Chương 40 Vô tâm, hữu tâm
Qua đám ma cụ Đào, chùa trở lại như cũ, tiếp tục như một dòng sông lững lờ trôi và tôi cũng trôi theo dòng sông đó. Càng ngày tôi càng thấy cốt tủy của đạo Phật không phải một tôn giáo, tức là những nghi lễ, truyền thống, tổ chức. Càng ngày tôi càng thấy tu hành chẳng phải một thứ đạo lộ riêng biệt mà tôi phải chờ đến lúc nghỉ hưu, bỏ hết mọi lo toan đời sống mới có thể bước vào. Tu chính là ở từng việc nhỏ hằng ngày, chính là việc sống đời sống này. Giải thoát cũng thế. Chẳng phải ở thời tương lai, chẳng phải một cái đích xa xôi mà phải ở từng phút từng giây, ngay đây, ngay lúc này. Phút nào có an lạc, không phiền não là phút đó giải thoát. Chẳng thể đợi đến lúc chết mới về Cực Lạc hay Niết Bàn. Nếu trong hiện tại không an lạc thì mong gì lúc chết sẽ về đến nơi?
Bây giờ, một ngày ít nhất tôi có được ba thời tràn ngập an lạc. Một là thời Lăng Nghiêm sáng. Bốn giờ sáng, trời còn tối đen, chỉ có nhà tổ sáng đèn cho chư tăng vân tập. Tôi đi vòng qua lầu Quán Âm để lễ Đức Quán Âm trước rồi mới vào Tam Bảo. Trong Tam Bảo chỉ có chú Thất đang đèn hương. Chú Thất thắp nến, đốt hương, xông trầm; tôi đi mở cửa gỗ trông ra sân. Cứ mở lần lượt từng cánh gỗ một, từ bên ban Đức Chúa Ông ra ban giữa, rồi sang ban Đức Thánh Hiền. Ánh sáng theo từng cánh cửa ùa dần từ trong Tam Bảo ra ngoài sân chùa. Mở hết 14 tấm gỗ là sân chùa sáng.
Rồi có tiếng đại hồng chung chậm rãi, âm vang và một hồi kiểng tập tăng ở nhà tổ. Từ cửa sau Tam Bảo nhìn sang nhà tổ, sẽ thấy các bóng áo vàng bắt đầu lần lượt đi từ khu nhà tăng và bếp về phía tổ đường, mỗi người một dáng. Ông Nhất chậm rãi. Ông Nhị bao giờ cũng có mấy con chó chạy trước dẫn đường, rồi đến tiếng guốc lọc cọc đủng đỉnh như một cụ già. Ông Tam nhanh nhanh, ống tay áo phơ phất. Ông Tứ thong dong. Bác Đạo Ngũ người thẳng tưng. Chú Đạo Lục trầm ngâm, như luôn suy tư chuyện gì đó. Chú Thất vội vã, gót chân như không chạm hẳn xuống đất. Mọi người thường dừng trên hiên nhà tổ, mở y ra đắp rồi mới vào. Kiểng dồn ba hồi, có chuông trên Tam Bảo đáp lại, và tăng đoàn bắt đầu đi. Kiểng đi trước, rồi đến thầy, sau đó lần lượt theo thứ tự: ông Đạo Nhất, Đạo Nhị, Đạo Tam, Đạo Tứ, bác Đạo Ngũ, chú Đạo Lục, Đạo Thất.
Bao giờ cũng có một khoảng thời gian vài phút từ lúc chư tăng vào Tam Bảo cho đến lúc bắt đầu thời khóa. Đấy là lúc chờ chư tăng sắp ban, lấy bồ đoàn rồi ngồi xuống, nghiêm trang thân để vào khóa lễ. Thời công phu khuya thường chỉ có chư tăng và vài người ở chùa dài hạn nên bên ban Đức Thánh Hiền thường chỉ có mình tôi ngồi. Nhiều khi tôi cảm động chỉ với cảnh các sư ông im lặng dọn y áo chỉnh tề chờ khai tiếng chuông đầu tiên - cái im lặng có một phần của sự nghiêm trang, một phần của sự mệt mỏi và kham nhẫn vì ngày qua ngày đều phải dậy sớm, không được buông lung.
Tụng xong Lăng Nghiêm chừng 5 giờ, trời có khi vẫn còn tối nhưng niệm Phật trong trai đường xong là ban mai hửng lên. Hôm nào nắng sớm thì nắng rất trong chiếu xuyên từ đằng Đông qua cổng chùa vào những bàn đá tiếp khách. Những thân Phật Tỳ Lô Giá Na vàng ánh lên trong nắng sớm. Cây gạo cổ thụ in bóng lớn lên nền trời xanh sạch. Không khí trong mát, đầy tiếng chim sẻ ríu rít và bồ câu gù nhau. Lúc ấy là lúc tôi cầm cái chổi lá cọ quét khoảng sân rộng trước nhà sàn. Có hôm ông Đạo Nhị hứng chí quét cùng tôi. Ông đi chân đất, quét cái chổi tre có cán là một ống nước bằng gang rất nặng - vừa quét vừa tập võ bằng cách di chân, lia chổi.
“Sư ông ơi, tổ nào ngày xưa chăm quét chùa?”
“Tổ Kính Sơn. Trong cảnh sách đấy. “ Tổ Tào Khê siêng năng giã gạo. Tổ Tuyết Phong tần tảo làm cơm. Quy Sơn bếp núc chăm nom. Kính Sơn quét tước, thường làm vệ sinh ”. Sao?”
“Giờ con mới hiểu tại sao các tổ thích quét sân.”
“Ờ, quét sân là quét tâm mình đấy.”
Ông Đạo Nhị hay trợn mắt với tôi rồi lại cười toe toét. Tôi luôn có cảm giác ông như anh trai lớn thân thiết của tôi dù thực tế ông kém tôi nhiều tuổi. Có hôm, tôi đi với thầy đến hơn 9 giờ tối mới về chùa; khi vào phòng, tôi thấy có tấm ri đô xanh treo ngang cửa sổ. Ông Đạo Nhị đã treo lên lúc tôi đi vắng vì sợ tôi bị nắng ở ngoài chiếu vào. Những hôm thầy cho tu bát quan trai mà Phật tử vào nằm đầy nhà sàn thì ông luôn vào kiểm tra xem tôi có bị lấy mất chăn gối không. Những tối tôi ra phố có việc về khuya, cổng chùa đã khóa, tôi đứng ngoài gọi điện cho ông:
“Ông ơi con đây, mở cửa cho con với.”
“Đi chơi đâu giờ mới về hả?”
Ông lộc cộc đi guốc ra mở cho tôi. Rồi lại kêu tôi chờ để ông đi mở cửa nhà tổ lấy quạt cho tôi vì chắc mọi người lấy hết quạt rồi. Nếu nhà tổ hết quạt, ông lấy quạt phòng ông cho tôi. Có lần, tôi đã hỏi ông:
“Ông ơi, ông quán xem con với ông là nhân duyên thế nào?”
“Là duyên lành.” - ông lừ mắt - “Không đòi nợ mi đâu mà lo.”
“Có phải từng là hảo sư muội của ông không?”
“Ờ, thế thì giờ mới nhận chứ không giờ nhận làm chi.”
Tôi vừa quét vừa nhờ ông đọc cảnh sách cho tôi nhẩm. Tôi rất thích nghe cảnh sách, nhất là cảnh sách ngày trai, các sư ông sư bác sư chú phải tuyên bằng tiếng Hán và phải luyến láy theo lối bình văn như thế này:
“Dương cốc minh tương khảiiiiiiii
Man man hắc địa khaiiiii
Xúc tâm trần cảnh khởi
Huyễn mục sắc tranh bàiiiiiii
Xú xác hưu tham bão
Mai đầu tảo nguyện đàiiiiiii
Ân cần chuyên lục niệm
Thứ đắc khế phương laiiiiiiii
Nam mô Thường Tinh Tiến Bồ Tát Ma Ha Tát!
Nam mô Thường Tinh Tiến Bồ Tát Ma Ha Tát!
Nam mô Thường Tinh Tiến Bồ Tát Ma Ha Tát! (33)
Hoặc bài cảnh sách lão đường có những từ tiếng Việt hay vô cùng mà tôi chưa từng biết: “Lời Đức Thế Tôn dạy rằng: Mệnh con người ta chẳng thường, ví như bóng đèn mây nổi, lửa chớp chiêm bao, chợt về cõi âm ty tới khi tắt hơi thoi thóp. Ví đương thuở sức dài vai rộng, má phấn môi son, tơ mành mành mà bỏ cách cõi trần, cũng chan chan thấy vậy. Phương chi lúc tuổi già mệnh yếu, làm sao cho trốn khỏi vậy ôi! Thầy thượng tọa khắn đáu trong lòng, vậy đem để làm lời khuyên nhủ. Kính xin trong đại chúng chớ thấy rằng người hèn mà khinh rẻ thuở nhời. Xin ai ai xem lấy thân này, tới khi già thời mắt lòa tai điếc, tóc bạc, da nhăn, lưng gù, sườn vạy, gân chuyển, xương đau, bước bước gập ghềnh, tinh thần mờ mịt. Ví như non Đoài bóng xế, còn sáng là bao, ngọn cỏ tới mùa thu, rầu rầu héo hắt. Vì vậy biết thân này là hư dối, cửa tử môn đã hé cánh đợi chờ, bước chân ra mờ mịt chốn hôn cù, đường trước ấy biết qua đâu chẳng nhẽ. Xin bạch trong đại chúng! Thực như mệnh con người ta đã tỏ, chẳng phải rằng ai dám ngỏ hay. Những ai ai chưa biết nguồn cơn, nỗi lão bệnh tử sinh là thế thế. Há chẳng nên xét mình tinh tiến, gắng sức tu hành cơn nhất đán nữa lấy gì mà trông cậy. Nọ quỷ vô thường nhâng nháo, kìa ma dịch lệ hăm hăm, người trần thế ai mà chẳng tham sinh úy tử. Sao bằng tu Tịnh Độ pháp môn, xin cùng nhau niệm Phật tu hành, khi lâm chung thác chất liên đài, về Tịnh Độ theo đòi Đức Phật.”
Thời an lạc thứ hai trong ngày là lúc chiều tối, khi mặt trời đang lặn và trước giờ lên chùa khóa tối. Lúc ấy, dù ban ngày có nắng nóng đến mấy thì trời cũng dịu xuống. Gió mát, thổi xào xạc những cây nhãn trong sân chùa. Lũ gà tre của thầy mới nở, như những cục bông nhỏ xinh xắn, có con mới nở đứng còn loạng choạng, cứ đến chiều là mẹ con gọi nhau lục tục, láo nháo quanh khu bếp. Chùa lại có năm con mèo con, bác Đạo Ngũ đặt tên là Tiểu Bạch, Tiểu Tam, Tiểu Kim... Chiều chiều, bác Đạo Ngũ đi qua lại gọi:
“Tiểu Bạch, Tiểu Bạch, ra đây xem nào... Ô thế kiêu à, không ra à?”
Rồi bác ngồi thủ thỉ với bọn mèo, nói chuyện cưng nựng chúng nó rất buồn cười. Bác Đạo Ngũ hay cắm đài ở khu nhà bếp để mở nhạc thiền và chú cho mọi người nghe. Vậy là vừa nghe nhạc, nghe gà kêu lục tục, mèo đùa nhau, hoàng hôn xuống vàng rực hồ nước và cánh đồng sau chùa. Dạo này, tầm chiều tối, sư ông Đạo Tứ và bọn trẻ con còn hay nhảy ùm ùm xuống hồ tắm rồi cười khanh khách vang cả chùa. Có lúc bọn trẻ tắm lâu, quên cả đi ăn cơm để kịp giờ lên chùa, thầy đi qua, bảo: “Ta đếm đến ba, không lên ta vụt”; thế là tất cả lại líu ríu lướt thướt lên khỏi hồ, vẫn còn đùa nhau khanh khách.
Có những chiều tối, tôi theo thầy ra khu đất trống sau chùa. Thầy khoát tay chỉ chỗ này sẽ xây 48 tháp đá thờ các tổ, chỗ kia là giảng đường, chỗ kia trai đường, rồi thư viện, Phật đài, đàn xã tắc. Tam Bảo và tổ đường cũng sẽ được mở rộng. Tôi nhìn ra khoảng đồng trống nơi bóng tối đang xuống, tự hình dung một ngày nào đó ở đây sẽ nườm nượp người đến tu đạo, bóng áo vàng và áo lam phấp phới, an lạc bao trùm. Muốn ghi lại khoảnh khắc đang đứng với thầy thế này và thầy khoát tay trên vùng đồng trống mờ tối. Tôi hỏi thầy phải mất bao lâu mới hoàn thành mọi công trình, thầy bảo cứ đà này thì 20 năm, mỗi năm chỉ có thể làm một công trình thôi.
“Số thầy vất vả.” - thầy nói - “Người ta xây cái chùa mấy trăm tỷ nhẹ như không, thầy thì phải tự hết. Nhưng thôi, khó khăn thế cũng chính là cái phước Phật tổ cho mình.”
Thời điểm đặc biệt thứ ba ở chùa là lúc lâm thụy ở nhà sàn xong nhưng chưa ai muốn về ngủ cả. Phòng tất cả các sư ông, sư bác, sư chú đều ở gần nhà sàn - ông Đạo Nhất ở kế nhà Tứ Ân, ông Đạo Nhị ở đối diện cửa nhà sàn; ông Đạo Tam, Đạo Tứ, bác Đạo Ngũ, chú Lục, chú Thất ở khu vuông góc; lâm thụy xong, chúng tôi thường nán lại trong nhà sàn hoặc ngoài bàn nước nói chuyện. Có hôm mang bánh sinh nhật còn thừa và hoa quả ra ăn. Ngày nóng thì thầy trò ăn kem. Ngày mưa mát thì bứt một nắm lá vối trên cây vối trong sân pha với nước sôi, rồi ăn với oản và các loại bánh kẹo quá hạn vì quên hạ từ các ban thờ xuống. Có hôm thì bọn trẻ thách nhau đu xà. Rồi tập võ. Rồi ôn lại chuyện người này người kia lúc mới đến chùa như thế nào rồi cười không dứt. Thường phải đến gần 10 rưỡi mới ai nấy về phòng ngủ, tắt điện ngoài bàn nước. Có hôm, tôi đã ngủ rồi thì nghe tiếng âm âm trong phòng. Giật mình mở mắt, thấy chú Thất đang ngồi trì chú. Hóa ra phòng chú nóng quá, chú ôm chăn gối vào một góc nhà sàn nhưng chưa ngủ ngay mà còn hành trì. Trong ánh trăng nhạt soi qua cửa sổ vào nhà sàn, dáng gầy guộc của chú in mờ mờ lên vách tường cùng tiếng “Ômmmm...”. vang vang.
Cứ như thế, càng ngày, tôi càng lắng sâu vào một chỗ bình an trong tâm. Đã lâu rồi tôi chưa về nhà. Em gái tôi thỉnh thoảng nhắn tin, về đi resort nghỉ với cả nhà đi. Nhưng resort nào bằng chùa? Tuy ăn cơm chay, ngủ sàn gỗ, tắm rửa không thuận tiện, nóng nực chẳng có điều hòa, sáng dậy sớm, tối thức khuya làm việc, nhưng tôi an lạc hơn bất cứ kỳ nghỉ nào tôi từng đi, kể cả những lúc nằm phơi nắng ở Hawaii. Chỉ thi thoảng, tôi như khách ghé vào đời sống, lúc thì đi họp, lúc thì đón đồng nghiệp từ Mỹ sang, lúc ra Đại học Quốc gia chấm bảo vệ luận án cho sinh viên, rồi lại về chùa. Có hôm tôi đi đến tọa đàm tủ sách Cánh Cửa Mở Rộng với anh Ngô Bảo Châu và nhà xuất bản Trẻ. Truyền hình, báo chí phỏng vấn nhiều, nhưng tôi ngồi đó, trả lời các câu hỏi, mà bên trong thì thấy mình như một người ngồi kiết già không lay chuyển. Càng ngày, tôi càng trở nên nhạt nhòa trong suốt.
Không là một nhân vật.
Không mua vui, đối đãi.
Không mở miệng, nhếch mép, nhướng mày, nói cười như hề chèo. Đôi lúc, tôi tự hỏi có nên lo lắng về sự vô tâm này của mình không? Em gái tôi bảo, chị theo Phật phiếc gì mà gia đình mình thì chẳng quan tâm, cứ đi mất hút? Mẹ thì bảo sao con càng ngày càng trở nên ít nói như vậy? Con không giống hồi xưa nữa. Khi xưa con tự chủ, quyết đoán, mạnh mẽ mà bây giờ... con giống một người khờ khạo, đù đờ.
Có phải là tôi đang trở nên vô tâm, vô cảm không? Đang đi vào huyễn hoặc, hư vô? Đang trở nên một cái thây chết? Có hôm tôi hỏi: “Bạch thầy, nếu thế giới ai cũng đi tu, thì sẽ không còn có ai lấy chồng lấy vợ đẻ con, thế giới sẽ tuyệt diệt mất”. Thầy nói:
“Không bao giờ phải lo thế giới này tuyệt diệt đâu. Nếu nó diệt thì chỉ là diệt cái tướng của cõi Ta Bà như ta đang thấy, nhưng lại sẽ sinh ra một cõi khác, và cũng vẫn sẽ có các chúng sinh của cõi đó tương ứng với tâm thức Ta Bà... Cứ theo tâm thức mà biến hiện thôi.”
“Vậy nếu như thế giới ai cũng như chúng ta, ai cũng nhẫn nhịn, tịch lặng, thì sẽ lấy ai xuống đường, ai đấu tranh cho các áp bức bất công, ai nói lời nghịch nhĩ, trung thực, ai sẽ cúng dường, thỉnh pháp?”
“Nếu tất cả cùng tu, thì sẽ còn rất ít áp bức bất công để mà phải đấu tranh theo đường lối của thế gian cô ạ. Sẽ không có tính toán, được mất, tranh giành. Người ta không cần khởi ý can thiệp bởi vì không thấy có vấn đề thì đâu cần giải quyết vấn đề. Chúng ta thường toàn tự tạo vấn đề rồi lại loay hoay giải quyết.”
Khuya hôm nay chuẩn bị đi ngủ, tôi ra bếp thì thấy ông Đạo Nhị ngồi xổm, tay ấp một con chim. Hóa ra con chim sẻ bị mưa sã cánh, rớt xuống đất, bị mèo vồ. Ông Đạo Nhị trong phòng đi ra thấy thế đạp bay con mèo rồi cố sưởi cho con chim ấm lên. Người con chim tuy còn nguyên không thấy chảy máu nhưng chắc đã quá lạnh và giập nát bên trong nên cứng dần. Tuy thế, hai mắt nó vẫn còn mở và chớp nhẹ. Tôi ngồi xuống cạnh ông Nhị rồi bất giác bắt đầu niệm:
“A Di Đà Phật, A Di Đà Phật, A Di Đà Phật...”
Ông Đạo Nhị ấp hai tay quanh con chim. Tôi vẫn niệm A Di Đà Phật, A Di Đà Phật thành tiếng. Ông Nhị không niệm ra tiếng nhưng hình như đang thầm làm lễ quy y cho nó. Con chim bỗng nhiên duỗi một chân ra, giãy lên mấy cái rồi thu chân lại, ngồi thẳng người lên ngay ngắn trong lòng bàn tay ông, nhắm mắt lại, ra đi. Chúng tôi tiếp tục niệm Phật thêm một lúc rồi ông Nhị lấy giấy ăn lót vào cái bát nhỏ, để xác con chim trong đó, mang vào nhà Tứ Ân. Ở đó có cái đài niệm Phật Di Đà mở suốt đêm ngày.