← Quay lại trang sách

Chương 9 Trở lại chùa lần đầu

Khi tôi tiễn sinh viên về Mỹ rồi trở lại Hà Nội đã là cuối tháng Bảy. Hà Nội vào mùa mưa ngâu. Mưa triền miên cả tuần từ lúc tôi về nên hôm nay tôi mới có thể vào chùa. Nhìn công-tơ-mét, từ nhà đến chùa hơn 16 cây. Tôi đi gần một tiếng rưỡi mới tới.

Sân chùa ngập nước. Thầy Đạo đang ăn sáng ở bàn nước dưới chân nhà sàn gỗ. Thầy mời tôi vào ăn sáng nhưng tôi nói ăn rồi nên chỉ ngồi ở bàn nước. Trong lúc tôi ngồi đó, một bà già đi lại dọn dẹp. Thầy nói bà già là người làng, sống một mình nên ngày nào cũng vào chùa “chấp tác”.

“Tức là dọn dẹp, công quả cho nhà chùa” - thầy cười, thấy tôi không hiểu chữ “chấp tác” - “Nhưng hồi xưa bà ấy khỏe thì còn làm nhiều chứ giờ bà ấy sang chơi là chính.”

Ngày mưa nên chùa vắng. Gió thổi rất mát; mỗi lần có cơn gió lớn, cả loạt lá và nước mưa trên những cây nhãn lại trút ào ào. Chỉ có thầy Đạo, tôi, bà cụ chấp tác ngồi ở bàn nước nói chuyện. Thầy bảo đang mùa hè nên hai đệ tử lớn của thầy là sư ông Đạo Nhất và sư chú Đạo Nhị đều đi hạ (3) hết rồi; chỉ còn chú tiểu Đạo Ngũ ở chùa và ba đứa trẻ cứng đầu được gia đình gửi vào chùa nhờ thầy rèn một thời gian.

Chúng tôi đang nói chuyện thì một người đàn ông gần 40 dắt xe máy vào chùa. Anh này chắp tay chào thầy xong thì đi thay quần áo nâu rồi ngồi “hầu chuyện” thầy. Anh Sang là nhà báo, theo đạo Phật đã nhiều năm. Hôm nay anh vào “cúng chùa” đôi thanh xà bạch xà - một con rắn xanh, một con rắn trắng bằng vải - mỗi con dài gần mười mét, để treo lên xà nhà trong điện Mẫu.

“Thanh xà bạch xà là thế nào hả thầy?” - tôi hỏi vì lần đầu nghe chuyện này.

“Là hai ông chúa rắn, Thanh Xà đại tướng và Bạch Xà phó tướng, được các bà chúa quy phục nên làm người hộ pháp cho đạo Mẫu.”

Thú thực là tôi không biết gì về đạo Mẫu; chỉ lờ mờ rằng đó là đạo lâu đời ở Việt Nam, có rất nhiều người thờ và liên quan đến chuyện hầu đồng. Nhưng hầu đồng là thế nào, tôi cũng chưa bao giờ biết.

“Ở Việt Nam giờ hầu đồng nhiều lắm” - anh Sang nói - “Dân văn nghệ sĩ hầu nhiều. Thằng M là trùm sò, nó căn cô Chín.”

“Cô Chín là ai ạ? Căn là cái gì ạ?”

“À, là cô Chín. Căn cô Chín tức là mình hợp với cô Chín, gọi là sát căn đấy.”

“Như thế nào thì là có căn ạ? Làm thế nào biết mình có căn?”

“Thì cũng như có duyên nợ với cô Chín đấy em. Cũng có thể là kiếp trước mình hay xin lộc của cô, được cô ban lộc, thì kiếp này phải ra trình đồng mở phủ trả nợ. Em không trả thì em làm ăn không được; em thấy bứt rứt cũng như người thiếu nợ thì ăn không ngon ngủ không yên. Khi nào em ra trình đồng mở phủ rồi thì em thấy nó yên.”

“Thế Mẫu là ai ạ? Đạo Mẫu thờ ai ạ?”

“Thờ nhiều người, em cứ vào điện Mẫu nhìn tứ phủ công đồng ấy, có ban bệ từ trên xuống. Trên thì có vua cha Ngọc Hoàng; rồi xuống Mẫu Đệ Nhất, Đệ Nhị, Đệ Tam, rồi có các chầu bà, các quan, các ông hoàng, rồi còn có các cậu nữa (4) .”

Anh Sang nói nhiều tên và nhiều chuyện khác nữa nhưng tôi chịu không nhớ được. Thầy Đạo nói:

“Đã theo Phật thì thực ra cấm tiệt chuyện đồng bóng. Nhưng đạo Mẫu ở mình từ hàng ngàn năm rồi; khi đạo Phật vào nước mình thì cũng phải bản địa hóa để sống được cho nên chùa nông thôn thì chùa nào cũng có điện Mẫu.”

“Thế Phật với các vị thánh thần thì có quan hệ với nhau thế nào ạ?” ( Tôi nhớ khi Tôn Ngộ Không đại náo thiên cung, Ngọc Hoàng không đối phó được phải mời Phật tổ Như Lai đến giải quyết ).

“Là các cõi khác nhau cô ạ, quả vị khác nhau, cảnh giới khác nhau. Thánh thần vẫn trong Tam giới, chưa giải thoát; Phật thì xuất Tam giới.”

“Tam giới là gì ạ?”

“Là Dục giới, Sắc giới, và Vô sắc giới. Cô đọc kinh Lăng Nghiêm sẽ có giải thích rất rõ Tam giới.”

“Lấy gì để phân chia các cõi ạ?”

“Lấy tâm. Tùy tâm tịnh đến đâu mà tương ứng với cõi giới đó.”

Chúng tôi đang nói chuyện thì một phụ nữ đi xe đạp tới, mang theo rất nhiều nhãn. Chị ấy bày nhãn lên đĩa rồi chắp tay nói với thầy Đạo:

“Bạch thầy, sư cụ trên chùa con mang lễ để cúng Phật ạ.”

“Cô mang lên cúng Phật, cúng tổ đi.”

“Vâng, bạch thầy. Con lên lễ rồi con xin về luôn ạ.”

“Lại về ngay à?”

“Vâng.”

“Vu Lan có sang không?”

“Có chứ ạ.”

Tôi hỏi thầy Vu Lan là gì, tôi đã nghe nhiều lần nhưng không hiểu. Thầy nói Vu Lan là dịp báo hiếu cho mẹ. Việc này xuất phát từ ông Mục Kiền Liên, một trong các đại đệ tử của Đức Phật Thích Ca. Sau khi chứng quả, ông Mục Kiền Liên dùng thần thông nhìn khắp các cõi xem mẹ mình đã chuyển sinh vào cõi nào thì thấy mẹ đang ở dưới địa ngục, phải chịu tra tấn, đói khát. Ông Mục Kiền Liên đau lòng trở về bạch Phật tại sao mẹ ông lại bị như vậy và làm cách nào để cứu. Phật nói rằng mẹ ông chịu quả báo của việc phá chùa hủy báng tăng trong quá khứ. Để cứu mẹ thì vào ngày mãn hạn an cư, gọi là ngày tự tứ, chư tăng tập trung đầy đủ, ông Mục Kiền Liên có thể sắm lễ, thỉnh chư tăng thụ trai rồi xin chư tăng chú nguyện cho bà; nhờ lực chú nguyện của tăng chúng mà bà có thể được cứu. Do đó mới có ngày Vu Lan - là ngày mà những người muốn tưởng nhớ cha mẹ tổ tiên, muốn cho họ thoát khỏi các cảnh giới thấp hoặc tăng trưởng phước đức thì sẽ thỉnh chư tăng thụ trai và tụng kinh chú nguyện.

Chuyện cũng kể rằng, ngài Mục Kiền Liên về cuối đời bị người ta dùng gậy đánh chết. Các đệ tử hỏi Phật tại sao ngài Mục Kiền Liên hiếu hạnh và thần thông đệ nhất như vậy mà vẫn bị đánh chết. Đức Phật nói rằng ông Mục Kiền Liên phải trả nghiệp đánh mẹ trong một kiếp quá khứ. Nguyên có một kiếp, ông Mục Kiền Liên là một thanh niên có người mẹ bị mù. Khi đến tuổi trưởng thành, ông lấy một người vợ xinh đẹp nhưng độc ác. Người vợ này xui ông đem mẹ già mù bỏ vào rừng để khỏi phải nuôi nấng chăm sóc. Ông nghe vợ đưa mẹ vào rừng, bảo mẹ ngồi xuống chờ mình, rồi lấy gậy đánh mẹ. Người mẹ vừa bị đánh một gậy thì tưởng có cướp đến đánh mình bèn kêu lên:

Con ơi, có cướp, con hãy chạy đi, đừng lo cho mẹ.

Ông Mục Kiền Liên nghe mẹ nói thế thì choàng tỉnh, vứt gậy đi, sụp xuống xin lỗi rồi đưa mẹ về. Ông nguyện đời đời sinh ra đều làm người con hiếu thảo. Nhưng vì đã đánh mẹ một gậy nên sau vẫn phải chịu quả báo bị lấy gậy đánh chết vì bất hiếu là một trọng tội.

Thầy Đạo nằm trên võng mắc giữa hai chân cột nhà sàn, vừa đong đưa vừa kể chuyện ngài Mục Kiền Liên. Tôi ngồi nghe, rồi nghĩ trời ơi, nếu quả có kiếp trước thì trong vô lượng kiếp tính tới nay, vì ngu si, mù quáng, không biết tôi đã làm những việc tày trời gì đây. Giết người, đánh người, hại người, trộm cắp, dâm loạn, bất hiếu, dối trá - trong triệu kiếp, ngàn kiếp, tôi chắc chắn đều đã làm cả. Nghĩ mà xem, từ lúc nhỏ tới giờ, chỉ 30 năm thôi, nếu thật trung thực, tôi cũng đã làm đủ thứ không ra gì. Dù tôi không cướp của giết người đánh cha chửi mẹ, nhưng mỗi ngày, từ lúc mở mắt thức dậy đến lúc nhắm mắt đi ngủ, tôi nghĩ đủ thứ điên rồ về người này người kia, việc này việc kia, điên điên đảo đảo lảm nhảm trong đầu đủ thứ chuyện, việc này đúng, việc kia sai, mình thế này, họ thế khác...

Thế thì từ bao nhiêu đời - nếu quả có kiếp trước - tôi đã làm khổ bao nhiêu người? Và nếu quả có đời trước thì vào những đời mà tôi tăm tối, nghèo khổ, hoặc gặp bệnh tật, tai ương, hoạn nạn, thì tôi đã làm những việc tày trời gì?

Đang nói chuyện thì chú tiểu Đạo Ngũ bê rổ rau đi ngang qua. Tôi theo chú vào bếp nấu cơm trưa. Bếp chùa chỉ là một căn phòng nhỏ và tối ở đầu hồi. Bếp chủ yếu nấu củi; có thêm một bếp ga nhỏ để thỉnh thoảng nấu đồ cúng Phật, cúng tổ, hoặc nấu cho thầy. Chú Đạo Ngũ vừa nấu cơm vừa hát mà hai tay vẫn thoăn thoắt. Tôi thấy chú Ngũ thật là hay.

“Chú Ngũ cứ tu rồi lên sư bác, sư ông à?”

“Không ạ, phải thọ giới chứ, thọ giới sa di thì thành sư bác này, thọ giới tỷ khiêu thành sư ông này. Cháu vẫn là tịnh nhân.”

“Anh là tiểu nhân thì có” - thằng bé Hùng đứng đó cười khanh khách - “anh là chú tiểu thì phải gọi là tiểu nhân chứ.”

“Vô duyên!” - chú Đạo Ngũ lườm.

Tôi bật cười. Cái gì ở chùa cũng là lạ, cũng quê quê mà lại vui vui.

“Cô giáo xào rau hộ nhà chùa để nhà chùa đi cúng Phật, cúng tổ nhé” - chú Đạo Ngũ nói rồi đưa tôi đôi đũa cả lớn bằng tre vừa sứt sẹo vừa đen đúa.

Chà! Phải cúng Phật, cúng tổ xong mới được ăn cơm - sự hiếu thuận rất cổ điển và trong sáng này, lâu lắm rồi tôi không còn thấy ở bất kỳ đâu nữa. Ở Việt Nam không có mà ở Mỹ cũng không có.

Tôi xào rau rồi bê lên bày ra bàn ăn dưới chân nhà sàn. Thầy, chú Đạo Ngũ, lũ trẻ, anh Sang, và tôi ngồi quanh bàn ăn cơm. Cơm chỉ có rau xào với đậu mà rất ngon. Ăn xong, thầy bảo tôi lên tầng hai nhà sàn ngủ trưa, ở đây là chùa quê, giờ trưa mọi người đều đi ngủ cả. Khi tôi ngủ dậy, thầy đang ngồi ở bàn nước giảng cho hai người khách về lịch sử chùa. Thầy bảo theo Đại Việt sử ký toàn thư thì chùa được vua Lý Công Uẩn xuống chiếu dựng lên cùng với bảy ngôi chùa khác thành bát thánh tự trấn thành Thăng Long ngay sau khi dời đô từ Hoa Lư. Nhưng theo huyền sử thì chùa được xây từ đầu thế kỷ 1, khi các nhà truyền giáo từ Ấn Độ theo đường biển sang Việt Nam truyền bá đạo Phật. Vào thời đó, đô thị Luy Lâu, tức khu vực châu thổ đồng bằng Bắc Bộ bây giờ, là một trong ba trung tâm Phật giáo lớn nhất châu Á, cùng với Bành Thành và Lạc Dương của Trung Quốc. Vua Lý Công Uẩn chỉ dựng lại chùa trên nền đất cũ mà thôi.

Đến ba rưỡi, anh Sang rủ tôi lên chùa học chuông mõ với chú Đạo Ngũ. Đánh chuông nhìn tưởng chỉ boong boong mà thực ra rất khó; có đủ phép tắc vào chuông, ra chuông, rải chuông; tiếng chuông khi thì cần đều đặn, thanh trong; khi cần dứt khoát, nhiếp phục người nghe. Anh Sang thử rất lâu không được vì anh chăm chú quá. Chú Đạo Ngũ tiếp tục dạy anh Sang chuông mõ. Tôi đi ra ngoài, thấy thằng bé Thắng đang vơ vẩn trong vườn, mặt mũi lơ ngơ. Ở nhà, chắc nó là một đứa bé được nuông chiều và bướng lắm. Ở chùa thì không có ai chiều.

“Cháu sống ở đây thấy thế nào?”

“Bình thường ạ.”

“Năm nay cháu lớp 7 à?”

“Năm nay cháu mới lên lớp 7...” - nó tần ngần - “Cô ơi, cô có nhớ ăn thịt không?”

“Cô vẫn ở nhà mà, cô vẫn ăn thịt. Cháu có nhớ ăn thịt không?”

“Không ạ” - nó nói thế nhưng mặt rầu rầu.

Loanh quanh đã lại hết buổi chiều. Ở chùa làng, thời gian trôi đi thật thong thả, tưởng như không có việc gì quan trọng cả.

Năm giờ chiều, bọn trẻ đã lại bê bát ra bàn ở nhà sàn để chuẩn bị cơm chiều. Bữa tối ở chùa luôn luôn vào 6 giờ, không đổi. Tôi đang ngồi với thầy thì chú Đạo Ngũ hớt hải chạy xuống:

Thầy ơi, tổ về, vào chú Sang, nói là phải chỉnh lại cái khăn quàng của tổ nhưng nói là không cần thỉnh thầy nên con không thỉnh.

“Chắc cái khăn bị lệch, chỉnh lại đi, tổ nói không cần thỉnh thầy hả?”

“Vâng ạ.”

“Thế thì thôi.”

Chú Đạo Ngũ thoăn thoắt bước đi. Tôi hỏi thầy:

“Tổ về là thế nào ạ?”

“Là một cụ tổ của chùa này về, gá vào thân chú Sang, có chuyện gì cần nói thì tổ nói. Bao nhiêu năm chùa bỏ không, giờ sửa lại khang trang các ngài phấn khởi nên hay về.”

“ Gá là thế nào ạ?”

“Là mượn thân người của Sang còn thần thức là của các tổ. Như mình cho mượn áo hay mượn xe đấy cô. Khi các tổ mất thì họ chỉ còn là thần thức thôi. Họ muốn hiện tướng thì phải mượn thân xác phàm.”

“Tức là nhập vào anh Sang ạ?” ( Tôi nghĩ đến phim Hồn ma).

“Ừ.”

“Thế lúc gá như thế anh Sang có biết gì không ạ?”

“Cũng tùy các tổ vào sâu hay không. Đạo lực của các tổ càng lớn thì Sang càng không có khả năng điều khiển; còn nếu không thì Sang vẫn có thể tác ý .”

“Tác ý là thế nào ạ?”

“Tức là Sang vẫn có thể khởi lên ý của Sang và nói ra như ý của các tổ.”

“Thế làm sao để biết là tổ ạ?”

“Phải biết chứ. Có nhiều cách để đối chiếu mà cô.”

“Thế nếu chỉ là thần thức, mình không thấy được thì có bao giờ có chuyện giả vờ không ạ?” ( Tôi nghĩ đến chuyện Bạch Cốt Tinh trong Tây du ký).

“Có chứ. Nhưng giả vờ thì cũng biết mà. Mình phải có chính kiến, có kiểm chứng chứ cô.”

“Thế ai cũng cho gá được hay chỉ có anh Sang thôi ạ?”

“Cái này do nhân duyên, không phải ai cũng cho gá được. Vong thì nhiều người có thể cho gá. Còn các tổ, các bậc thánh, thì phải là người có tu hành ít nhiều mới đủ phước cho các tổ gá vào cô ạ.”

Một lúc sau chú Đạo Ngũ lại chạy xuống:

“Bạch thầy, tổ nói thỉnh thầy lên có việc.”

Thầy Đạo đứng lên đi về nhà tổ. Mấy đứa nhỏ cũng rồng rắn chạy theo thầy. Tôi nửa muốn lên quan sát, nửa lại cảm thấy như thế là quá tọc mạch. Có thể các tổ có chuyện riêng tư của chùa muốn nói với thầy; tôi thì chỉ là khách. Vậy là tôi một mình ngồi lại.

Nhiều điều lạ quá. Sao có những điều hình như người Việt Nam nào cũng biết và thấy bình thường - như chuyện hầu đồng, chuyện Mẫu, các ông hoàng, Vu Lan, chuyện thờ cúng mồ mả tổ tiên, chuyện kiếp trước kiếp sau, chuyện gọi hồn gọi vong, mượn xác, nhập xác, ma quỷ, cảnh giới - mà tôi hoàn toàn không biết?

Kinh Lăng Nghiêm thì nói Tam giới có Dục giới, Sắc giới, và Vô Sắc giới; mỗi cõi giới chia nhiều tầng khác nhau, tùy vào mức độ nặng nhẹ của tình và tưởng. Tình càng nhiều thì càng chìm ở cõi thấp vì tình có tính nặng và u ám, tối tăm; tưởng nhiều thì lên các cõi trên vì tưởng nhẹ và sáng hơn. Cũng giống như cùng bản chất là H₂O nhưng có thể đóng thành băng hay đá rắn hoặc thành thể lỏng, thành tuyết, thành mây, mù, hơi nước, không khí, v.v... Cái nặng chìm xuống, cái nhẹ bay lên. Trong lục đạo luân hồi, chỉ có loài người và súc sinh là có hiện tướng xác thịt; giữa hai loài, động vật tình nhiều, tưởng ít nên chúng chủ yếu vận động bằng các cảm xúc bản năng như đói thì cắn giết nhau để ăn, khi dục tâm nổi thì giao cấu. Còn trong loài người, có người tình nhiều tưởng ít thì sẽ hành xử chủ yếu theo sân hận, si mê, hay tham lam; người nào tưởng nhiều hơn thì sẽ thông minh, lý trí hơn.

Chuyện tình và tưởng này, tôi thấy có lý nhưng còn các chuyện khác, tôi vẫn chưa thể nhập được vào đầu.

Ngày mai tôi sẽ tiếp tục vào chùa để tìm hiểu.