Chương VII VỀ QUÊ
TÔI có ý bỏ nhà chú tôi đã lâu để trốn đi Hao-Cảng để làm tàu. Mỗi lần phải nhịn đói, mỗi lần bị hành-hạ – nghĩa là ngày nào cũng thế – ý-định trên lại sôi-nổi trong lòng tôi. Những khi chú tôi đi vắng, ở nhà tôi tìm đến tấm bản-đồ Noóc-Măng-Đi treo ở cạnh cầu thang, nghiên cứu cuộc hành-trình. Tôi chế một cái com-pa bằng gỗ để đo và tính đường đi như ông Biên-Gia đã dạy tôi. Từ tỉnh Đôn đến tỉnh Hồng-Lư ở cửa sông Sen phải đi mất chừng 8 ngày và phải qua 7 thị-xã. Ngày đó, mỗi tấm bánh độ nửa ki-lô giá 3 xu. Nếu tôi gom-góp được 28 xu hoặc 20 xu thôi là tôi không lo chết đói ở dọc đường. Nhưng làm thế nào mà có cái vốn 20 xu? Không làm thế nào được, tôi đành chịu bó tay.
Trận đòn thù vừa rồi đã giúp tôi giải-quyết vấn-đề đó. Sau khi ra rửa đầu, rửa mặt ở dưới vòi nước và bịt cho vết thương qua-quèo, tôi vào buồng nằm và quyết thi-hành chương-trình của tôi vì tôi không thấy khó-khăn nữa. Tôi nghĩ đến những trái cơm xôi (dâu rừng) bắt đầu chín đen ở hai bên bờ đường và ở ven rừng, nghĩ đến những trứng chim trong tổ có thể kiếm được và nghĩ đến những đồng xu người ta thường đánh rơi trên đường, cát bụi phủ đi. Và may ra tôi sẽ gặp được những người chủ xe chở hàng cho tôi đi nhờ và cho tôi ăn để tôi đánh giúp xe lúc họ mỏi-mệt và buồn ngủ. Khi tới được Hao-Cảng rồi, tôi tin rằng thế nào cũng có thuyền-trưởng cho tôi làm chân tiểu-thủy-binh. Một khi ở biển rồi, thượng-lộ bình-an! Tôi là người lính thủy! Hết hạn, tôi sẽ về thẳng Thiên-Cảng, mẹ tôi sẽ hôn tôi, tôi sẽ trao cho mẹ tôi tất cả tiền lương của tôi. Nếu không may, tàu chúng tôi bị đắm, càng hay: một đảo hoang, những dân mọi, một con vẹt! Ôi! Lỗ-Bình-Sơn! Nghĩ đến đây, tôi mất cả đau dầu và quên rằng mình chưa được ăn bữa tối.
Chủ-nhật nào cũng thế, từ sáng sớm chú tôi đã đi thăm tòa nhà mới mua và ở đấy đến khuya mới về. Vì thế, từ tối hôm nay là thứ bảy cho đến sáng thứ hai, chắc-chắn là tôi không trông thấy chú tôi. Nếu tôi bắt đầu trốn đi ngay thì tôi đi trước được 36 tiếng đồng-hồ rồi chú tôi mới biết. Nhưng cửa xuống nhà dưới khóa kỹ, có lẽ phải nhảy từ gác xuống sân rồi chui lỗ giậu sang chuồng con Pa-Tô. Khi đã ở vườn ông Bá-Huân rồi, tìm cách ra ngoài đồng rất dễ.
Tôi vừa nằm trong gường vừa bàn tính kế-hoạch, đợi chú tôi ngủ là tôi thi-hành.
Giờ lâu, tôi đoán chú tôi đã ngủ say, tôi trở dậy và sửa-soạn để đi. Tôi bỏ hai áo sơ-mi và ba đôi bí-tất vào trong mùi-xoa buộc lại. Tôi mặc một cái áo vét lành và một cái quần dạ, tay xách giày cho khỏi động, rồi tôi mở cửa buồng ra.
Tôi đang khép cửa lại thì một ý-nghĩ nực cười vụt qua trong trí tôi. Tôi lại lộn vào. Đêm đó không có trăng nhưng trời không tối lắm. Mắt tôi quen nhìn trong bóng tối nên trông rõ các đồ-vật. Tôi lấy một chiếc ghế dựa để lên giường tôi trèo lên ghế, tay với đụng con cá sấu treo ở dưới trần. Tôi tháo nó xuống, ôm vào hai cánh tay và đặt nằm dài trên giường tôi. Xong tôi lấy chăn đắp kín đầu đuôi.
Tưởng-tượng đến vẻ mặt kinh-ngạc của chú tôi, sáng thứ hai khi vào mở chăn thấy con cá sấu nằm ở chỗ tôi, tôi nhịn cười không được, có thể chú tôi tưởng con cá sấu đã nuốt sống tôi rồi cũng nên! Nghĩ thế, tôi lại cười bò ra.
Tôi bày trò đó để trả thù chú tôi.
Tôi trèo qua cửa sổ, bám vào những khấc ở tường và tụt xuống vô sự. Khi tôi đã sang được vườn nhà ông Bá-Huân rồi, tôi hết cười. Tôi lo sợ nhìn chung quanh tôi: cây-cối ban đêm hiện ra những hình-thù kỳ-dị. Trong những bụi cây-cảnh có những lỗ sâu hoắm, tôi không dám nhìn. Một làn gió nhẹ thổi qua, lá cây sào-sạc. Bất-giác tôi chạy nép vào lều con Pa-tô. Bạn Pa-tô ơi! Nếu bạn còn ở đây, chắc ta chưa phải đi dâu!
Trước kia tôi cứ tưởng tôi là người bạo-dạn, bây giờ chân tôi rủn ra, răng tôi đập vào nhau cầm-cập, tôi tự lấy làm xấu-hổ. Tôi liền thu hết nghị-lực, đứng phắt dậy, ném gói áo qua tường ra ngoài đồng. Rồi nhờ dặng cây dựa sát tường, tôi leo lên được nóc tường. Tôi nhìn ra cảnh-đồng thấy vắng-vẻ và im-lìm, tôi liền tụt xuống, nhặt gói đồ và cắm cổ chạy.
Tôi chạy như thế hơn một tiếng đồng-hồ, sợ quá không dám ngoảnh cổ lại và cũng không dám nghĩ. Sau cùng tôi thở không được nữa thì lúc đó tôi đã ở giữa cánh đồng cỏ, một lạch nhỏ róc-rách đưa nước ở vũng lầy ra biển. Ngày ấy đang vụ gặt cỏ. Qua làn sương bạc, tôi trông thấy lô-nhô những đống đất nhỏ hai bên đường. Tôi bỏ đường cái rẽ xuống ruộng và ngồi phịch trên đám cỏ khô. Tôi đã cách thành-phố được hai dặm rồi, tưởng như ở nơi cùng tột chân trời, tôi mới dám thở tự-đo.
Đầu đau, bụng đói, vừa cảm-xúc vừa mệt lử, tôi nằm vật trên cỏ ấm và thiu-thiu ngủ do những tiếng ru của trăm ngàn ếch nhái trong vũng lầy đưa ra.
Một cơn gió lạnh làm tôi trở dậy. Cái lạnh buổi sớm ở miền này thấu đến tận xương mà tôi chưa biết.. Quần-áo tôi ướt đẫm như bị nước mưa rào. Tôi rét run từ đầu đến chân.
Nhưng khổ hơn cái rét là tôi thấy trong mình tôi hơi choáng-váng Cuộc đắm tàu, hòn đảo vắng không làm cho tôi thích-thú như trong giấc mộng đêm qua nữa. Thế là tôi sẽ không bao giờ được trở lại quê-hương! Không bao giờ được trông thấy mẹ tôi nữa! Một trào lệ dâng đầy mắt tôi. Quên cả rét, tôi ngồi bó gối trên đám cỏ, đầu gục trong hai bàn tay, không nhúc-nhích.
Khi tôi ngửng mặt lên, chương-trình của tôi bị thay đổi hẳn. Tôi phải về ngay Thiên-Cảng nhìn mẹ tôi một lần nữa rồi mời đi Hao-Cảng. Tôi sẽ tới nơi vào buổi tối và nấp trong mui tàu – mui tàu cũ ở cạnh nhà – để sáng hôm sau đi sớm không ai biết. Như vậy, ít ra tôi cũng sẽ đem theo được hình-ảnh mẹ tôi và nhà tôi. Và nếu bỏ nhà mà đi là một điều lỗi, thì lỗi đó cũng giảm đi được đôi phần.
Tôi liền cầm bọc áo đứng dậy, còn gần 11 dặm nữa mới đến nhà. Không để mất thì-giờ, tôi lên đường ngay. Trời sắp sáng rõ, xa xa người ta đã nghe thấy tiếng chim kêu. Ở phương dông, một ánh vàng hiện ra rồi biến thành sắc đỏ, tỏa dần-dần trên trời và tới đỉnh đầu tôi. Một cơn gió bắc nhẹ thổi qua cành cây, rũ hết những hạt sương đêm. Những ngọn cỏ, những bông hoa vươn thẳng. Một làn khói xanh nhẹ-nhàng bay lên và tan trong gió. Trời đã sáng.
Tôi đã tưởng nhầm đi đường ngẫu-nhiên sẽ có cái ăn. Nhưng đi đã nhiều giờ rồi mà tôi chẳng gặp cái may nào cả. Trong cánh đồng, tuyệt-nhiên không có cái gì ăn được. Trái lại trong các làng tôi đi qua, người ta đang sửa soạn cho ngày chủ-nhật: trên bàn các tiệm ăn có những khoanh thịt to-tướng, trong tủ các hàng bánh bày những ổ bánh mì vàng với những tấm bánh tráng sực mùi bơ nóng. Nhìn thấy những thứ đó, miệng tôi ứa đầy nước miếng. Tôi bụng bảo dạ: đừng nghĩ đến cái đói thì không thấy thèm ăn nữa. Tôi liền cất giọng hát nghêu-ngao: những khách qua đường đều trố-mắt nhìn một đứa trẻ, tay xách gói đồ vừa đi thất-thểu vừa gào điếc tai.
Trò ca-hát không thể kéo mãi được, cổ tôi khô lại. Bên cạnh cái đói, tôi lại đeo thêm cái khát. Nhưng điều này dễ giải-quyết, vì tôi thường gặp những con sông con chảy ra biển. Tôi tìm một chỗ sạch, tôi quỳ xuống, cúi miệng xuống nước uống tha-hồ. Tôi tưởng dù là chất lỏng hay chất đặc, miễn dạ-dầy đầy là được. Tôi lại nhớ rằng có lần tôi bị sốt trong bốn, năm hôm liền, không ăn gì chỉ uống thôi mà tôi vẫn không thấy đói.
Một khắc sau tôi ra mồ-hôi đầm-đìa. Thì ra nước dưới tia nóng của mặt trời, đã sinh hiệu-quả. Tôi mỏi-mệt quá như người hết hơi, tôi gắng sức lê vào dưới bóng cây ngồi nghỉ. Chưa bao giờ tôi bị mệt lả đến thế. Tai tôi ù-ù, mắt tôi trông vật gì cũng đỏ lòe. Chỗ ấy gần thôn xóm. Nhưng gần dân-cư cũng chẳng có ích gì cho tôi vì trong lưng tôi chẳng có lấy 1 xu để mua bánh.
Mấy người nhà quê qua mặt tôi. Họ nhìn tôi và nói nhỏ với nhau. Rất có thể họ cho tôi là quân du-đãng và bắt tôi. Tôi sẽ phải thú-nhận ở đâu đến và định đi đâu. Ho sẽ điệu tôi về với chú tôi. Ý-tưởng đó làm tôi ghê người. Tôi liền đứng dậy tiếp-tục đi. Tôi bước lù-khù như người ốm. Óc tôi vẩn-vơ nghĩ đến mấy câu thơ mà tôi đã học thuộc lòng khi ở nhà ông Biên-Gia:
Thượng-Đế chẳng bao giờ,
Để chúng-sinh khổ-cực.
Cả đến bầy chim non,
Cũng ban mồi độ nhật.
Lòng nhân-ái vô biên,
Bao trùm khắp trái đất.
Không lẽ trước đấng Thượng-Đế, tôi lại không bằng những con chim đang nhẩy hót trên cành kia hay sao?
Tôi vừa đi vừa đọc lại bài thơ đó. Những lời cầu-nguyện này khác nào như một bản hành-khúc đưa tôi đến một khu rừng lúc nào không biết. Tôi chợt nhìn thấy ở bờ dốc dưới chân những cây kim-tước vàng có những điểm đỏ chót lóng-lánh trong cỏ: những quả dâu! Đúng những quả dâu! Tôi liền nhảy qua hào. Chỗ này dâu mọc chi-chít trông như một luống rau trong vườn. Sâu hơn chút nữa, trong rừng thưa không biết cơ-man nào là dâu chín trông xa như một tấm thảm đỏ. Tôi tha-hồ ăn, tôi ngắt những quả ngon nhất, những quả to nhất, không ở đâu hơn nữa.
Khi đã đủ no, tôi muốn hái rất nhiều dê dành. Đi đường tôi có thể đổi lấy bánh ăn.
Bánh mì là tất cả vọng-tưởng của tôi! Nhưng ít thì-giờ quá vì lúc đó đã quá trưa rồi, mà tôi còn phải đi đến năm, sáu dặm nữa mới đến Thiên-Cảng. Vả chân đau, đường dài, tôi lo không biết bao giờ mới tới nơi. Vì thế dù có lá tần-bì bọc thêm vào mùi-xoa, tôi cũng không sao hái dâu nhiều hơn nữa như lòng tôi muốn
Tỉnh-táo lúc đầu, rồi tôi lại thấy mệt dần. Định đi mỗi thôi là nửa dặm, mà rồi cứ mỗi cây-số lại phải ngồi nghỉ ngay trên mốc cột.
Vẻ mệt nhọc của tôi trông rất rõ-rệt. Trong khi tôi đang ngồi nghỉ, có một người bán cá đi bộ dắt xe. Trông thấy tôi người đó hỏi:
– Mệt lắm hả?
– Thưa ông, hơi mệt thôi.
– Ta biết. Em còn phải đi nhiều nữa không?
– Năm dặm nữa.
– Nếu em về Thiên-Cảng, ta cũng đi đây, lên xe ta chở.
Đó là một thời-cơ quyết-định. Tôi liền thu hết hơi sức và can-đảm, đứng đậy, nói:
– Thưa ông, tôi không có tiền. Nếu ông có muốn lấy dâu thay cho tiền chở, thì đây gói dâu tôi vừa hái được.
Tôi mở gói mùi-xoa ra.
Ông hàng cá đáp:
– Thơm quá nhỉ! Em không có tiền, cứ lên xe đi. Đến quán cơm Cối-Xay em sẽ bán dâu và trả tiền xuất rượu cho ta.
Đến quán Cối-Xay, mẻ dâu của tôi bán được có 6 xu.
Việc bán dâu xong xuôi, ông hàng cá nói:
– Bây giờ đủ hai xuất rượu đấy.
Tôi không thể dụt-dè nữa, tôi nói:
– Thưa ông, tôi cần miếng bánh hơn.
– Cứ uống đi, nếu em đói, lát nữa em sẽ ăn với ta và ta trả tiền cho.
Lát nữa sẽ ăn! Tôi không để mời đến hai lần!
Tôi cứ tưởng đến tối tôi mới tới Thiên-Cảng, ai ngờ chưa đến 4 giờ chúng tôi đã đến nơi. Lúc đó là giờ mẹ tôi ở Nhà Thờ cầu kinh vãn-khóa. Tôi có thể về nhà mà không ai biết và đủ thì-giờ vào ẩn trong mui tàu là chỗ mẹ tôi ít ra vào.
Trong mui tàu đồ-đạc vẫn nguyên như khi tôi ra đi, vẫn nguyên như sau ngày cha tôi mất. Trong buồng để đầy lưới và dụng-cụ đánh cá. Khô quắt như những mạng-nhện cũ những lưới đó xông ra toàn mùi vỏ dà và mùi dầu hắc. Tôi hạ một nắm lưới đó rải làm ổ nằm. Xong tôi khép cửa sổ lại để tôi có thể trông ra được mà người ngoài không nhìn thấy, rồi ngồi đợi.
Tôi ngồi một lúc thì buồn ngủ rũ ra. Có tiếng nói làm tôi tỉnh dậy. Có lẽ tôi ngủ đã lâu vì lúc đó trời đã tối sẫm. Tôi thấy mẹ tôi đang cúi đầu thổi lửa trên bếp. Một ngườỉ dì tôi đứng gần đó tựa lưng vào vách.
Dì tôi nói:
– Thế đến chủ-nhật chị nhất định đi à?
– Phải. Tôi ở nhà buồn quá. Tôi muốn chính mắt tôi được trông thấy con tôi xem độ này thế nào. Cháu không phàn-nàn gì trong thư nhưng hình như cháu cũng buồn lắm thì phải.
– Ý chị thế nào thì chị cứ nói thẳng. Vào địa-vị chị, tôi không khi nào lại để cho nó ở với anh Xi-Mông.
– Vậy cứ cho nó đi biển hay sao?
– Thì sao?
– Thì sao! Thế con trai đầu lòng của dì bây giờ đâu? Các anh Phúc, anh Linh của ta bây giờ đâu? Chồng tôi bây giờ đâu? Chồng chị Phăng-Xoa đâu? Hãy nhìn chung quanh ta xem bao nhiêu người thiếu mặt? Ôi! Đi biển! Đi biển
– Thế mà biển không đáng sợ bằng ông Xi-Mông, ông ấy không phải là người. Ông ấy là một đống tiền!
– Chính chỗ đó làm cho tôi mất ăn mất ngủ. Không phải sợ nó phải chịu khổ-sở bây giờ, mà sợ nó sau này sẽ trở nên thế nào nếu ở mãi bên cạnh con người như thế. Giá tôi đừng để nó ở năm năm với ông ấy thì phải!
– Vậy chị bắt-buộc phải cho nó ở với ông ấy hay sao?
– Nếu tôi đòi về, tôi phải thường cho ông ấy. Tiền, lấy ở đâu ra? Thôi đành đi thăm cháu vậy.
– Nếu vậy, chiều thứ bảy, tôi sẽ đem đến liễn bơ, chị sẽ cầm cho cháu nói là quà của tôi. Chắc nó phải ăn kham-khổ.
Dì tôi ra về. Mẹ tôi làm bữa. Mùi khoai rán trong chảo làm tôi nhớ lại ngày nào tan học về, bụng đói thèm ăn.
Mẹ tôi ngồi vào bàn, quay mặt về phía tôi, ngọn đèn soi tỏ. Mẹ tôi ăn rất chóng. Thương-hại cho mẹ tôi! Bây giờ tôi còn nhìn thấy rõ, nét mặt buồn-bã làm sao! Mẹ tôi đang nghĩ đến tôi đó. Mà tôi ngồi đấy chỉ cách mẹ tôi có ba bước, chẳng chạy ra, đang tâm ngồi lại do cái ý-định khốn-nạn của tôi.
Có tính ngăn-nắp và sạch-sẽ, mẹ tôi xếp dọn các thứ đâu vào đấy rồi rửa bát dĩa, lau bàn ghế. Xong quỳ trước ảnh Chúa treo trên tường, mẹ tôi bắt đầu đọc kinh cầu-nguyện.
Đã bao nhiêu lần, cũng giờ này, cũng chỗ ấy, hai mẹ con cùng nhau đọc bài kinh ấy, cầu Chúa phù-hộ cho cha tôi.
Nghe những lời kinh thiết-tha mà chúng tôi thường đọc, tôi liền quỳ trên đống lưới lẩm-nhẩm cầu-nguyện theo mẹ tôi. Nhưng lần này không phải tên cha tôi mà chính tên tôi do miệng mẹ tôi thốt ra.
Trời ơi! Sao lúc đó tôi lại không nhẩy ra bên cạnh mẹ tôi?