Phần 2 Hà Nội - Mùa hè 2011 - Chương 8 Thật sự, dựa vào đâu để biết đúng sai?
Năm nay, đoàn sinh viên Mỹ theo tôi sang Hà Nội học về công tác xã hội Việt Nam có chín em, đa phần chưa từng ra khỏi Mỹ. Chúng tôi ở một khách sạn trên phố Hàng Điếu. Mỗi ngày, tất cả đều dậy lúc 6 giờ 30 phút, ăn sáng vào 7 giờ 30 phút, đến 8 giờ 30 phút ra khỏi khách sạn và tối mới trở về. Mỗi ngày đều có chương trình riêng; hôm thì đến trường đại học, hôm tới trung tâm trẻ tự kỷ, hôm tới nhà tạm lánh cho phụ nữ bị bạo hành gia đình, hôm tới làng trẻ mồ côi. Chúng tôi cũng đi Văn Miếu, lăng Bác, Bát Tràng, một số bảo tàng ở Hà Nội, làng cổ Đường Lâm, và Hạ Long.
“Việt Nam đẹp quá” - các sinh viên của tôi kêu lên.
“Việt Nam khác quá.”
“Thật không thể tin...”
Được thấy Hà Nội qua mắt sinh viên Mỹ là một kinh nghiệm thú vị. Trong mùa hè này và những mùa hè sau, tôi thường xuyên thấy mình rơi vào thế kẹt: tôi đang làm công ăn lương ở Mỹ nên tôi có trách nhiệm cho các sinh viên của tôi biết một bức tranh thật ở Việt Nam, nhưng đồng thời tôi cũng thấy mình có trách nhiệm phải bảo vệ hình ảnh Việt Nam như đất nước “của mình”. Nên nói cho sinh viên bao nhiêu sự thật? Phiên bản nào của sự thật? Phiên bản nào thì đủ để họ tư duy về những khác biệt hệ thống giữa hai đất nước? Phiên bản nào và bao nhiêu thì đủ để họ hiểu về cái khổ của sự đói nghèo trên bề mặt, kết nối được nó với cái khổ do ý thức hệ, nhận dạng được những mặc định do sống quá lâu ở một đất nước giàu có và tự do, nhận ra những xiềng xích tư tưởng ngay cả trong xã hội mà họ cho là tự do đó? Bao nhiêu thì không dập tắt những hào hứng của họ với Việt Nam, để khơi gợi được tình yêu với con người và cuộc sống vượt trên những phân biệt “Việt Nam” và “Mỹ”? Bao nhiêu thì giúp họ vượt được lên khỏi những nắng nóng của Việt Nam và tâm lý “cả thèm chóng chán” của một khách du lịch Mỹ để khêu một ngọn lửa bền bỉ hơn về vai trò của họ trong thế giới rộng lớn này?
Khi sinh viên của tôi thích thú ghé vai gánh thử gánh dứa rong để chụp ảnh cho nhau, tôi không biết nên để các em được vui trọn vẹn với điều đó hay nên nói thêm cho các em biết rằng chị bán dứa rong này sống bên kia cầu Long Biên, trong một căn phòng thuê cùng với mười người phụ nữ khác với giá 15 ngàn đồng mỗi đêm, mua 5000 đồng tiền nước để tắm rửa mỗi ngày, dùng chung phòng vệ sinh và nhà tắm bẩn thỉu, ăn những bữa ăn tạm bợ, chỉ để tích cóp tiền gửi về quê nuôi con.
Khi chúng tôi đến thăm một trại điều dưỡng thương binh ở Bắc Ninh, sinh viên của tôi bất lực đứng nhìn một cựu chiến binh cụt cả hai chân hai tay nằm trên giường, phải có ống đại tiểu tiện thông từ trong người ra ngoài, đứng cạnh giường là người vợ đã phải từ quê chuyển tới đây sống luôn trong trại để chăm anh. Lúc ấy, tôi không biết có nên nói với các em về số tiền mà mỗi thương binh của Việt Nam được trợ cấp hằng tháng, và việc người phụ nữ kia phải làm thêm cả trong trại lẫn ngoài trại để có tiền nuôi chồng, cộng với con cái và bố mẹ ở quê. Nếu các em biết và so sánh với chính sách cho cựu chiến binh ở Mỹ, và chỉ nhìn thấy đời sống người Hà Nội nội đô, tôi sẽ không có cách gì khiến các em tin rằng Việt Nam quá nghèo nên không có đủ tiền để đãi ngộ những người đã từng chiến đấu bảo vệ đất nước.
Khi chúng tôi đi thăm bảo tàng chiến tranh hay được một bệnh viện dẫn đi thăm phòng trưng bày các bình ngâm thai nhi dị tật vì chất độc da cam, tôi không biết phải nói gì với sinh viên của tôi khi các em ấy hoàn toàn hoang mang trước ranh giới của đúng/sai.
“Cô ơi, em cảm thấy rất khó xử. Một mặt, em thấy mình có lỗi vì là người Mỹ. Em không hiểu làm sao mà người Việt Nam có thể thân thiện đến thế với chúng em sau những gì nước Mỹ đã làm. Nhưng mặt khác, em cảm thấy chúng em là một thế hệ khác, chúng em không có lỗi. Nhưng em nghe thấy sự lên án trong giọng nói của người giới thiệu bảo tàng hôm nay. Lúc đó, em nghĩ: ‘Nhưng tôi có làm gì sai đâu’?”
“Tiến sĩ Phan, nếu em thực sự trung thực thì em phải nói là em không hiểu tại sao họ có thể để những thai nhi đó trong bình cho người khác tới xem. Đành rằng chúng ta cần bằng chứng về hậu quả của chiến tranh. Nhưng việc biến nó thành bảo tàng cho người khác xem, em cảm thấy có điều gì đó không phải.”
Thế nào là “phải”? Thế nào là “đúng”? Thế nào là đạo đức? Là nhân đạo? Nhân văn? “Phải” theo kiểu Mỹ hay kiểu Việt Nam? Hay không phải kiểu Mỹ cũng không phải kiểu Việt Nam? “Phải” một cách phi quốc gia, phi sắc tộc, phi tôn giáo, phi đạo đức, phi tiền bạc, phi chính trị, phi khế ước xã hội? Càng đi, càng làm một người phiên dịch giữa hai thế giới Việt - Mỹ, tôi càng thấy phải dừng đưa câu trả lời chắc chắn cho sinh viên. Tôi chỉ có thể gợi ý cho họ nghĩ và chính tôi cũng nghĩ.
Có buổi chiều, chúng tôi đến làm việc ở một cơ sở công tác xã hội. Tiếp chúng tôi là giám đốc, phó giám đốc, bí thư Đảng ủy và các cán bộ của cơ sở. Sau khi nghe giới thiệu về mô hình công tác xã hội ở Việt Nam, sinh viên của tôi hỏi liệu nhân viên công tác xã hội ở một đất nước như Việt Nam có được phép làm các việc như vận động chính sách, phản đối chế độ, vận động quyền cho các đối tượng yếu thế hay không. Khi họ đặt câu hỏi này, giám đốc cơ sở quay sang hỏi bí thư Đảng ủy:
“Phần này chắc mình phải nói nhẹ đi anh nhỉ?”
Sau khi bí thư gật đầu, giám đốc trả lời đoàn chúng tôi bằng tiếng Anh; và trả lời xong thì lại quay sang bí thư:
“Anh thấy em nói thế có được không?”
Chẳng cần phải tinh ý lắm sinh viên của tôi cũng nhận thấy những đoạn ghé tai trao đổi giữa ban lãnh đạo cơ sở. Họ cũng lịch sự không hỏi thêm nhưng vừa vào lại ô tô, đóng cửa lại là sinh viên của tôi nhổm hết lên khỏi ghế:
“Tiến sĩ Phan, chúng ta cần phải nói chuyện.”
“Tiến sĩ Phan, chuyện gì vừa xảy ra trong căn phòng đó?”
“Cô phải nói sự thật cho chúng em biết. Chúng em muốn biết chính xác chuyện gì xảy ra.”
“Cô không được bao che cho họ đâu.”
Họ muốn biết ban lãnh đạo đã nói gì với nhau bằng tiếng Việt; cái người ngồi im lặng, hầu như không nói gì, chỉ gật gật, nhưng ai cũng phải hỏi ý kiến là ai; quan hệ giữa bí thư Đảng ủy với những người còn lại là thế nào. Sinh viên của tôi mặc định rằng dân chủ là mô hình tất yếu để phát triển nên họ không thể hiểu nổi những hoạt động mà họ cho là xâm phạm dân chủ trong phát ngôn và hành động. Họ cũng không hiểu tại sao khi đến làm việc ở các cơ quan, luôn có một số phụ nữ đon đả chạy trước mở cửa, rót nước cho các lãnh đạo là nam giới. Hay khi ăn buffet thì cấp dưới phải đi lấy thức ăn vào đĩa cho lãnh đạo.
“Khác quá”; “không thể tin được”; “ở Mỹ thì...”. là những câu cửa miệng của sinh viên, dù chúng giảm dần từng ngày. Đôi khi chính tôi cũng không cưỡng lại được sự so sánh “Ở Mỹ thì...”. Gần như một trăm phần trăm những người Việt tôi gặp đều mặc định tôi là hướng dẫn du lịch, phiên dịch, hoặc trợ lý của đoàn. Những người bán hàng trên phố cổ và các khu du lịch thường xuyên nhờ tôi lừa sinh viên của tôi để bán đắt hơn và sẽ cho tôi tiền hoa hồng. Có lần ở một bảo tàng, chị bán hàng đã gọi tôi đi theo vào toilet rồi dúi vào tay tôi ba triệu:
“Đây là 10% tiền hoa hồng cho em, chị không muốn đưa bên ngoài sợ bọn Tây nó thấy. Lần sau lại dẫn khách vào đây cho chị nhé.”
Tôi định từ chối và giải thích với chị rằng tôi là giáo viên chứ không phải hướng dẫn viên du lịch. Nhưng tôi vừa mở miệng định nói thì thấy điều đó rất không cần thiết; vậy là tôi cầm tiền, cảm ơn chị, rồi đưa lại cả chỗ tiền cho người hướng dẫn du lịch và lái xe đi cùng đoàn.
Khi tôi đi bộ trên phố với một sinh viên nam trong đoàn thì hầu hết người bán hàng mặc định tôi là “bồ nhí” hoặc “gái bao” của cậu sinh viên, cùng lắm thì là vợ.
“Chồng em à? Người nước nào đấy?”
“Bạn trai à? Nó có biết tiếng Việt không?”
“Khiếp, sao thằng này cao thế? Mày đứng đến nách nó nhỉ.”
Tôi không phiền lòng, nhưng tôi cũng không cưỡng lại được sự so sánh bất giác. “Ở Mỹ thì...”
Mỗi ngày, từ ngoài đường trở về, đoàn chúng tôi đều có 15 phút họp ngắn để tổng kết những gì đã học trong ngày. Hầu như ngày nào, tôi cũng phải nhấn mạnh lại:
“Một trong những điều mà tôi hy vọng các em học được khi sang Việt Nam là bỏ được các định kiến thế nào mới là văn minh, thế nào là tốt, xấu, cái này chấp nhận được, cái này không thể chấp nhận được theo kiểu Mỹ. Các em học cách phá vỡ khái niệm để nhìn sâu vào bản chất của mọi việc thì các em mới có thể tạo ra các thay đổi thực sự.”
À nhưng đấy là nói lý thuyết. Là người Việt Nam, tôi biết cái mà các sinh viên của tôi nhìn thấy trong ba tuần dĩ nhiên không hẳn chính xác, nhưng tôi cũng phải tự nhắc nhở mình rằng cái mà tôi nhìn thấy trong ba lăm năm làm người Việt Nam chưa chắc đã chính xác hoặc chính xác hơn.
Từ Hà Nội, chúng tôi đi Huế, rồi vào Sài Gòn. Ở Sài Gòn, chúng tôi thuê khách sạn trên phố Phạm Ngũ Lão. Đây là phố Tây ba lô. Hầu như tối nào sinh viên của tôi cũng đi đến khuya mới về. Có hôm tôi theo sinh viên đi từ quán này sang quán khác, bắt đầu từ phố Phạm Ngũ Lão sang đến Đề Thám. Lúc nửa đêm, cả đoạn phố Đề Thám ngắn ầm ĩ tiếng nhạc và đông nghẹt Tây ba lô. Chúng tôi uống bia trên vỉa hè cùng với những nhóm Tây ba lô khác, vừa uống vừa phải gào lên mới nói chuyện được với nhau qua tiếng nhạc. Liên tục có những đứa bé ghé vào bàn để bán hoa, xổ số, đồ lưu niệm; và cả những đứa bé 8 tuổi kiếm tiền bằng cách nhảy mua vui cho khách trong lúc người mẹ ngồi canh gần đó. Sinh viên của tôi uống, nhảy. Đến nửa đêm, chúng tôi ra về trên phố, lẫn trong những nhóm khách Tây khác - đều trẻ, hơi say say, vừa đi giữa lòng đường vắng vừa nhún nhảy theo tiếng nhạc. Ở góc đường, những người xe ôm và taxi vẫn nhẫn nại chờ khách. Mấy người quét đường mặc áo màu da cam ngồi bệt trên vỉa hè cạnh một miệng cống và chiếc xe rác, nhìn chúng tôi đi qua như nhìn những người thuộc về một thế giới khác đáng thèm muốn, đáng ngưỡng mộ. Một thế giới bí ẩn và triền miên sung sướng.
Giữa lòng đường vắng sau nửa đêm, tôi đi với những sinh viên Mỹ của tôi mà lòng cứ muốn sà xuống với những người quét rác bên đường. Tôi muốn nói với họ rằng không phải thế đâu. Không có sự bí ẩn và triền miên sung sướng nào ở Tây, ở người Tây cả. Họ cũng hoang mang, sợ hãi, và rạn vỡ như ta. Bên trong vẻ tự do, ăn mặc phá cách, nhảy múa thoải mái, tiêu tiền không cần nghĩ, da trắng, mũi cao, tóc vàng, các sinh viên của tôi đầy những sợ hãi và hoang mang. Nắng nóng làm họ sợ. Mưa làm họ sợ. Vòi nước chưa khử trùng làm họ sợ. Đói làm họ sợ. Những người ăn xin quanh Bờ Hồ làm họ sợ. Giao thông Việt Nam làm họ sợ. Khuỷu tay chạm vào họ trong đám đông trên phố cổ làm họ sợ. Nhà vệ sinh bẩn làm họ sợ. Đường xóc làm họ sợ. Chó thả rông làm họ sợ. Cứt trâu trên đường làng làm họ sợ. Muỗi, gián, kiến, ruồi, ve, nhện, chuồn chuồn, rệp làm họ sợ. Tiếng ồn làm họ sợ. Mồ hôi làm họ sợ. Ánh nhìn chòng chọc của những người đàn ông Việt Nam làm họ sợ. Tăm xỉa răng làm họ sợ. Bất cứ cái gì không quy chiếu được về “tính Mỹ”, “người Mỹ”, “trật tự sống Mỹ”, “kiểu Mỹ” trên một Việt Nam xa lạ đều làm họ sợ.
Nhưng còn những người Việt Nam đang sống trên chính Việt Nam thì sao?
Quan chức, ca sĩ, nhạc sĩ, họa sĩ, diễn viên, đạo diễn nổi tiếng mà tôi gặp cũng đầy hoang mang, mệt mỏi.
Giáo sư, tiến sĩ, giảng viên đại học tôi gặp cũng vậy.
Những sinh viên Việt Nam mà chúng tôi gặp thì ngơ ngác, không biết mình muốn gì, đang học gì, học xong sẽ làm gì.
Những cơ sở mà chúng tôi đến thì chỉ thoáng nhìn cũng biết những đứa trẻ, người già, thương binh, và cá nhân viên ở đây rất nhiều tâm sự.
Ở những nhà hàng chúng tôi vào ăn, chủ nhà hàng và nhân viên lúc nào cũng tất bật, nhớn nhác.
Trên những con đường chúng tôi đi, người ngồi trên xe, người dưới lòng đường, người lái xe, người chờ xe đều đầy lo lắng.
Ba tuần cọ xát liên tục với hai thế giới Việt Nam - Mỹ, tuy bên ngoài liên tục cười nói, tiếng Việt tiếng Anh, trong lòng tôi có một người ngồi bất động nhìn tất cả những gì đang diễn ra bên ngoài mà không phản ứng. Không phản ứng, dù bên ngoài vẫn ra quyết định và hành động, bởi vì không thể dựa vào bất cứ điều gì mà phản ứng với bất cứ điều gì. Dựa vào đâu cũng không đúng. Phản ứng với bất kỳ điều gì - dù bên ngoài dường như có sự phản ứng - đều sai. Chín sinh viên đi cùng tôi là chín thế giới nội tâm, liên tục biến đổi và sẵn sàng bùng nổ khi phải va chạm với Việt Nam. Cười đấy mà lập tức khóc đấy. Những người Việt Nam tôi gặp là những thế giới nội tâm khác nhau - cũng liên tục dịch chuyển và sẵn sàng bật khi bị nén quá đà. Bên dưới tất cả những vui vẻ, chảy trôi dường như bất tận và bất chấp tất cả của cả người Việt và người Mỹ là sự mong manh khổng lồ. Dường như mỗi chúng ta đều đang cố dùng son phấn, quần áo, xe cộ, nhà cửa, địa vị, danh thiếp, vợ chồng, con cái, bạn bè, cơ quan và các vật tùy thân khác để dệt một tấm vải che những miệng vực toang hoác. Chỉ cần một mũi kim, tấm vải sẽ thủng và cả suối nước mắt, giận dữ, cô đơn, si mê, sợ hãi sẽ tuôn trào. Khi khóc, thì Mỹ hay Việt đều giống nhau.
Đêm nào cũng thế, sinh viên đã về phòng an toàn, tôi một mình ra phố, đi bộ quanh một Hà Nội đang vào khuya, vừa thân thuộc vừa xa lạ. Nhà tôi thực ra chỉ cách đó mười phút, nhưng những ngày này, tôi vẫn là khách của Hà Nội. Tôi ngồi trên vỉa hè, ăn một bát phở gà 35 ngàn đồng. Trên đường về, nghe tiếng rao bánh bao nóng đây; không hề đói nhưng nhìn anh bán bánh bao gò lưng đạp xe, tôi gọi “bánh bao!” Anh phanh kít lại, nhảy xuống khỏi xe và dắt xe chạy tới chỗ tôi với một sự mừng vui làm tan nát lòng người.