← Quay lại trang sách

Chương 44 Như vậy, như vậy

Đã gần hai tháng ở chùa rồi. Mỗi ngày tôi đều chỉ ngủ mấy tiếng, ăn uống đạm bạc, nhiều bữa chỉ một bát cơm với mấy miếng rau, và trời thì vẫn nóng đến mức tôi nổi ban từng đám ở chân và bụng. Thế mà tâm tôi an không thể tả. Mỗi ngày, lại học được nhiều quá, học ở chùa, học ở bệnh viện tâm thần, học khắp nơi, mà không biết phải tổng hợp thế nào; tôi cứ ghi chép tràn lan. Ghi xong lại tra cứu, đối chiếu thêm, chỗ nào không biết thì hỏi.

Trí có trí tích, trí hiển, tức có loại trí tuệ phát lộ, có loại ẩn tàng. Biên trí là trí tuệ còn bị ngăn che.

Chư Phật là lưỡng túc tôn, tức bậc tôn quý vì có bi và trí song toàn. Tam mật tương ứng: tâm hành giả là tâm Phật, ý hành giả là ý Phật, lời hành giả là lời Phật.

Vô tác: không làm, không có niệm khởi lên thì không có sinh diệt.

Thí vô úy: bố thí sự không sợ hãi cho người khác. Ấn thí vô úy là ấn của Đức Quán Âm.

Hàng yêu phục ma chính là hàng phục ma tâm, ma trong đầu. Độ các chúng sinh là độ các niệm trong đầu, mỗi niệm như một chúng sinh; các niệm phiền não cũng độ mà niệm vui cũng độ, độ hết qua bờ giải thoát.

Bát thức chuyển thành ngũ trí: bát thức là tám thức (nhãn thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức, tiềm thức, và tàng thức); ngũ trí là năm trí của Như Lai (Đại viên cảnh trí, Bình đẳng tính trí; Diệu quan sát trí; Thành sở tác trí; Pháp giới thể tính trí). Thức còn thuộc về sinh diệt, phân biệt, sự thấy biết sai lầm. Trí là cái thấy chân thật.

Đã thành Phật thì giống nhau. Nguyện tuy khác nhau nhưng là phát khi hành Bồ Tát đạo, khi đã thành Phật thì như nhau, không nói người này nguyện rộng hơn người kia.

Đắc pháp là đắc pháp giới tính Như Lai, hòa vào pháp giới Như Lai. Bốn tướng nhân, ngã, chúng sinh, thọ giả: Không còn thấy bốn tướng thì tự do không ngăn ngại.

Sáu ba-la-mật: bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định, trí tuệ.

Cúng chư Phật bằng giới đức. Có năm thứ hương cúng Phật: hương giới, hương định, hương tuệ, hương giải thoát, và hương giải thoát tri kiến.

Tâm ban đầu từ chính giác sinh ra, tâm sau là do tương tục sinh ra và nối tiếp hòa hợp tăng trưởng.

Bồ đề lìa tất cả phân biệt, thành tựu thập địa Bồ tát, biết tất cả vốn đồng, biết các nẻo luân hồi.

Thấy tự tính thì xa lìa ngôn thuyết, trí tuệ tự mình chứng biết nên gọi là Như Lai. Căn xúc cảnh sinh thức. Tu thì cần tới vô tướng, phi tưởng. Dùng câu hỏi: tưởng này sinh ra từ đâu? Từ trong hay ngoài, từ thân hay từ tâm ý? Nếu từ thân thì thân như cỏ cây gỗ đá, không có tự ngã, không thể từ thân. Nhưng có từ bên ngoài không?

Đề phòng việc cung dưỡng sự tưởng, khiến nó phình to, điên đảo.

Nếu niệm khởi lên thì lập tức quán không, cho đến khi thuần thục.

Cụ túc là đầy đủ lưỡng túc: phúc và trí. Thân kim cương. Tâm kim cương. Thân kim cương là thân kiên cố; tâm kim cương phải rất sâu dày và bí mật.

Phật nói không nên sinh tâm cho mình là hèn kém không thể theo pháp này vì pháp này quá cao, mà cũng không nên sinh tâm cao ngạo rằng mình căn cơ cao, chỉ học pháp cao. Nên tác ý rằng mình sẽ làm được điều này, sẽ thành tựu điều này vì muốn làm lợi ích cho chúng sinh.

Vào nhà vệ sinh cũng giữ tâm thanh tịnh thì đó cũng là tịnh địa.

Hỉ lạc cũng là một hạnh. Người có hạnh hỉ lạc khác với người tươi vui hơn hớn - cùng là cười đấy nhưng là hai cái cười khác nhau. Bồ tát có khi phải dùng sự hoan lạc, vui đùa như phương tiện đưa chúng sinh đến đạo; miễn là không sàm sỡ, tâm vẫn trụ vững, không phóng dật. Điều này thì người nào tu người đó biết mà thôi; tâm có bị phóng hay không chỉ có mình biết.

“Kinh, luật, luận là một, không sai khác vì đều từ một nơi biến trí mà sinh ra. Có khác là kinh y nơi tâm mà luận, luật y nơi giới mà luận, còn luận y nơi tuệ mà luận.”

Tịch căn: các căn lặng lẽ thì sinh trí tuệ.

Phải khéo khởi niệm. Khi còn chưa tu chứng, đang tu nhân duyên thì phải khéo léo khởi niệm để làm được Phật sự của nhân duyên. Phúc tuệ phải song hành. Bi trí song hành. Tự tổn và tổn tha đều phải dứt lìa. Không làm hại mình, không làm hại người.

“Thiên đường hữu lộ vô nhân đáo, địa ngục vô môn hữu khách tầm”, tức là thiên đường có lối rõ ràng thì không ai đi, mà địa ngục không có cửa thì người ta cứ tìm.

Tài pháp nhị thí thủy thành công: bố thí tài vật và bố thí pháp, cả hai thứ thí đó mới là trọn vẹn.

Phúc tuệ lưỡng toàn phương tác Phật: có đủ phúc và tuệ thì có thể đi muôn phương hành Phật sự, ra vào chỗ khó, chỗ nạn cũng không sao

Tứ ân đồng báo: phải báo cả bốn ân lớn trong đời.

Lục đạo vạn hạnh: sáu đường trời, người, a-tu-la, ngạ quỷ, súc sinh có vạn hạnh để tu.

Nhất niệm sân hận khởi, bát vạn chướng môn khai: một niệm sân hận khởi lên là tám vạn cửa chướng ngại mở ra.

Phải siêng thủ hộ lục căn: siêng năng bảo hộ sáu căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, khẩu, ý, không để buông lung, phóng dật. Mắt thấy tướng đẹp giọng hay mà sinh tâm thì chỉ một niệm bắt đầu là gió nghiệp thổi ùn ùn, sóng lớn dần lên theo gió, trở nên không thể kiểm soát được.

Nếu có hiện tướng phẫn nộ thì phải trong từ bi, không phải là sân hận.

Chọn đức bản tôn: phải chọn một đức bản tôn để nương tựa chính khi mới tu tập.

Sở tác tội chướng: Hoặc bất phú tàng hoặc hữu phú tàng ưng đọa địa ngục: còn giữ kín những tội lỗi trong tâm thì còn đọa do các tội lỗi này có khả năng biến hiện thành địa ngục, nên phải mở toang ra để sám hối và xả.

Quốc độ ai cũng có vì ai cũng có Phật tính. Tự tính Di Đà. Về cõi Tịnh Độ tức là thanh tịnh tâm mình. Ai cũng là quốc độ và giáo chủ quốc độ của mình. Tâm thanh tịnh thì quốc độ thanh tịnh.

Phi lý tác ý: sự sinh ý do suy xét không hợp lý. Thế nào là không hợp lý? Thường là do có ý thấy cái vô thường là thường, khổ là lạc, vô ngã là ngã, bất tịnh là tịnh. Phi lý tác ý đưa đến tạo các nhân bất thiện mà tất yếu đưa đến quả khổ trên thân và tâm.

Như lý tác ý: sự sinh ý do suy xét hợp lý.

Chuyển ba thứ lậu hoặc, nghiệp, và khổ trở thành ba đức Bát nhã, Giải thoát, Pháp thân - gọi là ba lần chuyển pháp.

“Diệt hết tâm phàm, chẳng có chư thánh giải thoát.”

Nhất thiết hữu vi pháp. Như mộng huyễn bào ảnh. Như lộ diệc như điện. Ưng tác như thị quán: tất cả các pháp hữu vi đều như mộng, như bóng, như ánh sao, như điện chớp. Hãy quán sát như vậy.

Học Phật mà không thấy tâm thì học vô ích.

Dạo này trong đầu tôi thỉnh thoảng nảy lên những câu nói bất thần, chẳng biết từ đâu ra, ví dụ:

Kiến giải chỉ là hóa thành.

Phải đi tới trí tuệ Bát nhã.

Và nhất là câu này:

Báu gì mấy ý nghĩ quẩn quanh mà cứ nghiền ngẫm chúng mãi vậy?

Rất nhiều buổi, đang nghe thầy giảng pháp, tự nhiên trong đầu bật lên câu hỏi: Ai là người nghe pháp? Ai đang hiểu những lời thầy nói? Lấy gì để hiểu?

Có khi đang nghe và nghĩ miên man, tâm đột nhiên dừng phắt lại, lặn mất, tất cả mọi thứ trong Tam Bảo đột nhiên trở nên trong suốt, thanh tịnh. Không thể nói đâu là Phật, mà cũng không thể nói đâu không phải là Phật. Tất cả mọi người đang ngồi trong Tam Bảo - thầy, các sư ông, sư bác, sư chú, Phật tử - cũng như kèo cột, tượng gỗ, sắt thép, mối mọt, ruồi muỗi đều là Phật, và đều không phải là Phật. Thân trong suốt, tâm trong suốt, cả thế giới trong suốt.

Chỉ như thế.