì mà tao không biết hả?”
“Tui chỉ biết nó là thằng sợ đủ thứ,” Tool nói, “dù có sống nó cũng chẳng dám trồi ra đâu.”
“Vậy nếu có đứa nào tóm nó trước thì sao? Mày có nghĩ đến việc ấy chưa? Bị kết án thì nó sẽ lôi cả đám ra như chơi đó.”
Tool trả lời: “Ông đừng có tự lên kịch bản lung tung nữa.”
Đề phòng Chaz tìm đường chạy về, hai người đã chờ thật lâu trong bóng tối trên triền đê, để tâm nghe ngóng, căng mắt ra tìm một cái bóng nào đó đang di chuyển. Tuyệt không có gì cả, cho đến khi Red chịu hết nổi lũ côn trùng và quyết định bỏ đi. Họ để con Hummer của Perrone lại, rút chìa khóa, đề phòng trường hợp thằng chó đẻ đang nấp trong bụi cỏ. Lá thư tuyệt mệnh sến rện của nó vẫn được dán trên hộp điều khiển. “Lỡ đâu nó biết lịch sự mà chết dùm,” Red giải thích.
Bây giờ, ngồi kế bên Tool trong con xe tải rỉ sét của nó, Red cứ luôn mồm ca cẩm về tất cả những thứ đã xảy ra từ sau khi thằng sinh vật học giết vợ nó. Thật quái đản khi mọi thứ lại bung bét ra như vậy, mọi trật tự, kế hoạch đều rơi vào hỗn loạn. Red Hammernut đâu có phải hạng người hay tư lự, lão sinh ra đã có tính thực dụng bẩm sinh, sai đâu sửa đó và một khi ra tay thì cực kỳ tàn nhẫn. Còn lâu lão mới tin vào số mệnh, quả báo hay sự liên kết ngẫu nhiên nào đó của các chòm sao. Nếu chân lão đạp cứt, nghĩa là có thằng cấp dưới nào đó đã làm ăn như cứt.
Thông thường, Red Hammernut dễ dàng nhận ra nguồn cơn của vấn đề và ra tay chỉnh đốn: một món tiền bồi thường, một màn đánh đập hoặc một chiếc vé máy bay sẽ giải quyết vấn đề. Nhưng trường hợp thằng Perrone quả là vượt ra ngoài mọi toan tính của lão. Tất cả những mối liên kết lợi ích và chính trị của Red sẽ bung bét nếu Chaz trồi lên và khai ra vụ gian dối Everglades. Tự dưng Red thấy hối hận vì đã hủy hai cuộn băng video quay lại cảnh Joey Perrone bị xô xuống biển. Còn cuộn băng đó, lão đã có vũ khí để lật ngược thế cờ.
Má cái thằng phản bội mạt hạng.
Thôi thì ít ra cũng giữ được tiền, Red nghĩ. Chiếc Samsonite đang trượt qua trượt lại ồn ào trên sàn chiếc bán tải khi xe chạy qua bờ đê dằn xóc để ra khỏi khu bảo tồn Loxahatchee.
“Sao mày lái chậm rì vậy?” Lão càu nhàu Tool.
“Vì tui đâu có được bật đèn xe.”
“Mà sao mày không bật?”
“Khu vực này bọn kiểm lâm và giám sát hay đi kiểm tra,” Tool giải thích. “Không phải như đất nhà mình đâu. Cái này là khu vực của Liên bang đấy.”
“Kệ mẹ tụi Liên bang ấy.”
“Chưa kể thằng đệ của ông nó để lại có 1/4 bình xăng à.”
“Má thằng chó.”
Nếu được lựa chọn, Red Hammernut chẳng đời nào muốn dành thời gian đi lại trên phần thiên nhiên ít ỏi còn chưa bị khai phá của Everglades. Lão thích những đoạn đã được đào vét, cày xới, lát vỉa như mấy thửa rau quả mà mình vẫn đi thăm thú bằng chiếc Cadillac hoặc trên trực thăng. Những mảnh đất ngay hàng thẳng lối, vuông vức gọn gàng bởi những đường mương và những gốc cây đã cắt tỉa như ý. Thỉnh thoảng cũng có lợn rừng hay gấu mèo băng qua đường, nhưng đời sống hoang dã nhìn chung là hiếm thấy trên trang trại. Red không đến mức sợ thiên nhiên hoang dã, nhưng lão khó chịu khi ở ngoài đây, đặc biệt là vào buổi tối, đặc biệt là khi khẩu súng đã hết đạn.
“Lũ Liên bang khốn kiếp,” lão nói khinh khỉnh, “và cái bang Florida cũng khốn kiếp. Chúng nó sẽ truy đến cùng vụ nước thải. Mày chờ coi tao nói đúng không. Rặt một tuồng đạo đức giả!”
“Vâng,” Tool nói, giọng không có vẻ gì là đồng cảm.
“Lấy lũ cá sấu đang tru tréo đêm nay làm ví dụ đi,” Red tiếp tục nói. “Bọn nó đã hiện diện ở đây trong hàng triệu triệu năm. Mày nghĩ một chút phân bón có thể giết được chúng không? Rồi thuốc diệt nấm và thuốc trừ sâu giết được không? Mẹ nó, cái lũ quái vật ấy có thể ăn lượng DDT bằng cân nặng của nó mà vẫn phây phây, đến đánh rắm một cái cũng không có mùi thuốc nữa là. Tụi nó là khủng long đó, trời đất ơi. Nó đéo cần chính quyền Hoa Kỳ phải trông chừng bảo vệ.”
Tool giữ nguyên ánh nhìn về phía trước. “Nhưng mà mấy loài khủng long bạn của nó chẳng phải bị tiêu diệt hết rồi sao?”
“Cái gì?” Red Hammernut không thể tin vào tai mình. “Nhóc, mày đang ở phe nào vậy? Tao đéo quan tâm chuyện gì xảy ra với lũ khủng long chết tiệt ấy, mà có ai thèm quan tâm cơ chứ?”
Tool nói: “Hôm kia tui có bắn một con cá sấu. Không phải dạng khủng đâu, nhưng cũng góp phần tiêu diệt…”
“Thì sao?”
Red cứ điên tiết như thế suốt con đường ra khỏi Loxahatchee. Lão chỉ dễ chịu hơn một chút khi xe trèo lên mặt đường khô ráo và mắt lão nhìn thấy ánh đèn của Hạt Palm Beach đang sáng đàng đông.
“Sáng mai phải làm một chuyến trực thăng,” lão lạnh lùng tuyên bố. “Tao chẳng lo âu gì, nhưng phải lùng cho ra thằng chó má ấy.”
“Nếu lũ khủng long chưa kịp ăn thịt nó,” Tool nói, mặt lạnh tanh.
“Ê nhóc, mày định nắn bi tao hả? Tao không có hứng giỡn chơi nha, nói cho mày biết.”
“Dạ sếp.”
“Biết mai làm gì chưa, ông O’Toole? Ông làm ơn mang khẩu súng kia ra bãi mà tập dùm tôi. Lần sau biết đâu mình nhắm vô cái nhà kho, có khi ông bắn trúng được bên hông đó.”
Tool dửng dưng đón nhận lời sỉ nhục ấy, sự im lặng được Red mặc định sai lầm là thái độ quy phục. Làm sao lão thấy được lòng trung thành của Tool đã ngày càng bị dát mỏng, làm sao lão cảm nhận được nỗi tức giận đang sục sôi trong tâm trí giản đơn của nó.
“Nó thoát được cũng là do mày hết,” Red lại lên cơn. “Chỉ tại mày chứ không ai.”
Tool nhún vai. “Ông thử lấy khẩu súng lục mà nhắm bắn khi có một viên đạn trong nách coi.”
“Con mẹ nó, im miệng và lái xe đi. Mau đưa tao về nhà.”
Nhắm mắt lại, Red cố mường tượng về cái bồn Jacuzzi đang chờ mình tại nhà. Lão nóng lòng muốn được chà rửa hết bụi bẩn, mồ hôi, kem chống nắng và xác chết côn trùng bám trên người, ngồi xuống thưởng thức một miếng sườn bò nửa kí lô cùng một chai Jack Daniel’s. Dòng suy nghĩ sung sướng ấy bỗng khựng lại khi Tool dừng chiếc xe bán tải đột ngột ngay trên gờ cao tốc.
Red nhìn xung quanh. “Gì nữa đây? Bể bánh à?”
“Ngồi im,” Tool trèo ra khỏi chiếc xe tải.
“Ê! Trở lại đây,” Red rống lên. Lão nhảy ra khỏi xe và đuổi theo Tool. “Mày đang đi đến chỗ đéo nào thế hả? Tao không có thời gian cho mấy trò khùng của mày đâu nha.”
Tool vẫn không giảm tốc độ. Red đã đuổi kịp và gọi nó bằng tất cả những cái tên thóa mạ mà lão có thể nghĩ ra.
“Câm đi,” Tool nói, rồi giơ bàn tay to bè như cục gạch của mình lên. Nó dừng lại để xem xét một cây thánh giá nhỏ, rồi gỡ vòng hoa loa kèn ra khỏi đó.
“Không phải lúc đâu, nhóc. Bữa nào mày quay lại rồi bứng ra, nhưng đừng làm đêm nay,” Red mắng nhiếc nó, “và đừng làm khi có mặt tao.”
“Chỉ mất có một giây thôi.”
“Mày điếc hả? Vừa điếc vừa ngu?”
Đèn xe tải rọi lên bảng tên được khắc trên chiếc thánh giá nhà làm:
Pablo Humberto Duarte
Chồng, bố, con trai và anh trai yêu dấu.
Sinh 3/9/1959. Mất 21/3/2003
Giờ anh đang lái xe về với Chúa.
Hãy nhớ: dây an toàn sẽ giữ mạng cho bạn!
“Chỉ là một thằng Mễ chết tiệt,” Red Hammernut càu nhàu. “Chắc bị xe tông rồi lao đầu xuống mương chứ gì.”
“Làm sao ông biết được?” Tool nói.
“Mày nhìn cái tên kìa. Báp Lô Hum Be Tô, đấy chẳng phải tên Mễ là gì.”
Tool ngồi chổm hổm, hai khuỷu tay chống lên gối.
“Thôi làm gì làm lẹ dùm,” Red gắt gỏng. “Kéo cái chết tiệt ấy ra khỏi mặt đất rồi phắn khỏi đây. Tao cần rượu và bồn sục.”
Tool không nhúc nhích. Red lườm nó.
“Cái đéo gì nữa đây?”
“Tui đang đấu tranh tư tưởng. Thằng bạn già này bằng tuổi tui,” Tool nói. “Không biết nên lấy hay để lại.”
“Thằng Mễ á hả?”
“Ông Đu Át Tê nè. Mà ông muốn gọi gì cũng được.”
“Nhân từ quá!” Red nghĩ: Chúa ơi, làm ơn đừng để thằng cô hồn này làm vậy với con.
Tool nhìn kỹ lại cây thánh giá gỗ. “Ít nhất nó đã là chồng, là cha, là con trai, là em trai… Tui không được là cái gì trong số này hết, Red. Tui không có vợ, cũng chẳng có gia đình. Có độc nhất một thằng anh họ vớ vẩn, đang bóc lịch vì cướp một cái tiệm giặt ủi chết tiệt.”
Đến đây thì sự kiên nhẫn của Red Hammernut cạn kiệt. Tại sao một người đàn ông tầm cỡ như lão lại đứng giữa đường 441 trong một đêm thứ Bảy, kế bên là một thằng tiền sử lông lá, đã bị đạn cắm vào đít lại còn lên cơn khủng hoảng trung niên, tất cả chỉ vì một thằng Mễ quên thắt dây an toàn khi lái xe.
Và thế là không cần nghĩ, Red đập một cái xuống đỉnh đầu Earl Edward O’Toole. Thật là một sai lầm, bởi vì với Tool đó là một hành động không thể chấp nhận được.
“Nghe nè, cái thằng đười ươi xì ke đầu buồi kia,” Red nói. “Nửa triệu đô của tao đang nằm sau lưng chiếc bán tải, giữa đồng không mông quạnh, bất kỳ thằng nghiện mang giày bóng rổ nào cũng có thể chạy ngang và thó nó trong năm giây. Bây giờ nói thiệt là tao đéo biết mày đang nghĩ cái gì trong đầu. Nhưng tao đếm tới mười, mày phải lôi cái thánh giá kia ra khỏi mặt đất và mình sẽ biến khỏi đây. Mày nghe thủng không?”
Tool tuyệt không nhúc nhích, cũng chẳng buồn chùi đám nước miếng của Red văng vào quần yếm của nó.
“Một…” Red lên giọng, “hai… ba… bốn.”
Red đếm, nhưng trong lòng không biết lỡ thằng điên kia cãi lời thì mình phải làm gì đây? Không lẽ đánh nó cái nữa?
May quá, Red thở phào khi thằng Tool rốt cục cũng từ từ đứng dậy và nói: “Được rồi sếp.”
Nó dùng đôi bàn tay khổng lồ của mình ôm một vòng quanh cái thánh giá và từ từ kéo nó lên khỏi bùn, để không làm gãy ngang thanh gỗ.
Red nói: “Tao nói nhanh lên mà, nhanh lên rồi đi.”
“Tui không nói ông.”
“Cái gì?” Ngạc nhiên chưa, Red há hốc mồm, hổng lẽ một cú tát đã làm não thằng này lộn tùng phèo lên và văng sự minh mẫn ra ngoài rồi. “Mày mới nói gì đó?” Lão hỏi lại, hơi lơ đễnh.
Earl Edward O’Toole bước ra đứng giữa Red và chiếc xe tải, thân hình hộ pháp của nó đã che mất ánh sáng từ đèn xe. Red chợt cảm thấy nhỏ bé và, lần đầu trong đời, thật sự sợ hãi. Lão chợt thấy lạnh người bởi tiếng thở của Tool, chậm rãi và bình tĩnh gấp nhiều lần so với hơi thở của lão lúc này.
Lão đưa cặp mắt tò mò pha lẫn ngơ ngác nhìn vào cái bóng khổng lồ trước mặt. “Giờ sao đây, thằng đười ươi ngu ngốc?”
“Đứng yên,” Tool khuyên.
Samuel Johnson Hammernut có thể thấy gã hộ pháp của mình giơ cả hai bàn tay lên cao và rất nhanh sau đó lão nhìn thấy cái thánh giá in tên Pablo Duarte xuất hiện trên bầu trời lấp lánh những ánh sao và sau đó thì lão không còn nhìn thấy gì nữa!
Red Hammernut và những kẻ có cùng tâm địa đã bức tử Everglades thật tình vi và lặng lẽ. Hoàn toàn khác các thể loại ô nhiễm có hình ảnh ăn khách trên truyền hình, những tấn phân bón hóa học đổ từ cánh đồng mía và trang trại rau củ ở miền nam Florida không tạo ra một cơn hồng thủy cá chết trương hoặc những cảnh động vật phơi xác chết thối rữa. Phốt pho và các hóa chất ô nhiễm phục vụ nông nghiệp như một bóng ma vô hình ngày đêm hủy hoại lớp tảo được gọi là periphyton, “sinh vật bám rễ dưới nước”. Đó là một chất nâu nhầy nhụa, nguồn dinh dưỡng thiết yếu của cỏ cưa. Khi lớp tảo này chết đi, các loại cá nhỏ sống ký sinh trên lớp tảo này sẽ bỏ đi tìm kiếm thức ăn và làm tổ ở nơi khác. Theo sau bọn cá ký sinh sẽ đến lần lượt cá ngựa, diệc, cá vược, cá chẽm miệng rộng và tuần tự theo thứ tự chuỗi thức ăn trong thiên nhiên. Chẳng mấy chốc, thảo nguyên cỏ cưa sẽ khô héo, thiếu thốn dinh dưỡng, bị các giống cây thủy sinh khác như cỏ đuôi mèo thay thế, vốn phát triển mạnh trong nguồn phốt pho. Đấy sẽ là một môi trường sống khắc nghiệt với những loài chim và động vật hoang dã địa phương.
Mục tiêu chính của dự án phục hồi Everglades do chính phủ đưa ra là giảm lượng thải từ phân bón hóa chất. Các ông trùm ngành mía đường và tập đoàn tư bản nông nghiệp hợp tác miễn cưỡng bởi vì bọn họ đã mất đi chỗ dựa dẫm ở những vị chính trị gia “nhà nuôi” nhằm tác động EPA và các cơ quan quản lý khác không bám riết đến đường làm ăn của chúng. Trong lúc các hồ lọc được thiết kế để loại bớt một số chất ô nhiễm cho thấy tính hiệu quả ban đầu, Everglades vẫn chết dần với tốc độ tám mét vuông một ngày, ngay chính thời điểm mà Charles Regis Perrone đang thực hiện hành trình đơn độc đáng sợ của mình băng qua Loxahatchee.
Nó văng tục ầm ĩ khi bùn lầy tràn vô đôi vớ và làm chúng tuột ra trôi mất, khi cỏ cưa cào rách áo và quần lót, khi bèo và hoa súng cản trở bước chân chạy thoát thân. Mầm cỏ đuôi mèo nở rộ cho thấy dấu hiệu của lượng phân bón dồi dào trong nguồn nước, nhưng đó không phải là nguyên nhân của sự rúng sợ trong lòng nó. Nó biết phốt pho không độc hại theo kiểu vi khuẩn chết người. Nó cũng rõ khu vực Loxahatchee có mức độ nhiễm phân hóa học thấp hơn, ở đây môi trường sống vẫn còn tương đối dễ chịu cho đời sống thiên nhiên bản địa, so với khu vực nhiễm độc cấp tính tiếp giáp trang trại Red Hammernut.
Vậy mà Chaz vẫn đi qua đầm lầy với muôn vàn nỗi sợ nặng nề. Sợ đang bị Red và thằng đệ người rừng với khẩu súng đạn ghém bám theo, sợ bọn côn trùng bẩn thỉu mang trên người mầm bệnh, sợ bọn rắn hổ mang răng nhọn như kim, sợ bọn đỉa hút máu người, bọn ve hươu, bọn linh miêu kỵ nước, bọn báo tạp chủng, bọn cá sấu đang giao hợp phá vỡ sự im lặng…
Nó không thấy sự mỉa mai nực cười trong hoàn cảnh này. Vốn dĩ nó luôn tự xem mình là người qua đường vô can hơn là kẻ xấu chủ mưu trong kế hoạch hủy hoại thiên nhiên. Đổ hết mọi trách nhiệm và tội lỗi lên đầu bọn làm khoa học vô lại như Chaz khác chi bảo bọn bác sĩ khoa học đầu quân cho những công ty thuốc lá chịu hoàn toàn trách nhiệm cho bệnh ung thư phổi, khi mà chúng khẳng định thuốc lá không có hại cho sức khỏe. Sự thật thì sao, một kẻ đã muốn hút thuốc thì bất cứ nhà khoa học nào cũng chẳng cản được. Tương tự như vậy, các thành phố và trang trại buộc phải giải quyết chất thải lỏng của họ một cách kinh tế hiệu quả nhất, nghĩa là phải đổ nó vào nguồn nước công cộng mà mặc kệ các mối nguy gây ra cho môi trường.
Bản thân không thể chống lại xu hướng của loài người, thì chỉ còn cách là nương theo dòng đời mà sống. Chaz đã lập luận như thế. Khi nhận công việc là nhà khoa học “bán thân” cho Red Hammernut, nó đã tìm hiểu đủ về hệ sinh thái ở Everglades để có thể tham gia chuyện trò với đồng nghiệp mà không bị lộ chân tướng là một kẻ lừa đảo không kiến thức. Trong chính khóa học tại thực địa ấy, nó nhớ lại rằng lớp bùn mà nó đang lội qua bì bõm này có vai trò quan trọng với hệ sinh thái và được các nhà khoa học khác đặt tên vui là “bãi nôn của khỉ”, một cái tên Chaz khá tâm đắc.
Nó rất ghê tởm việc bị dính nước, kể cả là loại nước trong môi trường lành tính. Chaz thậm chí còn từ chối nhón chân vào những lỗ trũng nước ở sân golf để nhặt bóng đánh lỗi. Thế nên, ý nghĩ phải trần truồng, không vũ khí tự vệ, lội ì ạch qua một đầm lầy tối đen khiến nó tan nát cõi lòng. Bầu trời dần dần trở nên quang đãng hơn, đủ cho ánh sao trên cao rọi xuống mặt nước để nó có thể đoán được hình dạng các thế lực bóng tối xung quanh mình. Nó đặc biệt lo ngại những vật có hình hài giống một con cá sấu. Cứ nghe tiếng gầm cá sấu vang lên trong không gian thì biết sự có mặt phong phú của các chủng loại gia đình nhà chúng nó quanh đây. Nó nhớ trong các bài giảng khoa học về bò sát căn bản thì việc gào rống kia liên quan đến hoạt động tình dục của giống loài. Giờ thì nó không rõ mình đang đối đầu mối nguy bị ăn thịt hay bị làm nhục. Nó biết phần lớn các loài rắn đều có hai dương vật hoạt động. Một đề tài thường được nhắc đến cho vui ở trường đại học. Nhưng nó lại quên mất không biết bọn cá sấu có được trời phú hai của quý giống thế không. Ác mộng bị cá sấu hai đầu tấn công không lâu trước đây nay được thay thế bằng nỗi sợ thực tại trăm ngàn lần kinh khiếp - cá sấu hai cu.
Thấp thoáng phía xa xuất hiện một ốc đảo nằm trên gò đất cao giữa mênh mông nước. Chaz vọt lên phía trước với tốc độ hoang dã, chạy đua với nỗi sợ hãi bị con thằn lằn nặng hơn hai trăm kí cắn ra làm đôi. Mặc cỏ cưa cứa tan nát vào da thịt, nó vẫn giữ nguyên ý chí mà lao về phía trước. Đến khi tới được mẩu đất nhỏ khô cằn, ngồi thụp xuống cạnh cây nguyệt quế nó mới bình tâm để xem xét lại thương tích trên thân thể sau màn đua nước rút vừa rồi.
Cơ bắp bị chuột rút, hậu quả của vận động mạnh và thiếu nước.
Lưng nóng ran vì một vệt côn trùng cắn.
Tay và thân mình chằng chịt những đường cỏ cắt rịn máu.
Khuôn mặt đang bị bao vây bởi tiếng vo ve dày đặc của muỗi.
Từ đùi tới háng đang bị cơn ngứa bí ẩn hành hạ.
Cái đó chỉ mới là đau đớn thể xác. Chaz Perrone còn bị tra tấn về tinh thần nữa chứ.
13 triệu đô tiền thừa kế trong mơ phút chốc tan thành mây khói, vì đó chỉ là trò lừa bịp.
Con vợ mà nó cố giết vẫn sống nhăn răng và đang trên đường tới đồn cảnh sát.
Nhỏ bồ mà nó cố giết cũng sống nhăn răng và dàn xếp vụ bị nó bắt cóc.
Người đàn ông mà nó làm ăn cùng đã trở mặt và lùng giết nó như người ta giết một con ngựa què.
Và giờ nó ở đây, một thân một mình - bẩn thỉu, trần truồng, lạc lõng, trơ trọi không cách tự vệ giữa cái chốn mà nó ghê tởm nhất trên cõi đời này.
Mình có xứng đáng bị như vậy không? Nó tự hỏi? Thật sự phải đày đọa mình tới vậy sao?
Nó đưa ngón trỏ miết dọc cẳng chân, lướt qua mớ bùn tảo dính bết như socola đông lạnh. Dí ngón tay đó vào mũi nhưng vẫn không nghe thấy một mùi độc hại, hư thối gì, ngay cả khi đống bùn nhão này bị nhấn chìm trong phân bón. Thì sao chứ. Đó chỉ là bùn thôi mà, Chúa ơi. Có phải tôi đã làm gì ghê gớm như đánh chết hải cẩu Bắc cực con đâu chứ.
Mặt trăng trên cao chiếu luồng ánh sáng xanh nhạt xuống bề mặt đầm lầy. Có tiếng sột soạt nặng nề ẩn khuất đâu đó. Chaz Perrone kéo đầu gối sát vào ngực, đưa tay sờ soạng mò kiếm một hòn đá. Lại thêm tiếng gầm gừ của cá sấu vang lên ở một cái ao gần đó.
Anh… yêu ai đó?
Yeah… Anh yêu ai đó?