Chương 10 Lục đạo luân hồi
Dạo này, trời thường mưa suốt đêm nhưng sáng thì hửng nắng. Tôi ăn sáng rồi ra khỏi nhà lúc 7 giờ 15 phút. Con đường đất chạy vào chùa rất dài, ngang qua đến bốn làng. Đi hết ba làng, tôi đếm được hơn 10 chùa, đình, đền trong khoảng bốn cây số; có làng lại phân thành các xóm nhỏ (thượng, cầu, mỹ, hạ). Tôi đi gần đến chùa thì một thanh niên chừng 20 đứng giữa đường vẫy tôi:
“Cô ơi cho cháu đi nhờ về cuối làng.”
Tôi đứng lại cho cậu ta đi nhờ. Tôi bịt mặt kín mít nên cậu ấy tưởng tôi là bà già; lại thấy tôi đi xe không được thuần nên cứ ngoái cổ lên nhắc:
“Cô vào số 3 chỗ này đi.”
“Cô vào số 4 đi cho nó đều máy.”
“Cô người làng này à?”
“Không, tôi ở Hà Nội, vào chùa có tí việc thôi.”
“Cháu ở cách đấy hai cây.”
Buồn cười, những cái giao tiếp đơn giản của người Việt đôi khi cũng làm tôi lạ lẫm.
Hôm nay chùa vắng, bàn nước và sân không bóng người. Tôi đi lên chính điện thì thấy một đống phân chó ở trước bàn thờ. Gặp chú Đạo Ngũ ngoài vườn rau, tôi nói chú Ngũ ơi, có con chó nào ị ngay trong chính điện. Chú Đạo Ngũ bỏ rơi rổ rau chạy vội vào, lại thấy chó ăn cả mấy trang Chư kinh nhật tụng tơi tả trên nền gạch. Chú Đạo Ngũ giậm chân:
“Giời ơi, con nghiệt súc này, không biết kiếp trước nó làm gì mà kiếp này phá kinh sách của Phật thế này hả giời? Thế này thì kiếp sau nó sinh làm con gì đây?”
“Giời ơi, con nghiệt súc, nó phá hoại kinh sách của tôi thế này này...”
“Sao nhà nào có chó không xích lại, lại thả rông chó vào chùa cắn kinh sách thế này, bất lịch sự quá đi mất.”
Hai chúng tôi cầm gậy lùa con khó ra khỏi chùa nhưng nó không chịu đi, cứ chạy vòng quanh rất lâu mới ra khỏi chùa. Rồi chú Đạo Ngũ nhờ tôi mang cuốn kinh bị chó cắn rách đi “hóa”.
“Là đi đốt” - chú Đạo Ngũ nói khi thấy tôi ngần ngừ không chắc mình phải làm gì - “Cô mang ra chỗ kia hóa cho nhà chùa với. Từ hôm qua đến giờ hóa hai cuốn rồi đấy cô ạ.”
Hóa xong cuốn kinh, tôi theo một bà già đi quét chùa. Một lúc sau, chú Đạo Ngũ đã mang ra một cái khay có năm loại đậu - xanh, đỏ, đen, trắng, vàng - cùng với một chậu cát và một bó hương. Chú Đạo Ngũ lấy hai nén hương chập thành một nhánh, xếp năm nhánh ngang, đan với năm nhánh dọc, gọi là tứ tung ngũ hoành. Chú giải thích tứ tung ngũ hoành tượng trưng cho không gian thời gian vô tận, vô biên, còn năm loại đậu là “ngũ chủng tính.”
“Đây là phép tán sa cho người chết trùng tang cô giáo ạ. Người chết trùng thì sau khi chôn, đến 12 giờ đêm, có thần trùng biến thành con chim từ trên lao xuống mộ mổ xác người mới chết. Thần thức người mới chết vẫn còn quyến luyến cái thân xác mình nên cảm thọ sự đau đớn, do đó họ về bắt người nhà chết thế. Cho nên phải làm phép tán xa. Thầy cháu nói phải có một người ngoài họ đi ngược chiều gió rắc cát quanh mộ, giống như là quây hàng rào để bảo vệ ấy. Rồi rắc đậu lên để đậu mọc thành cây thì con thần trùng nó nghĩ đây không phải mộ mới nên nó không tới. Nhưng đầu tiên phải để đậu, cát, và hương lên bàn thờ luyện trong 21 ngày rồi mới mang đi làm được, trường hợp nào gấp thì bảy ngày.”
“Hay nhỉ” - tôi nghĩ - “Người dân mình công nhận trí tưởng tượng phong phú. Không biết bao nhiêu phần trăm trong những niềm tin này thuộc về đạo Phật, và bao nhiêu phần trăm là do thêm thắt từ sự mê tín, lại còn các loại giáo điều của các triều đại cầm quyền nữa. Đa phần người Việt Nam không hiểu rằng ngay cả tôn giáo cũng có lịch sử và một quy trình xã hội hóa, bản địa hóa, nên nó biến đổi theo địa phương và theo chế độ chính trị; cho nên cái mà họ thấy là hiển nhiên ở thời này chưa chắc đã là sự thật mà chỉ là sản phẩm nhất thời hoặc sản phẩm của một quá trình lịch sử.”
Chú Đạo Ngũ vừa cẩn thận đan hương vừa hỏi tôi:
“Cô giáo có biết vì sao mọi người khi khấn lại nói ‘con lạy chín phương trời, con lạy mười phương Phật’ không?”
“Không ạ.”
“Ôi, dễ thế mà không biết à?” - chú Đạo Ngũ cười - “Vì Phật thì có ở Đông, Tây, Nam, Bắc, Đông Bắc, Tây Nam, Tây Bắc, Đông Nam, thượng và hạ, thế là mười phương; còn trời thì không có hạ nên chỉ có chín phương thôi, trời phải ở trên chứ.”
“Sao Phật lại cũng có ở phương dưới ạ?”
“Vì chư Phật có lòng từ bi nên cũng hóa thân vào các cõi dưới để cứu độ chúng sinh ở các cõi đấy cô ạ. Như là Bồ Tát Địa Tạng ở trong địa ngục để hóa độ những người bị đọa vào địa ngục đấy, cô hiểu chưa?”
Tôi cười:
“Vâng, hiểu rồi ạ.”
“Thế cô có biết lục đạo luân hồi là gì không?”
“Không ạ.”
“Ôi lại cũng không biết à?” - chú Đạo Ngũ cười - “Là trời, người, a-tu-la, địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Nếu chưa giải thoát thì cứ theo nghiệp đầu thai vào mấy đường đó. Thấp thì xuống địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh; còn cao hơn thì làm người hoặc atula; cao hơn nữa thì lên các cảnh trời. Nhưng trên trời, hết phước thì lại đọa xuống.”
“Thế nếu giải thoát thì ở đâu ạ?”
“Ôi cái này thì cháu cũng không hiểu rõ đâu, cô giáo hỏi thầy ấy, nói nhiều mà nói sai thì lại khẩu nghiệp chết.”
“Chú Ngũ ơi, tại sao mọi người vào chùa gọi thầy là thượng tọa? Thượng tọa là gì ạ?”
“À, thì là cấp bậc thôi. Khi nào thụ giới tỷ khiêu rồi thì từ mấy hạ trở lên ấy thì sẽ là đại đức; rồi mấy chục hạ thì lên thượng tọa, rồi lên hòa thượng, rồi đại lão hòa thượng. Ở Việt Nam thì cháu chỉ thấy có mấy đại lão hòa thượng thôi.”
“Thế như chú bây giờ thì là đại đức hay gì ạ?”
“Ôi không, cháu mới là chú tiểu thôi” - chú Đạo Ngũ che miệng cười - “Khi nào thầy thụ giới cho thì cháu mới được là sa di, tức là sư bác đấy, xong rồi lúc đấy lại chờ vào Giáo hội, khi nào có các giới đàn mà mình tu tập đầy đủ thì mới được thụ giới tỷ khiêu, lúc đấy mới được đắp cà sa, dự vào hàng Tăng Bảo đấy ạ.”
“Thế bao giờ thì chú được thụ giới?”
“Cái đấy tùy thầy cháu. Giới luật thì nói phải 20 tuổi nhưng mà còn tùy vào thầy. Đủ tuổi rồi mà thầy mình thấy tu tập không đến nơi đến chốn thì cũng chẳng được. Thầy hay mắng cháu là uy nghi không có. (cười) Phải đường đường tăng tướng, chúng đức uy nghi cô ạ.”
Chú Ngũ làm tôi rất tò mò và quý mến bởi vì chú rất hồn nhiên. Thực sự chú vẫn còn là một đứa trẻ; mỗi lần thầy có khách đến chơi là chú lại từ bếp chạy ra háo hức hóng huyện, thầy đuổi năm lần bảy lượt chú mới chịu đi. Hầu như ngày nào chú đi học về cũng bị thầy mắng vì tội la cà dọc đường. Mỗi lần thầy mắng, chú đều khép nép đứng, cúi đầu vâng dạ, khuôn mặt rất nghiêm trang hối lỗi, nhưng thầy vừa đi là chú lại toét miệng cười. Nhưng phút này, chú là đứa trẻ; phút sau chú nói những lời buông xả và thâm sâu của một bậc đắc đạo. Tôi bắt đầu nghĩ có lẽ đúng là có cái mà người là gọi là “căn tu”. Thầy Đạo bảo, vào thời chính pháp, Phật còn tại thế thì được gặp Phật rồi nghe Phật thuyết pháp, người ta phát tâm rất dễ và có thể giác ngộ chỉ bằng một bài pháp ngắn. Còn giờ là thời mạt pháp rồi, Phật đã nhập diệt mà các bậc thánh cũng ít nên người phát tâm được đều phải có căn từ trước hoặc là các bậc tái sinh trở lại theo nguyện. Thật sự, chú Ngũ vẫn là một đứa trẻ; thế thì làm sao đã đủ ý thức chuyện sinh tử, giải thoát, mà quyết định từ bỏ cuộc sống trần thế để xuất gia cầu đạo?
Chuyện này tôi cũng đã hỏi chú Đạo Ngũ và chú kể.