← Quay lại trang sách

Chương 14 Cha mẹ tại nhà như Phật tại gia

Mưa, mưa, mưa. Cả tháng Bảy mưa ngâu tầm tã. Ngày này qua ngày khác. Đất chưa kịp khô, mưa lại đổ xuống. Đường làng ngày một lầy lội; nhiều đoạn dài lõng bõng bùn vàng, có đoạn nước ngập ngang máy xe. Nghĩ đến việc đi lại 16 km dưới mưa để đến chùa mỗi ngày tôi cũng ngại nhưng không vào chùa tôi lại nhớ.

Hôm nay là ngày đầu tiên làm lễ phả độ gia tiên trong đợt lễ Vu Lan và rằm tháng Bảy. Lúc 8 rưỡi sáng, chùa đã rất đông người. Hàng chục mâm cỗ đã được bày trên chính điện, nhà tổ, nhà Mẫu, nhà thánh, phủ cô Đa. Cỗ có xôi, giò, tôm nõn, chả nem, dưa góp - tất cả đều là đồ chay, làm từ đậu hoặc bột mì, bột gạo. Có người mang đến mấy thùng lớn hoa quả rồi bày thành những mâm ngũ quả chất ngất. Vàng mã hàng bao tải, cộng với các bộ quần áo giấy. Người nấu nướng trong bếp tấp nập. Rất nhiều người làng và người ở các tỉnh khác về làm lễ; xe máy đầy trong sân và ngoài cổng chùa. Trong nhà Mẫu, nhạc cung văn mở tưng bừng. Không khí thật khác những ngày tĩnh mịch trước đây.

Trên Tam Bảo, ba bà già và một chị đang xếp quần áo chúng sinh, tức các bộ quần áo giấy sẽ được cúng và đốt cho các chúng sinh cõi âm. Cứ một quần đi với một áo, quần lồng vào bên trong. Một bà già không biết, sắp quần riêng, áo riêng; bà kia bảo:

“Ơ, bà sắp lại đi chứ. Sắp thành bộ để ai lấy bộ nào được bộ nấy luôn, khỏi phải đi tranh quần cướp áo của nhau.”

Tôi vẫn chưa thể quen cái cách người đến chùa nói với nhau về thế giới âm một cách hiển nhiên, bằng một niềm tin tuyệt đối rằng “dương sao âm vậy”. Nhưng khi tôi lỡ tay kéo rách một cái áo giấy; tự nhiên tôi cũng nghĩ vong nào mà lấy phải cái áo này chắc sẽ tủi thân lắm. Vậy là tôi bỏ cái áo rách qua một bên để không lẫn với áo mới.

Gần 9 giờ sáng, các bà già và lũ trẻ trải chiếu trong Tam Bảo rồi bày các giá gỗ để đặt kinh. Họ sắp thêm vàng mã lên các mâm quần áo chúng sinh để khi đốt thì chúng sinh vừa được quần áo vừa có tiền tiêu. Tôi lấy một quyển kinh Vu Lan, mang ra góc nhà ngồi xem. Đây là lần đầu tôi đọc một cuốn kinh. Tôi vừa mới để kinh xuống đất để ngồi cho ngay ngắn thì một bà già kêu lên:

“Giời ơi, chết rồi, sao lại để kinh xuống đất?”

Tôi vội đặt lên đùi, bà bảo:

“Để lên đùi cũng không được, đội lên đầu thì may ra còn được, ra lấy kệ đặt kinh đi.”

“Dạ, xin lỗi bà, con không biết ạ” - tôi nói.

“Lần sau đừng có mà để kinh xuống đất” - chị gầy gầy ngồi gần bảo.

“Dạ em không biết ạ.”

“Ngu dại thế đấy” - bà già nói.

Tôi vâng lời ra lấy một cái giá gỗ để đặt kinh, lòng hơi hậm hực. “Chết, nhiều quy tắc hình thức thế này thì chỉ thêm sợ chứ giải thoát cái gì?” Cái giá gỗ phải lấy hai tay bẻ thì mới xếp được nhưng tôi không dám bỏ kinh xuống đất để bẻ giá gỗ, cứ loay hoay, chị gầy gầy lúc nãy phải giúp tôi.

Hơn 9 giờ bắt đầu lễ. Phật tử đã lên ngồi chật điện. Nhiều người lúc nãy nấu cơm còn mặc áo thường, giờ đã mặc áo tràng dài màu nâu hoặc xám. Họ chắp tay chờ thầy vào. Rồi chuông trống nổi lên. Hôm nay chú Đạo Ngũ đánh trống, sư già Mai đánh não bạt; nhưng sư già đánh không đều, một lúc sau chú Đạo Ngũ một tay trống, một tay não bạt. Chú Đạo Ngũ đánh trống rất điêu luyện, hai tay như múa, trống chuông giòn giã.

Phải cúng Phật trước. Thầy đọc nhiều đoạn chú, rồi tên các vị Phật - mỗi lần như vậy, mọi người lại quỳ rạp xuống lễ. Tôi ngồi cạnh chị gầy gầy kia - chị ấy chắc nghĩ tôi là học sinh cấp ba đến chùa cúng Vu Lan lần đầu nên cứ xẵng giọng ra lệnh cho tôi:

“Quỳ đi.”

“Lễ đi.”

“Chắp tay vào.”

“Chạm hẳn đầu xuống đất ấy.”

“Nghe chuông mới được ngẩng đầu lên.”

Thầy cúng Phật xong thì dẫn chúng tụng kinh Vu Lan. Có người thuộc lòng kinh, có người nhìn sách đọc. Tiếng đọc đồng thanh vang vang nhịp nhàng rất hay mặc dù lời kinh có những chỗ tiếng Việt cổ, không thuần. Kinh Vu Lan nói chuyện công ơn mẹ mang thai chín tháng mười ngày, chịu bao nhiêu khổ đau khó nhọc nhưng lúc nào cũng chỉ nghĩ đến con mà chịu đựng tất cả. Trong Tam Bảo ai cũng rưng rưng; có người khóc.

Hết kinh Vu Lan thì niệm A Di Đà Phật 108 lần. Các bà già đồng loạt lấy những cỗ tràng hạt dài từ trên cổ xuống, miệng niệm, những bàn tay xương xẩu nhăn nheo chậm rãi lằn lần tràng hạt. Thật đẹp.

Nam mô A Di Đà Phật, nam mô A Di Đà Phật... - cứ thế miên man.

Xong kinh thì thầy tuyên sớ cho các nhà. Sớ rất dài, gia đình nào cũng hàng chục tên, từ cụ kỵ, ông bà, những người chết trẻ, các thai nhi đã bị bỏ. Những người đã chết gọi là “chân linh”; thai nhi thì được gọi là “cô bé đỏ, cậu bé đỏ, thai linh, huyết linh”. Thầy đọc tên chân linh, năm mất, mất tại đâu, có khi đọc cả số mộ phần trong nghĩa trang.

Chân linh Nguyễn Văn Tịnh, sinh năm 1920, mất năm 1967, mộ phần an táng tại ô số 4, lô 1, nghĩa trang xã..., huyện..., tỉnh...

Chân linh từ cả nước - miền Nam, miền Trung, miền Bắc đều có tên. Trong điện, mọi người nhấp nhổm chờ, đọc xong sớ nhà mình là họ vái lạy rồi ra ngay. Sớ nhiều lắm. Hết nhà này đến nhà kia. Tên người đã khuất tuôn chảy như một dòng sông. Tuyên Quang, Yên Bái, Lạng Sơn, Hải Dương, Hải Phòng, Hà Nội. Có sớ từ trong miền Nam ra. Vũng Tàu, Long An, Cà Mau. Tôi ngồi trong điện nghe, cảm thấy sự sống vận chuyển cuồn cuộn khắp nơi; sống chết liên tục xoay vần muôn hình vạn trạng.

Sớ còn cả xấp dày nên tôi ra ngoài, xuống nhà sàn nghe các bà già nói chuyện đồng áng, nhà cửa. Các bà dùng từ rất lạ.

“Cỏ năm nay hỗn lắm. Mọc hết cả đất.”

“Thì trong họa có phúc trong phúc có họa mà.”

“Vâng, linh tại ngã, bất linh tại ngã.”

“Mời các bà xơi nước. Mời sư ông chứng nước ạ.”

“Để pha ấm mới, cái này cô Tám cô Chín rồi ( ý nói nước trà thứ tám, nước chín ).”

“Đâu, cô Đệ Nhất đấy ( ý nói nước thứ nhất ).”

“Gớm lại gọi hết các cô của Mẫu lên đấy à?”

“A Di Đà Phật, con lạy Mẫu ạ ( vái vọng về phía, điện Mẫu ).”

Gần 1 giờ chiều mới tuyên sớ xong, mọi người mang sớ nhà mình đi hóa rồi sư già Mai dẫn mọi người tụng kinh Địa Tạng. Những người trẻ xuống hết, chỉ còn các bà già ngồi tụng cùng sư già. Tôi nói với chú Đạo Ngũ:

“Chắc thầy mệt rồi, chú đi mời thầy ăn cơm đi.”

Chú Đạo Ngũ cười:

“Vâng, đang đi triệu linh tiếp linh đây ạ” - rồi tự bịt miệng mình - “Ôi, thầy mà nghe thấy thì thầy đánh cháu chết.”

Phải hơn 1 giờ mới bắt đầu ăn trưa, sáu mâm dưới nhà Mẫu, bốn mâm ở gần nhà sàn. Các Phật tử ăn rào rào, nói ăn cơm chùa phải tự đi ăn, không ai mời mình đâu, một số đứng gốc cây ăn lộc từ mâm cúng vong gồm ngô khoai, bánh, cháo, oản, cơm nắm. Tôi ăn cùng với mấy bà già, rồi đi ngủ. Trong phòng, bọn trẻ con mệt vì thức dậy từ sớm, nằm ngả ngớn ở các giường. Huy đã trèo lên giường tầng hai rồi nên nói với Hùng:

“Chú Hùng, chú phát tâm lấy hộ tôi cuốn sách trên bàn với.”

Làm tôi bật cười. Hay quá. “Phát tâm lấy hộ tôi cuốn sách”, ừ, “phát tâm”. Kể ra thì làm gì cũng phải phát tâm thật. Cái tâm nó đang ngủ, đang mơ mơ màng màng, lười lười, bướng bướng, bây giờ muốn nó làm việc thì phải khều nó dậy, phải xốc nó lên, có khi phải ép nó, khích nó, cầm gậy đánh vào mông nó. Phát tâm. Hay quá.

Khi tôi dậy, sư già Mai gọi tôi vào nhà Tứ Ân chép hộ tên người khắc trên các bia để ngày mai thầy đọc tên lúc làm lễ xá tội vong nhân. Trong nhà Tứ Ân tối, có một cái đài nhỏ niệm đi niệm lại một câu “Nam mô A Di Đà Phật, nam mô A Di Đà Phật” để tiếp dấn vong linh về Tây phương. Tôi ngồi chép từng tên, có lúc phải ghé vào mặt bia để nhìn cho rõ, vừa yên tâm lại vừa thấy rờn rợn “âm khí.”

Từ chùa về, tôi nghĩ tối nay cần đi vào Bờ Hồ ăn uống, cà phê, gặp bạn bè tán gẫu một chút để hưởng không khí trần tục của cuộc sống này, cho cân bằng với âm khí trong chùa.

Ở nhà mẹ và chị gái tôi đã làm cơm cúng rằm tháng Bảy rất to. Nghĩ đến những lời kinh Vu Lan vừa đọc lúc sáng và công lao khó nhọc của mẹ nuôi tôi suốt 30 năm qua, thấy thật thương mẹ. Tôi khen mẹ làm cơm ngon. Mẹ rất vui.