← Quay lại trang sách

Chương 36 Tứ thánh, lục phàm

Danh chính ngôn thuận thì năm nay có năm người “bị” các triệu chứng “tâm thần” khác nhau đang sống ở chùa lâu dài để chữa bệnh; còn người đến ngắn hạn hằng ngày thì không kể. Buổi trưa đầu tiên vào chùa, tôi gặp một cô gái trẻ tên Thảo vừa ngồi rán đậu vừa lẩm bẩm: “Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát, Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát.”

“Em ở đây bao lâu rồi?” - tôi hỏi.

“Hôm nay thứ mấy hả chị?”

“Thứ Bảy.”

“Thế em vào được ba tuần.”

Thảo bảo, em đang đi làm bình thường thì cách đây sáu bảy tháng, cứ đến tối là cảm giác có người đẩy em ngã, bóp miệng không cho em ăn, không cho em làm được việc gì, người cứ đờ đẫn ra, có hôm còn làm cho em liệt cứng hai chân, không đi nổi, phải lết lết chị ạ. Nhà em đưa em đi bệnh viện tâm thần khám đủ thứ, bác sĩ bảo không có bệnh gì; nhà em lại thử đi cúng thầy nọ thầy kia, cũng không ăn thua; rồi có người giới thiệu em vào đây.

“Từ hôm em vào, em có đỡ không?”

“Đỡ chị ạ. Hôm nào em chăm tụng kinh niệm Phật thì em lại như bình thường. Hôm nào em không lên chùa là lại bị.”

Đến giờ cơm, tôi gặp một cô gái khác - tên Quyên, 17 tuổi - có khuôn mặt đờ đẫn hơn, thỉnh thoảng lại cười sằng sặc một mình. Nhà Quyên ở Lạng Sơn; gia đình đã đưa vào chùa từ cách đây mấy tháng. Mẹ Quyên cũng phải nghỉ làm để ở chùa chăm con. Mẹ Quyên bảo từ năm 12 tuổi, Quyên cứ nghe tiếng người xui khiến làm việc nọ việc kia, bố mẹ đưa đi viện không đỡ; gần đây xuống bệnh viện tâm thần ở Hà Nội, người ta cho thuốc uống thì còn nặng hơn. Khi mới tới chùa, Quyên điên loạn gào thét suốt ngày; có lúc thì cười sằng sặc; một ngày đi tiểu ra quần nhiều lần. Có lúc Quyên lên cơn còn đánh chửi, đạp mẹ bay từ trên giường xuống đất. Sau mấy tháng ở chùa, Quyên không còn đánh mẹ và điên loạn gào thét nữa; thường chỉ ngồi im một chỗ, tự cười một mình nhưng hiểu được lời mọi người nói. Thầy bảo khi nào tâm an hơn, có một chút định lực để tự niệm Phật đọc kinh thì chữa sẽ dễ hơn.

Một ca nữa là bà Xuyến, đã ngoài 60, người làng bên. Bà có ba con, hai trai một gái. Con trai bà mới 35 tuổi, rất khỏe mạnh, đang sống bình thường thì bị phát hiện viêm gan virus; từ lúc phát hiện đến lúc chết là tám ngày.

“Cô thương con cô đứt từng khúc ruột” - bà nói, nước mắt chảy dài - “Thà cô bị mất chân mất tay, hay chết thay con cô cũng được. Cô cứ khóc lóc đi khắp các bãi tha ma tìm con, thế là bị cái vong ông hàng xóm này nhập vào.”

Con gái bà nói với tôi một hôm bà lang thang ra nghĩa địa thăm mộ con trai; khi về nhà, bà bắt đầu nói lảm nhảm, tự xưng là ông Nhượng, vốn là một ông đánh giậm ở làng, chết đã lâu; vì con ông không hương khói gì cho ông nên ông cứ lang thang vất vưởng. Mỗi khi ông Nhượng nhập vào bà Xuyến thì bà lại nói ngọng vì khi còn sống, ông Nhượng cũng là người nói ngọng do bị thụt lưỡi. Khi ông nhập vào, bà có thể nhảy xuống hồ bơi lặn thành thạo trong khi bà Xuyến vốn không biết bơi.

Ca tiếp theo là Hoàng, đang sinh viên đại học năm thứ nhất. Vì ức chế với bố nên chơi game suốt ngày và bị suy nhược thần kinh. Gia đình đưa vào bệnh viện tâm thần, các bác sĩ cho uống thuốc thì bệnh càng tăng lên, ngày càng điên loạn hò hét. Gia đình Hoàng sợ quá, xin ra khỏi bệnh viện và đưa vào chùa. Hôm mới vào, Hoàng hò hét, chạy quanh chùa, chửi thầy và các sư ông, giơ tay đấm cả ông Đạo Nhị, rồi chạy lên Tam Bảo, rút cây kiếm của Đức Chúa Ông xuống vừa khua múa vừa hò hét: “Ta là Chúa đây. Chúa là ta đây”. Giờ thì Hoàng đã bình thường trở lại, tất cả các cơn điên loạn đã hết, nhưng thường ở lì trong phòng ngủ hoặc chơi điện tử. Chú Đạo Thất bảo tôi:

“Nó không ngủ đâu. Nó đang nghĩ đấy. Nó rồi sẽ xuất gia thôi. Nó có duyên với tôi và ông Tứ.”

“Sao chú biết?”

“Cảm giác được. Chắc tôi với nó kiếp trước là anh em thân nhau. Tôi có biết nó là thằng nào đâu. Bụp phát ông ấy đến, đội mũ, đeo kính, hò hét loạn xạ... Hôm đấy tôi đi đâu về, tôi không biết gì cả, song lúc chiều lên chùa thì thấy có mảnh giấy cầu an có đề tên; mình bảo, à chắc là tên thằng này. Thế mình tụng kinh xong thì cầu an cho nó. Cầu an xong cái thì tầm tối ông ấy bắt đầu làm loạn, bảo chúng mày có biết tao là ai không! Tôi bảo, này, đừng có đùa đây nhớ, ông mà tôi lại không biết, tôi vừa mới cầu an cho ông xong mà tôi lại không biết ông là ai à? Đấy nọ kia các thứ. (cười) Thế từ đấy mới sợ mình. Có tí nể mình nhá! Nó thấy tôi đi đâu nó lại ơ anh, anh đi đâu, xuống đây anh em mình chém gió đã! Bọn Đức đen đủi nọ kia. (cười) Tôi thì chẳng biết gì bóng đá, mình thấy rất buồn cười, nhưng mình cũng ngồi xuống, nó bảo, cái gì nhỉ... thần bóng đá à? Bảo, em giới thiệu anh, có thằng thần bóng đá này. (cười) Tôi thì có một cái điểm chung với thằng này là nội tâm. Thích sôi nổi bề ngoài nhưng mà lại là nội tâm. Sôi nổi là để làm gì? Mình sôi nổi là mình cố tình thế thôi, để mọi người được vui. Mình có thể bất chấp tất cả để mua tiếng cười cho mọi người. Để mình che đi cái nội tâm thật của mình. Đấy, thằng cu này cũng thế thôi. Cái tâm lý của nó thực ra... nó là đứa rất tình cảm, yếu đuối.”

Và còn một ca mà ở chùa mọi người gọi là Tiểu Thánh. Người nhà Tiểu Thánh khi đưa vào chùa nói rằng Tiểu Thánh bị tâm thần vì nói năng lắp bắp, kỳ quặc, vô nghĩa, lại không chịu ăn uống. Ở chùa một thời gian, các triệu chứng của Tiểu Thánh hết dần; thầy dạy rồi giao Tiểu Thánh thỉnh chuông. Bây giờ, Tiểu Thánh chỉ ăn cơm trắng hạ từ các ban cúng Phật, cúng tổ; hầu như không nói chuyện với ai, chỉ sáng chiều thỉnh chuông rồi mất mặt. Từ hôm tôi vào chùa, Tiểu Thánh hay rủ tôi đi dạo quanh chùa và nói chuyện với tôi. Nghe Tiểu Thánh nói thì bảo điên cũng được, mà bảo thiên tài cũng được.

“Tên của Tiểu Thánh là sư phụ đặt à?”

“Không, em tự đặt. Em tự biết mình, biết danh xưng của mình chứ. Nếu mọi người chưa về hòa làm một với vạn vật vũ trụ thì mọi người không biết đâu. Mọi người thấy nắng thì mọi người kêu nắng. Thấy trời mưa thì chửi trời. Vì mọi người còn có đối lập trong tâm.”

“Tiểu Thánh có sợ chết không?”

“Tiểu Thánh không sợ chết vì thật sự thì... Tiểu Thánh biết chết mình đi đâu rồi. Tiểu Thánh một phát đi luôn!” (cười)

“Một phát đi luôn là sao?”

“Là từ nhỏ đến to, từ to đến nhỏ”. (cười) “Nói thật nhá... Nếu một con người mà thuận với trời đất, thuận với người thì mọi việc sẽ là vô biên. Nếu những giờ vắng lặng, mình lạy trời, mình yêu thương mặt đất, hòa vào vũ trụ thì mình sẽ có một tri thức đặc biệt. Nhưng các bậc thánh khổ lắm, vì họ không giống người bình thường. Họ chỉ xuất hiện khi có việc, làm xong việc là phải đi luôn.”

Trưa nay, tôi ngủ ngoài phòng lớn của nhà sàn. Ngày nóng như hôm nay thì nhà sàn là nơi mát nhất chùa. Lúc tôi ngủ, nhà sàn chỉ có mình tôi nhưng khi tôi tỉnh dậy thì thấy nằm gần tôi là Quyên, ở góc đối diện là bà Xuyến, một góc khác là vợ chồng Thảo nằm cạnh nhau. Gần cửa ra vào còn có mấy người thợ xây lem luốc vôi vữa, đang ngủ những giấc ngủ nặng nhọc. Nếu Quyên, bà Xuyến, và Thảo bị nhập thật thì những con ma theo họ đang ở ngay đây này, trong người họ hoặc cạnh họ; tức là ngay cạnh tôi, có khi đang nằm cạnh tôi; vậy mà sao tôi không thấy sợ hãi, chỉ thấy thương. Rất thương. Thương cả người lẫn ma.

Tuấn - chồng Thảo - còn trẻ lắm; rất hiền và thương vợ như tôi chưa từng thấy người nào thương vợ như thế. Vợ ốm nên Tuấn tạm nghỉ việc để vào chùa chăm sóc vợ; từ sáng đến tối luôn tay luôn chân làm việc chùa, rồi nấu nướng, tắm gội, vệ sinh cho vợ, không hề quản ngại, lúc nào cũng vẫn một khuôn mặt điềm đạm, hiền lành với một nụ cười bẽn lẽn. Mà nào có phải vợ ốm bệnh thông thường. Vợ bị “ma nhập” - như người ta nói. Biết bao điều tiếng thị phi cho cả hai vợ chồng và gia đình. Nhưng người đàn ông trẻ này vì thương vợ mà không quản ngại bất cứ điều gì - không sợ khó, không sợ khổ, không ngại cả ma quỷ lẫn người đời. Người đàn ông trẻ hiền lành này thực sự đang hành hạnh Bồ Tát, hạnh của bậc thánh.

Trong mấy chục mét vuông nhà sàn, rộng ra là trong chùa và trong thế giới tứ thánh lục phàm, ngũ thú đồng cư này, không thể biết ai điên, ai tỉnh, ai thánh ai phàm nếu chỉ căn cứ vào hình tướng bên ngoài. Càng ở chùa, tôi càng thấy:

Phải vứt hết các suy nghĩ, cảm giác của bản thân.

Vứt hết các ý nghĩa mà bản thân đã đặt ra.

Vứt hết khái niệm, ngôn ngữ.

Càng ở chùa lâu, tôi càng phải vứt bỏ những quan niệm về giới tính, tuổi tác, quan hệ, đối đãi ta - người mà tôi đã quen ở Việt Nam hay ở Mỹ. Thực sự, không thể áp các quan điểm giới tính thông thường lên tình huynh đệ giữa các sư ông, sư bác, sư chú hay quan hệ giữa chư tăng với Phật tử. Như sư ông Đạo Tam không bao giờ nhìn Phật tử nữ khi ông đi lại trong chùa và những lúc ngồi nói chuyện đạo pháp với một Phật tử nữ, dù là cô gái 20 xinh đẹp hay bà già 70, ông nhìn họ như không hề có khái niệm giới tính nam-nữ. Có lần tôi hỏi ông Tam:

“Tại sao ông không nhìn con mà ông cũng chẳng gật chẳng cười khi ông thấy con?”

“Hả? Bao giờ?”

“Lúc nào cũng thế.”

“Thế à? Chắc sư ông không để ý.”

“Khi sư ông nhìn thấy một phụ nữ thì sư ông thấy thế nào?”

“Hả?”

“Phụ nữ í. Sư ông đi ngược chiều mà thấy một phụ nữ thì sư ông nghĩ gì?”

“Chả nghĩ gì cả. Có khi còn chả thấy í.”

“Con thấy sư ông cũng ít ra bàn nước ngồi nói chuyện với Phật tử nữ.”

“Có gì đâu mà nói? Giờ mình mới tu mà cứ tiếp xúc chuyện phiếm nhiều thì loạn tâm mình và loạn tâm người ta, chẳng giúp được gì cho người ta và ảnh hưởng đến việc tu của mình.”

Ông Nhị thì khác hẳn ông Tam. Phòng ông lúc nào cũng chật cứng nam nữ vào ngồi - có khi ông không có trong phòng, họ ngồi nói chuyện với nhau cả buổi rồi tự về. Có cả một đội thanh niên trẻ ở làng này gọi ông là “sư phụ” và ông chỉ gọi một câu là kéo tới để phụ ông dựng rạp, cắm hoa, quét dọn ngày chùa có lễ. Thầy có lần bảo tất cả những biển cấm trong chùa này đều từ ông Nhị mà ra. Khi tôi hỏi ông Nhị thì ông cười toe toét:

“Ờ thì Phật bảo không có người phá giới thì không có người chế giới mà. Ngày xưa phụ nữ con gái hay vào phòng sư ông, thầy mới làm ra cái bảng ‘Cấm người khác giới vào phòng’. Xong về sau thầy đổi thành ‘Cấm tụ tập’. Thế là đủ hiểu.”

Nhưng không tiếp xúc Phật tử nữ như ông Tam hay tiếp xúc thoải mái như ông Nhị - tôi có cảm giác hai người không khác nhau. Cái đối xử của họ không do chuyện giới tính và đối-đãi mà lưu lộ tự nhiên. Ông Nhị có thể đánh các sư ông, sư bác, sư chú bên dưới và quát cả ông Nhất, dù rằng về tuổi đời, ông trẻ hơn rất nhiều bởi vì ông Nhị, từ lúc mới vào chùa đã đóng vai trấn áp, hàng phục. Đấy là chuyện hạnh nguyện từng người, không phải chuyện tính cách cá nhân.

“Hồi mới vào chùa, sư ông có đánh bác Đạo Ngũ không?” - tôi hỏi ông Nhị.

“Sư ông đánh nhiều chứ!”

“Đánh bằng gậy ạ?”

“Lúc thì gậy, lúc thì đá, có lúc ăn đấm í. (cười) Có hôm, sư ông thương bác í, ông muốn để cho bác ý học nên ông đi cho chó ăn hộ bác í. Hôm đấy lại mất điện, sư ông mới soi đèn pin, thì bác í bảo, mù hay sao mà soi đèn pin? Ôi giời ôi, lúc đấy mình không thể chịu được, cho hai cái tát, lại mấy cái dọi”. (cười)

“Con thấy đánh mắng được người khác cũng cần dũng cảm, cũng là nghệ thuật.”

“Thực ra bác Đạo Ngũ còn là đứa trẻ con thì còn đánh mắng được, còn như chú Thất thì không thể. Có những lúc chú Thất nó cãi sư ông, sư ông có nói gì đâu. Nhưng mà lúc khác nó vào phòng sư ông nó xin sám hối. Mình không nói gì vì cái sân hận của người ta lúc đó quá lớn! Lúc đó là lúc người ta không cần tu. Mình cũng đã từng bị như vậy nên mình biết. Sư ông đã từng làm tiểu ba năm, sư ông biết. Tâm đạo của người ta lúc nào giải đãi và lúc nào người ta kiên cố. Lúc người ta kiên cố thì mình chửi, mình đánh người ta cũng chẳng vấn đề. Ngày xưa thầy có lúc nói sư ông, không tu thì về! Nhưng mà lúc đấy thầy có đuổi mình cũng chẳng về. Mình phải xét bản thân mình để dạy người khác. Đôi khi mọi người bảo sư ông nóng tính nhất chùa nhưng chắc gì đã phải nóng tính? Có khi là người hiền nhất chùa, (cười) Mà cũng có khi đanh đá nhất chùa!” (cười)

Đánh đấm như vậy nhưng ông Nhị lại là người chuyên cắm hoa vào những ngày lễ.

“Hôm qua cụ cho năm triệu cả tiền hoa với quả - ông cười - ông mua hết bảy triệu sáu. Nhưng ông bảo cụ hết 5 triệu thôi; thiếu tự đi mà trả. Tính sư ông thì làm cái gì cũng làm cho nó tử tế. Không ai thức cả đêm đến sáng để cắm hoa nhưng ông ngồi cắm. Mình nghĩ thứ nhất là cúng dàng chư Phật, cúng dàng chúng tăng, thứ hai là đem lại sự hoan hỉ cho người đến chùa. Người ta đến mà nhìn thấy bàn thờ Phật trang nghiêm thì người ta sinh cái tín tâm khác với một cái bàn thờ hời hợt. Cũng chỉ là cái đẹp thôi nhưng mà có hoa thì người ta sinh cái thiện tâm.”

Thực tôi không thể tưởng tượng rằng ông Nhị, ông Tam, ông Tứ chỉ mới 22, 23 tuổi. Sự chín chắn của họ vượt xa tuổi đời. Ngay cả thầy, về tuổi đời, thầy thực ra còn rất trẻ nhưng không chỉ tôi mà tất cả người đến chùa đều dường như nghiễm nhiên mặc định thầy là “cụ.”