← Quay lại trang sách

Chương 15 Y pháp bất y nhân

Sau Vu Lan là lễ xá tội vong nhân và đàn chẩn tế cô hồn. Tôi đùa chú Đạo Ngũ rằng cứ hai ngày một tiểu lễ, ba ngày một đại lễ. Lễ dồn dập, nên sư ông Đạo Nhất và chú Đạo Nhị cũng từ trường hạ về giúp thầy. Cả bọn trẻ con cũng phụ giúp cúng lễ. Huy thì ghi sớ cho các gia đình. Hùng chuyên đánh não bạt, Tú đánh tiu cảnh, Thắng chạy loanh quanh hương nước trong lễ cúng. Khi mặc áo tràng nâu để lên điện, Hùng và Thắng trông khác hẳn, không còn hơn hớn, lanh chanh nữa. Tú thì vẫn thế, ngơ ngơ lì lì, cầm dùi lỏng lẻo, ngồi đánh cho qua chuyện; có khi đang gõ mà văng cả dùi ra, bị các bà già ngồi sau mắng.

Có sư ông Đạo Nhất với chú Đạo Nhị về, chùa đông và vững hẳn. Thầy Đạo cũng vui lên. Bọn trẻ con thì đỡ bầy hầy. Chúng sợ chú Nhị lắm. Có khi đang chí chóe trong phòng mà một đứa nói: “Này, tôi nghe tiếng anh Nhị đấy” là tất cả đều im thít hoặc lập tức bật dậy tản đi làm. Chú Nhị vốn là cháu, gọi thầy bằng bác. Thầy bảo chú Nhị ngày xưa là đầu bò đầu bướu ở làng; chú học hết cấp ba thì ra Hà Nội làm thợ đóng đồ gỗ rồi gặp cô bạn ở đấy và đòi cưới. Bố chú gọi điện cho thầy hỏi ngày, thầy bảo mới 19 tuổi, cưới xin gì, vớ vẩn. Thế là thôi. Đến lúc bố thầy mất thì chú Nhị ra lo việc ma chay. Ma chay xong cũng chẳng về mà cũng chẳng nói chẳng rằng, cứ ở lại chùa mấy tháng liền. Mẹ chú khóc lóc gọi điện ra; thầy đưa chú Nhị về, nói rằng thầy đâu có dụ chú đi tu; chú nằm trong nhà nghe, cũng chả nói chả rằng; đến lúc thầy đi thì chú lại cắp túi đi theo. Thầy mới bảo, bây giờ chú phải nói gì đi chứ, quyết định thế nào; thế là chú bảo “con đi tu”. Chỉ thế thôi. Bọn trẻ ở đây sợ chú một phép, vì chú nói một lần không được là đánh.

Sư ông Đạo Nhất thì rất hiền, người cao gầy gò, bàn tay xương xẩu, khuôn mặt xương xẩu, lúc nào cũng mỉm cười và lần tràng hạt ngày đêm. Cứ thấy sư ông là nghe tiếng “A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, A Di Đà Phật”. Trong bếp, ngoài nhà sàn, phía tượng Phật Niết Bàn, gần Tam Bảo, cứ nghe tiếng “A Di Đà Phật, A Di Đà Phật” thì dù không nhìn thấy người cũng biết có sư ông.

Xem lễ nhiều, tôi bắt đầu nhận ra một số thủ tục trong các bài cúng lễ. Đầu tiên phải rước chủ tế từ nhà tổ xuống nhà Tứ Ân (gọi là nghinh sư ), rồi làm lễ tiếp linh để sứ giả đưa vong linh vào. Phải có các cảnh tuyên sớ, tắm vong, tiến mã. Sau đó thì đưa vong linh lên Tam Bảo để cúng Phật, cho vong quy y Tam Bảo. Quy y xong lại đưa vong xuống nhà Tứ Ân để cúng chúc thực, tức là cho vong được ăn uống; rồi đến chiều thì tụng kinh và phóng sinh để hồi hướng công đức cho vong (thường là kinh Di Đà, Địa Tạng, hoặc Dược Sư). Thầy Đạo giải thích khoa nghi cúng lễ vốn không có trong Phật pháp ở thời Đức Phật Thích Ca mà do các tổ soạn ra sau này để có cách cứu giúp chúng sinh. Đạo Phật vốn gốc chỉ độ người dương, về sau mới có thêm các nghi lễ độ người âm. Ở Trung Quốc thì việc độ người âm xuất phát từ thời Đường (khoảng thế kỷ thứ 7), do vua Đường Minh Hoàng khởi xướng để độ cho hàng triệu người chết trận trong loạn An Lộc Sơn. Ở Việt Nam, Tam tổ Huyền Quang của dòng Trúc Lâm Yên Tử (tương truyền là hóa thân ngài A Nan) là người soạn ra nhiều khoa cúng và sám hối. Các tổ đều là những người văn thơ uyên bác nên văn cúng hay lắm, ví dụ như khoa cúng triệu linh có đoạn:

“Thân con người ta sống ở trên đời

Khác nào con ong làm tổ, hớn hở bay xa

Chọn mọi thứ hoa, đem về gây mật

Đủ lo mọi vật, mùi ngọt mùi cay

Dành để tổ đầy, dưỡng nhàn sẵn có

Những mong vạn đại, tổ cả mật đầy

Ai ngờ ngày nay, gió mưa dà dã

Cái con vất vả, làm tổ luống công

Vì trận cuồng phong, cái con tan tác

Thân người không khác, như thể loài ong

Nay có mai không, sự đời là vậy.”

Sáng nay tôi có hẹn đi ăn sáng ở Điện Biên Phủ với một người bạn đang làm giáo sư ở Nhật. Tôi kể chuyện đang sống ở chùa, anh bảo “Hay nhỉ!” nhưng chắc là không tin. Tôi không biết làm thế nào có thể kể về những chuyện đang diễn ra trong chùa mà không khiến anh cảm thấy ngậm ngùi cho tôi đang “sa” vào những chuyên vô bổ. Đã nhiều lần, tôi rủ những người bạn của tôi vào chùa nhưng không ai vào cùng, hoặc vào thì lập tức ra ngay; có người mang cả ba lô quần áo định ngủ lại chùa nhưng vào được một tiếng thì xin ra.

Vào đến chùa đã 12 giờ trưa. Chùa đông người đến lễ, xe để chật sân. Thầy đang tiếp khách ở nhà sàn nên tôi chỉ chào thầy từ xa. Anh Sang đang ngồi ăn mì tôm trong phòng tăng gần đấy, thấy tôi anh gọi:

“Ơi vào đây em, trời ơi, dạo này vào chùa được Phật độ xinh hẳn ra, mặt sáng bừng.”

Tôi định trêu anh không phải đâu, Christian Dior độ em bằng phấn nền Nudeskin đấy, nhưng lại thôi. Cứ bước qua cổng chùa, tâm tôi tự nhiên dằn lại. Nhưng anh Sang nói cũng đúng. Những người ở chùa, khuôn mặt đều có ánh sáng khác. Họ đẹp do giữ giới hạnh. Cuốn uy nghi phép tắc dành cho các chú tiểu mới vào chùa nói rằng người tu hành vì giữ giới thanh tịnh mà tướng mạo uy nghiêm, khiến cho người vật đều sợ, đi đứng dù động dù tĩnh đều cốt cách đoan chính, bên trong có đức của sư tử, bên ngoài có tướng của voi chúa, trời người tán thán, quỷ thần khâm phục. Lại nói: “Hữu uy khả úy, hữu nghi khả kính” tức có uy thì người sợ, có nghi thì người kính. Người xuất gia, nếu có công phu tu tập thì tướng sẽ ngày càng thanh tao, thoát tục. Phật tử tới chùa vì thế hay sinh lòng kính ngưỡng rồi đi đến yêu thầm các thầy tu hay ni cô.

Hôm nay trong chùa làm lễ cầu siêu và đưa bài vị một liệt sĩ trong làng lên chùa. Xong xuôi đã 2 giờ chiều. Tôi định ngủ trưa nhưng vào phòng của bọn trẻ con thấy năm sáu người đàn ông nằm la liệt, ai cùng nồng nặc mùi bia, thế là không ngủ nữa. Đang loanh quanh ngoài sân thì thấy anh Sang cầm túi đi về phía nhà tổ:

“Lên nhà tổ với anh không?”

Tôi cười, lắc đầu. Anh Sang lên đó là các ngài lại “về”. Tôi tuy tò mò nhưng vẫn không muốn chứng kiến lúc các ngài về vì tôi vẫn không biết phải cắt nghĩa thế nào về cái khoảnh khắc mà các ngài “vào” anh Sang, khiến “anh Sang” mà tôi biết đột nhiên trở thành một người khác. Hôm trước, tôi đã hỏi anh:

“Những lúc các ngài nhập vào anh, anh có biết không?”

“Không, anh không biết gì cả, cái khoảng đó đối với anh là không có.”

“Thế lúc đó anh đi đâu?”

“Anh không biết; đối với anh thì không có sự ngắt quãng nào từ lúc các ngài vào đến lúc anh tỉnh.”

“Thế các ngài có vào từ từ không? Anh có biết gì không?”

“Không.”

“Thế lúc các ngài vào thì anh đang làm gì? Anh ngồi xuống rồi mời các ngài lên ạ?”

“Không, anh không ngồi, anh không cần ngồi, có thể anh đang làm gì đó, các ngài vào là anh không biết nữa.”

“Thế anh có biết trước là các ngài muốn anh vào chùa để các ngài lên không?”

“Thường thì anh cảm thấy nóng ruột, cứ nghĩ đến và muốn vào chùa.”

“Nóng ruột như thế nào ạ?”

“Lạ lắm, mình cứ nghĩ đến việc vào chùa, thấy muốn vào chùa, sốt ruột, không vào thì chỉ nghĩ đến chùa thôi. Cái này thì anh chỉ là con tốt thôi, anh không phải cái gì quan trọng cả; anh như là người trung gian; người tu hành như thầy thì có nhiệm vụ giáo hóa chúng sinh, các ngài thì thông qua anh để trợ giúp thầy giáo hóa chúng sinh.”

“Thế còn anh?”

“Anh thì kiếp trước đã là đệ tử của thầy, như chú Đạo Ngũ bây giờ là đệ tử của thầy. Nó là cơ duyên cả. Như em cũng là có cơ duyên với thầy và Phật pháp; có thể là các kiếp trước em cũng đã tu, tâm em hướng về Phật, em đã có nhiều kiến thức mà em không biết, cho nên có cái thầy vừa nói là em hiểu ngay, đọc về Phật pháp thì thấy quen thuộc, hợp lý; kiếp này em chỉ quay lại làm tiếp, học tiếp, đều là do cơ duyên, không có gì tự nhiên sinh ra cả.”

Điều anh Sang nói, sau này tất cả những người có khả năng cho “mượn xác” mà tôi phỏng vấn đều nói giống như vậy: họ chỉ là công cụ trung gian và lúc đó họ giống như là trải qua một giấc mơ rất sâu. Khi tỉnh lại, họ thường không biết chuyện đã xảy ra; nếu có người khác nói rằng “các ngài vừa vào đấy” hoặc “các vong vừa vào đấy” thì họ có thể tĩnh tâm để nhớ lại và những gì xảy ra có thể tái hiện lõm bõm trong trí nhớ của họ. Có những người nhớ nhiều, có người không nhớ được các chi tiết nhưng nhớ được cảm giác - ví dụ một vong lên vì oán thù người khác thì người cho mượn xác sẽ nhớ cảm giác đau đớn và oán hận. Nếu là vong vào thì người sẽ nặng nề, có thể còn nhiễm cảm giác đau đớn, bệnh tật của họ; còn nếu là các bậc thánh vào thì người sẽ nóng ấm, nhẹ nhõm, minh mẫn.

Tôi vừa ngồi xuống dưới gốc một cây nhãn thì thấy mọi người chạy tắt qua nhà sàn về phía nhà tổ, vừa chạy vừa kêu “Đức Chúa Ông về, Đức Chúa Ông về”. Tôi bật dậy chạy theo.

Trong nhà tổ, anh Sang đang ngồi trước ban thờ Phật ở cung trong, người hơi lắc lư. Thầy Đạo, sư ông Đạo Nhất, chú Nhị và Huy ngồi cạnh thị giả Đức Chúa Ông. Thấy tôi vào, thầy mỉm cười. Lúc đó mới có mấy người, nhưng chỉ một lát sau người vào rất đông - các bà già ngồi vây lấy anh Sang, vòng ngoài là đội thợ đang vẽ tranh cho chùa. Một bà bẩm Đức Chúa Ông, con có đứa cháu, nó lận đận khổ quá, xin Đức Chúa Ông soi xét phán bảo, độ cho cháu. Rồi bà bảo con lên xin ông hỏi ông đi; nhưng anh kia sợ quá, không dám lên. Bà già quỳ, khóc:

“Xin Đức Chúa cứu giúp cháu với ạ, cháu nó khổ quá.”

Đức Chúa nói:

“Có thành tâm nên thoát rồi đấy.”

Một bà già tên Nga vào quỳ.

“Lạy Đức Chúa Ông, con đang gặp nhiều nạn quá, xin Đức Chúa chỉ dạy, ban lộc ban tài cho con.”

Đức Ông nói:

“Tranh chấp, khẩu thiệt, trường mệnh sai hướng.”

“Con ngu tối không hiểu, xin Đức Ông mở mắt cho con.”

“Nhà ngươi tu Phật mà như không tu, sao trí tuệ được, chướng ngại liên tiếp.”

“Lạy ông chỉ cho con.”

Lúc này người nhà liệt sĩ đã vào đầy trong điện, ngồi quanh anh Sang, họ xin Đức Chúa Ông cho vong liệt sĩ lên nhưng Đức Chúa bảo chưa cho lên được.

Bà già Nga lại chen vào trước gia đình liệt sĩ, hỏi về tương lai của con trai bà, rồi cầu xin tài lộc. Bà luôn miệng xin xỏ không ngớt. Đức Chúa Ông bảo bà:

“Hãy cố gắng tu tập lấy phúc cho con, u mê quá.”

Mọi người lại xúm vào tranh nhau hỏi Đức Chúa Ông về vận hạn, tài lộc, công danh, con cái. Một chị tên Liên ở Hòa Bình nói số con khổ quá, xin ông giúp.

“Ta không giúp được đâu.”

“Con xin Đức Ông.”

“Địa chỉ.”

Chị Liên nói địa chỉ. Đức Ông gọi:

“Thổ công.”

Chị Liên lẩm bẩm:

“Thổ công ạ?”

Thầy Đạo cười:

“Đức Ông gọi thổ công nhà chị. Cứ ngồi đấy, ngài đang hỏi chuyện thổ công nhà chị.”

Đức Ông im lặng một lúc rồi nói:

“Nhà ngươi ruộng vườn đầy đủ sao kêu khổ. Lui.”

Mọi người ngồi đó đều bật cười: “Gớm, giàu có rồi mà còn xin xỏ nữa. Tham thế”. Một chị khác lên hỏi xin con cái, Đức Ông bảo:

“Ra cửa Mẫu mà kêu, mê muội.”

Bà vợ liệt sĩ thấy mọi người xúm vào hỏi thì nổi cáu:

“Tại sao những người khác không có việc cũng chen vào hỏi, nhà người ta hôm nay có việc đưa vong lên chùa thì thầy mới thỉnh Đức Chúa Ông về.”

Một người con trai bà xin Đức Chúa Ông cho vong liệt sĩ vào, Đức Chúa Ông nói:

“Về rồi, đang đứng ngoài kia.”

Anh này khóc, đi ra ngoài. Một anh ngồi cạnh thầy Đạo mặt đỏ văng vì uống bia, bực tức nói:

“Gớm ngài cứ gật gù mãi thế con cũng mệt lắm. Ngồi mỏi hết cả chân mà ngài không cho lên.”

Đấy là con trai của liệt sĩ. Đức Ông chỉ mặt anh này:

“Ra!”

“Vâng, ông đuổi thì con đi ạ.”

Anh này ra. Đức Ông cũng đi luôn. Anh Sang lập tức tỉnh lại, nhìn quanh rồi lạy tạ Phật. Thầy và các sư ông, sư chú đứng dậy đi xuống nhà. Mọi người cũng theo ra. Khi không còn ai, tôi đi đến trước bàn thờ Phật và tổ, quỳ xuống lễ ba lễ. Y pháp bất y nhân (10) ”. Nương vào pháp, không nương vào người nói pháp. Không quan trọng có thật tôi vừa gặp Đức Chúa Ông hay gặp ai, cái gì; không quan trọng thật hay giả; nếu người/vị tôi vừa gặp nói điều gì làm cho tôi thấy bớt phiền não, tâm trí sáng ra, thì đó là thầy tôi và tôi xin đỉnh lễ.

Dưới nhà sàn, anh Sang và các anh chị em họa sĩ đang xôn xao nói chuyện. Anh Sang bảo lẽ ra ngày cầu siêu đưa vong lên chùa thế này thì người nhà phải ăn chay niệm Phật thanh tịnh để hồi hướng cho vong, đằng này lại nồng nặc rượu bia, ăn nói lỗ mãng; Đức Ông và các tổ lên xong mới đến vong chứ đời nào Đức Ông ngồi đấy mà vong dám vào; nhà tổ chứ có phải trung tâm áp vong đâu mà vong dám vào. Vong mới quy, chưa hiểu biết nhiều, nếu về ngay gặp vợ con khóc lóc, lại quyến luyến trần thế mà không chuyển sinh nên Đức Ông không cho về vội. Nhà các bà không hiểu cứ nóng vội cáu giận, chỉ gây thêm nghiệp cho vong.

Tôi ngồi đấy, miên man nghĩ lại những lời Đức Chúa Ông và các tổ nói, thì nghe tiếng thầy Đạo:

“Sao cô giáo lại ngồi cười một mình thế?”

“Dạ” - tôi cười - “Tại vì con nghĩ lại lời Đức Chúa Ông và sư tổ nói thấy hay quá ạ.”

Trời bắt đầu tối thì tôi về nhà. Trên đường làng, rất nhiều gia đình bày mâm cúng rằm tháng Bảy ở cửa. Các chùa râm ran tụng kinh niệm Phật. Đi trên đường lúc mặt trời lặn, nhìn dòng người ngược xuôi hối hả, ai cũng căng lên chúi mình trên xe máy, tự nhiên nước mắt tôi ứa ra.