Chương VIII QUYẾT RA ĐI
TÔI nằm và khóc. Giấc ngủ ở dưới mái nhà mẹ sao tôi thấy bồn-chồn không yên bằng giấc ngủ đêm qua tôi nằm ở trong cánh đồng cỏ tỉnh Đôn.
Gần sáng, tôi nghe thấy tiếng nước biển lên và vỗ vào bờ đá ào-ào, tôi lẻn ở mui tàu ra.
Chiều hôm qua, tôi về hồi 4 giờ, nước triều bắt đầu xuống, bây giờ nước triều đang lên tức là trời sắp sáng, tôi không muốn có ai trong xóm dậy sớm trông thấy tôi.
Trong chương-trình lữ-hành của tôi, tôi không tính trước đến buổi phải phân-ly mái nhà mẹ. Vì thế bước chân ra khỏi giậu kim-tước ngăn sân nhà tôi với bãi hoang, bất giác tôi ngừng bước và quay đầu lại. Trái tim tôi đập như phá. Con gà sống ở chuồng nhà tôi cất tiếng gáy. Mấy con chó hàng xóm nghe thấy tiếng chân tôi đi, tỉnh dậy và sủa ầm-ỹ. Bình-minh bắt đầu rạng. Mấy tia ánh-sáng trăng-trắng rọi sau bờ đá làm cho nhà tôi nổi bật hình đen.
Tất cả những kỷ-niệm ấu-thời bỗng-nhiên hiện ra trong óc tôi. Những đêm tôi khóc, cha tôi bế tôi đi đi lại lại trong buồng và hát để dỗ-dành tôi. Con chim sâu thứ nhất mà tôi bắt được vỗ đôi cánh gẫy đến ăn trong lòng bàn tay tôi. Những đêm gió bão mẹ tôi lo buồn không ngủ. Những buổi cầu kinh trước ngọn đèn hắt-hiu. Tôi đã từng mục-kích bao nhiên cái sầu-não, cái đau-khổ của mẹ tôi. Rồi bỏ mẹ tôi như vậy phải chăng là một tội bất-hiếu?
Hải-đăng đã tắt. Mặt biển long-lanh dưới bầu trời còn tối. Trên những mái bếp trong làng, những cuộn khói vàng lên thẳng trong không-khí. Tiếng guốc đi lạo-xạo trên đường đưa đến tai lôi: người ta đã dậy.
Tuy-nhiên, ngồi nấp trong khóm kim-tước, tôi do-dự, băn-khoăn, trách mình và khổ-não. Trí phiêu-lưu, hy-vọng làm nên không cần nhờ ai, những phương trời lạ muốn kéo tôi lên đường. Trái lại tính dút-dát của tôi, những thử-thách của ngày hôm qua, nhất là lòng thương-nhớ mẹ tôi thắt chặt mối dây nó ràng-buộc tôi với nơi chôn rau cắt rốn.
Chuông lễ ban mai đã điểm. Hồi chuông chưa dứt, mẹ tôi đã mở cửa ra ngoài hiên và sắp sửa đi làm. Khi tôi nghe thấy tiếng cánh cổng ngoài khép lại, tôi liền đứng lên trông theo mẹ tôi. Tôi thấy bóng trắng cái mũ vải của mẹ tôi thấp-thoáng qua những cành cây hàng rào.
Mặt trời đã lên cao và rọi sáng nhà tôi. Dưới ánh nắng xiên-xiên, lớp rêu phong trên mái xanh mượt như nhung, đây-đó điểm một vài bông hoa thiên-thảo vàng choé, trông như một bức thêu. Gió nam hiu-hiu thổi, từ ngoài khơi đưa vào cái lạnh mằn-mặn trong bầu không-khí trong-trẻo ban mai.
Tôi rời nhà mẹ tôi, lẩn đi rất nhanh cũng như lúc lẩn về.
Tôi đi, được rồi. Nhưng đi cho đến nơi, chính là một điều khó. Cái kinh-nghiệm rút trong hai ngày hôm qua đã dạy tôi rằng đường dài rất vô-tình đối với những kẻ túi rỗng. Tôi lo nhất về cái ăn trong cuộc lữ-hành của tôi. Chợt tôi nhớ đến lời ông Biên-Gia đã có lần bảo tôi:
– “Biển là một người mẹ-nuôi hậu-hĩ hơn ruộng đất”.
Vì thế tôi trông mong vào bãi biển để độ-nhật; những con hến, con sò.
Tuy-nhiên tôi không dám xuống bãi ngay, sợ gặp người quen. Tôi đi mãi, đi mãi, cách xa Thiên-Cảng độ ba, bốn dặm, tôi mới xuống bãi tìm ăn. Không có sò, chỉ cỏ trai. Tôi ăn cũng thấy thú. Ăn xong, đáng lẽ phải đi ngay, nhưng thấy biển tôi thích quá, tôi chạy nhảy trên bãi, tôi xục-xạo trong các hang. Sướng quá tôi tìm được một tấm gỗ thông và làm tàu. Tôi lấy dao gọt vát hai đầu thành hình thoi. Tôi khoét một lỗ ở gần đầu. Tôi cắm một cành cây thẳng vào làm cột và tước dây miên-liễu chằng xuống bốn góc cho vững. Trên gần đầu cột tôi buộc một que ngang. Trên que ngang này tôi căng chiếc khăn mùi-xoa. Thế là tôi có một cái tàu buồm đẹp, tôi lấy tên mẹ tôi đặt tên cho tàu này. Thế rồi, suốt buổi nước triều xuống, quần xắn đến đầu gối, tôi thả tàu của tôi trong một vũng nông.
Tôi mải chơi, trời tối lúc nào không biết. Phải tìm một chỗ ngủ ban đêm. Tôi chọn một cái hang đá lớn – do sóng biển đục khoét dần mòn trong những độ thủy-triều lớn về tiết xuân-phân, thu-phân – và tôi nhặt những bụi rong khô làm ổ. Cái tổ hoang-vắng này ngủ êm-ấm hơn ở cánh đồng cỏ tỉnh Đôn biết bao nhiêu! Tôi ngủ ngon như trong nhà và suốt đêm tôi du-ngoạn trên chiếc tàu buồm của tôi tới những bến Thần-Tiên. Tàu đắm, tôi lạc vào một hòn đảo. Ở đây có vô số là bánh mì, thịt quay treo lủng-lẳng ở dưới những cành cây, như là một vườn táo sai quả. Dân mọi tôn tôi làm Chúa. Mẹ tôi cũng đến đó và được suy-tôn làm Hoàng-Thái-Hậu. Tiệc bày rất thịnh-soạn với thứ rượu tần ngọt dịu. Thần dân hoan-hô
– Thánh-Hoàng vạn tuế!
Trời chưa sáng, cái đói đã đánh thức tôi dậy. Bụng dạ cồn-cào. Tôi đợi cho nước xuống, ra bãi tìm sò. Nhưng tôi càng ăn, bụng càng thấy đói. Tôi nhớ bánh mì. Nhưng tìm đâu ra bây giờ.
Tôi tháo cột buồm ra, tôi gỡ mùi-xoa bỏ túi. Tôi bỏ nơi trú-ẩn đêm qua và bắt-chước mấy người lữ-khách có hậu, trước khi đi tôi đặt tên cho cái hang ấy là “ Động Chúa ”.
Rồi tôi theo dọc bờ đá đi mãi, xa trông có một làng ở ven bờ biển, tôi định vào làng đó xem có gặp người quen không. Đến công-trường gần Nhà Thờ, tự-nhiên tôi đứng dừng trước cửa một hiệu bánh, nhìn vào. Trong tủ bày những tấm bánh to vàng-ối, trong hiệu đưa ra một mùi thơm-thơm của bột nhào và bánh tráng. Tôi trố mắt nhìn và ước gì có phép hút những tấm bánh đó ra ngoài tủ và đến miệng mình.
Chợt có tiếng ồn-ào ở công-trường sau lưng tôi: tiếng giày, tiếng guốc, cười nói, tiếng gọi nhau: học-trò tan học.
Thấy một trẻ lạ, tóc rối-bù dưới mũ cát-két, giày đầy cát bụi, một tay xách gói, một tay cắp miếng gỗ đang đứng ngơ-ngác, bọn học-trò liền chạy đến chỗ tôi. Những đứa đến trước gọi những đứa đến chậm, trong nháy mắt chúng túm đông túm đỏ chung quanh tôi, ngó nhìn như được xem một vật lạ.
Cái tàu của tôi làm cho chúng nhạc-nhiên hơn cả. Chúng hỏi nhau:
– Này Giáp! Nó cắp cái gì thế?
– Mày không trông thấy là miếng gỗ à?
– Không, cái đàn!
– Cái đàn? Ngu quá! Nó có “khăn buộc đầu đâu”!
Không có “khăn buộc đầu”! Chúng cho tôi là dân sơn-cước!
Lòng tự-ái của tôi bị chạm, tôi bực quá nói to:
– Cái tàu buồm!
Tôi vừa nói vừa tìm lối để lách ra khỏi vòng người mỗi lúc một dầy thêm.
– Cái tàu buồm!
– Nó điên à?
– Lại xem chàng lính thủy!
Chúng vừa chế-riễu vừa nhảy-nhót chung quanh tôi.
Tôi choáng-váng người, cố lách ra. Một đứa ngỗ nhất trong bọn giật cái tàu của tôi. Đồng-thời một đứa khác quăng mũ của tôi lên trời.
Ôi! Cái mũ đẹp của tôi! Cái mũ tôi vẫn đội trong ngày Tết bị khinh-rẻ thế à?
Tôi gạt mạnh những đứa ở cạnh tôi chạy theo và bắt được cái mũ chưa rơi đến đất. Tôi ấn mạnh cái mũ vào đầu, giơ hai nắm tay ra sẵn-sàng để chống-cự.
Nhưng lúc đó, có tiếng chuông Nhà Thờ đưa ra. Bọn trẻ chạy ồn về cả phía cửa nhà Thờ, lôi-cuốn cả tôi đi. Chúng vừa chạy vừa kêu:
– A! Lễ Rửa-tội!
Người mẹ đỡ đầu và người cha đỡ đầu ở Nhà Thờ ra. Vừa ra khỏi cửa Nhà Thờ – người cha đỡ đầu là một ông sang-trọng – móc ở cái túi lớn do một đầy-tớ cầm theo sau, một nắm kẹo ném ra. Lũ trẻ chạy xô vào cướp. Chúng chưa kịp ngửng đầu lên, quý-ông kia lại ném thêm nắm khác. Lần này không những có kẹo mà còn nghe tiếng xu rơi và lăn trên thềm lát đá hoa. Tôi thấy một đồng lăn về phía tôi, tôi chạy vồ lấy. Khi tôi đang nhặt thì một nắm tiền khác lại tung ra, tôi hên quá vớ được một đồng 10 xu. Có mấy đứa vồ trượt thấy tôi bắt được liền chạy xô đến tôi và kêu:
– Nó không ở làng ta! Nó không được lấy!
Chúng liền giẫm lên tay tôi lên để cướp lại, nhưng tôi cứ nắm chặt. May sao, túi tiền quý-ông đỡ đầu chưa hết. Chúng liền lộn lại tranh nhau vồ những mẻ tiền sau.
Tôi được tất cả 12 xu. Tôi đến luôn hiệu bánh bảo bà hàng cắt cho nửa cân. Vỏ bánh ròn tan kêu rắc-rắc dưới lưỡi dao nghe êm-ái hơn các bản nhạc du-dương nhất. Tôi vừa gậm bánh vừa bước vội ra khỏi làng. Trí trả thù bọn trò kia bỗng tiêu-tan cả. Tôi chỉ mong mau thoát khỏi những kẻ địch của tôi
Tôi đi được độ 2 giờ thì đến một đền canh của sở Đoan bỏ không. Tôi định ngủ đêm ở đây. Tôi thường nghe người ta nói: “Lắm tiền thành mất ngủ”, câu này áp-dụng lúc này cho tôi rất đúng. Tôi lấy mấy ôm bèo khô rải ổ. Chỗ nằm khá êm nhưng tôi không sao chợp mắt được, óc tôi cứ luẩn-quẩn nghĩ không biết dùng số tiền trong túi để làm gì. Nửa cân bánh buổi chiều đã mất 3 xu rồi. Tất cả của-cải còn lại cỏ 9 xu thôi. Có nên dùng số tiền này để ăn trong ba ngày không? Hay là đem số tiền đó mua những vật-dụng gì khả-dĩ dùng để kiếm thức ăn trong suốt thời-gian đi đường, chả hơn hay sao? Đó là hai vấn-đề làm rối óc tôi suốt đêm không ngủ được.
Nếu hôm qua tôi có cái nồi để nấu chín tôm cua tôi bắt được thì tôi không đến nỗi phải nhịn đói. Và nếu tôi có được một cái lưới, chỉ cần nhỏ bằng nửa cái mùi-xoa, tôi đã tha-hồ cất được tôm lớn, tôm nhỏ trong các vũng.
Sáng dậy, tôi quyết-định đi tới làng đầu tiên là tôi vào mua bao diêm 1 xu, mua sợi gai 3 xu, còn bao nhiêu mua một cái soong bằng sắt tây.Tôi xin thú-thực rằng tôi quyết mua sợi không phải là do trí khôn-ngoan của tôi mà do lòng ao-ước có chút sợi để dùng. Thực vậy, những cái dây bằng miên-liễu buộc cột buồm coi thô-lậu quá. Với 3 xu sợi, tôi có thể chằng được cột buồm tử-tế, còn thừa để đan lưới cũng vừa.
Tôi bắt đầu mua sợi trước rồi diêm sau. Còn việc mua soong thì vấp phải một khó-khăn mà tôi không tính trước được: cái rẻ nhất giá cũng 15 xu. May sao tôi nhìn thấy trong góc hàng có một cái bẹp dúm mà người ta vứt ra đó vì không đáng chữa. Tôi hỏi bà hàng có bán không. Bà ta đã “làm ơn”– bà ta nói thế– để rẻ cho tôi và chỉ lấy có 5 xu.
Ngày hôm đó tôi đi được ít đường đất hơn hôm trước vì mỗi khi tìm được chỗ mát là tôi lại nghỉ để chế một cái kim, một cái khuôn bằng gỗ và đan một cái lưới. Tôi đã quen nghề này lắm, nên coi như một trò chơi. Đến bữa ăn, tôi rất sung-sướng được ăn những con tôm cất bằng vó tôi đan, luộc bằng nước biển trong cái soong nắn lại với một ít củi cành kiếm trong bờ bụi.
Nhưng cái “phúc” không bao giờ “trùng lai”. Cái bếp của tôi làm ở chân bờ dốc ngoài bãi. Những làn khói xanh tỏa lên làm cho người lính Đoan chú-ý. Tôi trông thấy người lính ấy ở trên bờ đang cúi nhìn xuống xem khói ở đâu ra. Người lính sẽ hỏi tôi làm gì ở đó và bắt tôi chăng? Tôi đâm lo. Muốn thoát nạn, đáng lẽ cứ theo dọc bờ biển mà đi, tôi liền tìm con đường gần nhất rẽ vào trong đất.
Bây giờ tôi không sợ lính Đoan nữa, nhưng tôi lại không có điếm canh của họ để trú ban dêm. Tôi phải ngủ giữa đồng. Điều đáng buồn nhất là tôi không nhìn thấy một chòm cây nào. Xa-xa, chỉ có một vài đống cỏ khô hiện ra như những chấm đen trong bóng chiều. Lại một đêm ngủ ở giữa đồng như khi rời khỏi thành Đôn, nhưng đỡ khổ hơn. Những cái chạc giẫy cỏ còn bỏ ở trong đồng, tôi lấy cắm vào sườn đống cỏ để làm mái, bên trên và hai bên tôi xếp những bó cỏ linh-lăng làm thành một cái tổ ám-áp và thơm-tho. Sợ thợ gặt bắt gặp nên tờ-mờ sáng hôm sau khi nghe tiếng chim kêu tôi đã dậy và đi ngay.
Những giờ ăn của tôi – quý độc-giả cũng tưởng-tượng được – không do tôi định mà phải tùy theo thủy-triều. Tôi chỉ có thể ăn khi nước triều xuống và đánh được tôm cá. Nước triều thường lên vào buổi sáng nên tôi không thể ăn trước buổi trưa. Vì thế mỗi khi nuớc bắt đầu xuống trông thấp mép bãi là tôi tìm bắt ngay mấy con cua để ăn trước. Để tránh cái đói về buổi sáng, khi điểm-tâm xong, tôi định cố bắt rất nhiều tôm cá để ăn dần. Hôm đó tôi bắt được rất nhiều tôm to mà dân Ba-Lê thường gọi là “tôm he” và một con cá lờn-bơn.
Khi tôi trở vào bãi để tìm chỗ nấu, chợt gặp một bà đang đưa hai con gái nhỏ, tay xách cái mai bằng gỗ, đi chơi trên bãi và bảo chúng cách bới cát để tìm những vỏ ốc vỏ trai.
Bà khách gọi tôi và hỏi:
– Này em bé! Hôm nay đánh có được nhiều không?
Tóc bà trắng và đẹp, giọng nói dịu-dàng. Hai cô bé da vàng trông rất xinh tươi. Tôi không sợ và không chạy trốn. Tôi nói:
– Thưa bà, khá.
Vừa đáp tôi vừa giơ vợt ra, trong đáy vợt mớ tôm quằn-quại.
– Em bán cho tôi mớ tôm cá này nhé. Em lấy bao nhiêu?
Tôi trả lời đại:
– Thưa bà 10 xu tất cả.
– 10 xu! Riêng mớ tôm cũng đáng 40 xu rồi, lại còn con cá. Em không biết giá à? Em không phải là dân chài à?
– Thưa bà, không.
– Vậy em để rẻ cho ta mớ tôm lấy 40 xu, còn con cá cũng ngần ấy tiền.
Bà bỏ vào tay tôi 2 đồng bạc lớn (mỗi đồng 2 phật-lăng), trong khi một cô bé đổ tôm vào dành và một cô đỡ lấy xâu con cá.
Bốn phật-lăng! Khi khách hàng của tôi vừa quay lưng đi, tôi nhảy-nhót trên bãi như một người điên. Ô! Bốn phật-lăng!
Cách bãi không đầy góc dặm có làng, tôi nhìn thấy một khu nhà ở liền nhau. Tôi liền đi đến định mua tấm bánh một cân về ăn. Bây giờ tôi không sợ các ông cảnh-sát, lính Đoan hay tuần-phu nữa. Nếu tôi gặp ông nào hỏi tôi, tôi sẽ giơ cho ông xem hai đồng bạc lớn của tôi:
-Để cho tôi đi, ông không trông thấy tôi giàu hay sao?
Tôi không gặp cảnh-sát, không gặp lính Đoan và rất không may là không gặp cả thợ làm bánh mì nữa.
Tôi lộn đi lộn lại dẫy phố độc nhất của làng, chỉ thấy một tiệm cà-phê, một hiệu tạp-hóa, một tiệm ăn, có thế thôi, không có hàng nào cả.
Tôi cần bánh mì. Có 2 đồng bạc loảng-xoảng trong túi, tôi không chịu nhịn đói. Tôi không rụt-rè như mấy hôm trước.
Thấy bà chủ tiệm ăn đứng ngoài cửa, tôi dám hỏi bà ấy rằng:
– Bà chỉ giúp hàng bánh mì ở đâu?
Bà ta đáp:
– Ở đây không có.
– Vậy, xin bà làm ơn để lại cho tôi nửa cân bánh.
– Tôi không bán. Bánh chỉ để dọn cho khách ăn thôi. Nếu em đói mời em vào.
Mùi thơm của bắp cải trong nhà đưa ra ; qua khung cửa tôi nhìn thấy nồi súp đang sôi trên bếp. Tôi không chống lại nổi cái đói:
– Mỗi bữa bao nhiêu?
– Súp, rau, thịt và bánh, giá 30 xu, kể cả tiền rượu tần.
Thật là một giá cắt cổ. Nhưng nếu lúc ấy bà ta đòi 40 xu tôi cũng ưng liền. Bà ta đưa tôi vào ngồi trong một buồng thấp và mang đặt vào bàn một thoi bánh to nặng đến một cân rưỡi.
Chính cái thoi bánh ấy làm hại tôi. Thịt thơm ngon quá, đáng lẽ phải ăn bằng nĩa, tôi liền kẹp vào ruột bánh như thứ bánh mặn (sandwich) nhân rất dầy. Miếng thứ nhất nuốt ngấu-nghiến, xong đến miếng thứ hai, thứ ba … ngon quá! Thoi bánh ngắn đi nhanh quá! Tôi cắn miếng thứ tư, to gấp bội, định bụng ăn hết miếng này thì thôi. Nhưng ăn xong, tôi thấy còn thừa mấy miếng thịt, tôi trở lại thoi bánh cắn thêm và chỉ để lại một mẩu con. Phải lắm chứ! Đó là một dịp may hiếm có, phải tận-dụng mới được.
Tôi tưởng chỉ có một mình tôi trong buồng. Nào ngờ hình như có tiếng thì-thầm và khúc-khích đâu đây làm cho tôi quay đầu ra phía cửa vào. Sau bức kính vén rèm, tôi thấy vợ chồng chủ tiệm và người đầy-tớ gái đang nhìn tôi và cười. Chưa bao giờ tôi bị xấu-hổ quá như thế. Họ vào trong phòng.
Bà chủ hỏi tôi:
– Quý-ông ăn đã thỏa rồi chứ?
Rồi cả ba người cười ầm lên.
Tôi vội đứng dậy đưa đồng 40 xu ra. Bà chủ nói
– Mỗi bữa 30 xu cho người thường còn đối với “thần trùng” như cậu em thì phải 40 xu.
Bà ta không trả tôi chỗ thừa. Tôi ra thẳng. Bỗng bà ta gọi giật lại:
– Này! Coi chừng kẻo vỡ bụng nhé. Đừng đi nhanh quá!
Mặc lời căn-dặn đó, tôi rảo bước như thằng kẻ cắp. Đi một quãng rất xa, tôi mới bước chậm lại.
Tôi lấy làm xấu-hổ đã tiêu một món tiền lớn vào một bữa ăn. Nhưng tôi thấy trong người dễ chịu. Từ hôm tôi khởi-hành đến giờ, chưa lúc nào tôi mạnh-bạo và hăng-hái như bây giờ.
Bụng no với 40 xu trong túi: đời còn tươi trước mắt tôi. Tôi định bỏ lối bờ biển và theo hành-trình tôi đã hoạch-định lúc đầu nghĩa là đi qua quận Can-va-đô.
Tuy-nhiên có một trở ngại hiện ra. Tôi đang ở đâu bây giờ? Tôi nhớ rõ hình thế quận Măng – là quận tôi sắp đi qua – như một bán-đảo đâm ra biển. Nếu tôi không muốn vòng theo bờ biển thì tôi phải đi về phía đông. Nhưng nẻo đường tôi sắp phải đi đây sẽ đưa tôi đến Ích-Nhi (1) hay đến Via (2). Nếu đến Ích-Nhi thì tôi sẽ lại gặp bờ biển mà đến Via thì tôi sẽ ở trong đất liền, khó tìm kế sinh-sống khi đã tiêu hết 40 xu rồi.
Vấn-đề rất quan-trọng.
Nghĩ-ngợi hồi lâu, tôi quyết đi cầu may. Gặp con đường thứ nhất là tôi rẽ luôn vào, quay lưng ra biển. Hy-vọng của tôi đặt cả vào các cột cây-số để tìm đường đi. Chẳng bao lâu, tôi thấy một cột đề “Quế-Vinh 3 km” (3). Đi 3 cây nữa đến Kiến-Thành, tôi sẽ tìm được lối đi. Vào đến tỉnh này, tôi thấy treo ở một góc tường tấm biển nền xanh kẻ chữ trắng:“ Quế-Vinh đi Ga-li-niên (4) 5 km.”
Tôi không nhớ đã trông thấy tên hai tỉnh đó trên bản đồ nên đâm ra bối-rối. Tôi hiện ở chỗ nào đây? Thôi! Lạc mất rồi!
Tôi xuyên qua thị-xã, khi đã đi khá xa không sợ ai dòm-hành nữa, tôi ngồi nghỉ ở chân đài Thánh-Giá xây bằng đá hoa-cương. Đài này dựng trên đỉnh đồi ở giữa ngã-tư. Đúng đấy, người ta có thể nhìn bao-quát những cảnh bình-nguyên lác-đác rừng cây bao-phủ, thỉnh-thoảng nhô lên một ngọn tháp chuông bằng đá. Phía tây, một giải biển trắng lẫn với da trời.
Tôi đi từ sáng, ánh nắng và khí nóng mỗi lúc một gắt. Tôi tựa mình vào bệ đá trầm-ngâm rồi ngủ lúc nào không biết.
Khi tôi bừng dậy, thấy có hai con mắt chòng chọc nhìn vào mắt tôi. Đồng-thời, có tiếng bảo tôi:
– Ngồi im.
Cố-nhiên là tôi không nghe. Tôi đứng dậy nhìn chung quanh xem có lối nào để thoát thân.
Tiếng nói đầu tiên kia nghe nhẹ-nhàng, bây giờ có giọng gắt:
– Bé, ngồi xuống cho bức cảnh thêm hay. Ngồi như kiểu trước và bé cứ ngồi thế, ta cho 10 xu.
Tôi lại ngồi xuống. Người vừa nói với tôi đó không có vẻ gì là định bắt tôi cả. Đó là một người trẻ tuổi, to-lớn, đầu đội mũ phớt mềm, mình mặc bộ nhung xám, ngồi trên một đống đá, tay giữ miếng cát-tông ở trên đầu gối. Tôi hiểu ngay ông ta đang vẽ hình-dáng tôi hay nói cho đúng là vẽ đài Thánh- Giá và phong-cảnh đồi, vì ông ta chả nói là tôi làm cho bức cảnh thêm hay.
Khi tôi ngồi đúng như kiểu trước rồi, ông ta bảo tôi:
– Em không cần nhắm mắt, ngậm mồm. Chỗ này gọi là gì?
– Tôi không biết.
– Em không phải là người ở đây à? Thế em là thợ tráng thiếc à?
Tôi bật cười lên.
– Em không được cười. Nếu em không phải là thợ tráng thiếc, sao sau lưng em đeo nồi-niêu thế?
Thấy ông này có vẻ tốt, tôi có cảm-tình ngay và không sợ. Tôi nói thật. Tôi đi Hao-Cảng, còn cái soong kia dùng để nấu tôm cá. Tôi khởi-hành đã 8 hôm rồi. Trong túi tôi có 40 xu.
– Em không sợ bị ám-sát trong khi kể với ta trong lưng em có món tiền đó à? Em thật-thà quá. Không lo quân cướp đường à?
Tôi lại cười.
Rồi ông vừa vẽ vừa hỏi chuyện tôi.
Tôi phun hết rằng từ hôm tôi đi, tôi đã sinh-hoạt thế nào.
– Em ơi! Em có thể tự-phụ đã làm một việc kỳ-cục. Khởi đầu, em có dại-dột thật đấy, nhưng cuối cùng em đã khéo thoát nguy. Ta rất yêu những hạng trẻ tháo-vát như em. Em muốn làm bạn đường với ta không? Ta đề-nghị thế này ta cũng đi Hao-cảng, nhưng không gấp lắm. Một tháng nữa đến nơi cũng nên, tùy theo những miền ta bỏ qua. Vậy em có bằng lòng đi với ta không? Em mang hộ cái bao kia cho ta, ta sẽ cho em nơi ăn, chốn ngủ tử-tế.
Hôm sau tôi kể hết chuyện của tôi – như quý độc-giả đã biết – cho ông nghe. Khi tôi kể xong, ông nói:
– Em làm theo ý em và mặc-dầu tuổi em còn nhỏ dại sau khi sống cực-khổ với chú em, có lẽ em được quyền làm thế. Nhưng có một cái quyền mà em không được, là làm đau lòng mẹ em. Trong 8 ngày qua, chú em tất đã báo tin em trốn cho mẹ em biết, em hãy tưỏng-tượng mẹ em đã buồn-rầu, đau khổ đến mực nào! Bây giờ em tìm trong bao của ta những thứ cần dùng để viết thư. Trong khi ta phác họa cái cối xay kia, em ngồi viết cho mẹ em. Em kể lại tất cả những điều mà em vừa nói với ta: em đã ở nhà chú trốn đi như thế nào? Tại sao trốn? Và tất cả những việc em làm từ ngày đi đến giờ. Em cũng viết rằng một sự ngẫu-nhiên – phải em có thể viết là một sự may-mắn – đã cho em gặp một họa-sĩ lên là Lư-Sinh, người họa-sĩ này sẽ đưa em đến Hao-Cảng và giới-thiệu em vói một người bạn làm chủ tàu ở đó, để em được xuống tàu và vượt một hải-trình tốt đẹp như lòng em muốn. Khi em viết xong bức thư, em sẽ thấy lòng em nhẹ-nhàng.
Ông Lư-Sinh nói rất đúng. Tôi đã viết một bức thư đẫm lệ, nhưng viết xong, quả-nhiên tôi thấy tâm-hồn được yên-tĩnh thư-thái.
Những ngày tôi đi với họa-sĩ thực là những ngày vui tươi nhất trong cuộc lữ-hành của tôi.
Chúng tôi cứ đi thẳng trước mặt chúng tôi, không có một lộ-trình nhất định, có khi chúng tôi ở hẳn một ngày trước một cây cổ-thụ hay một phong-cảnh mà họa-sĩ ưa vẽ. Có khi đi cả một ngày không nghỉ. Tôi đeo bao trên lưng – cái bao có dây khóa phía sau như của quân-nhân, không nặng lắm, thế mà thỉnh-thoảng họa-sĩ lại lấy lại, mang đỡ cho tôi khỏi mệt. Mỗi sáng, tôi có việc đi sắm đồ ăn: bánh mì trứng luộc, thịt muối và xách bình đi mua rượu. Ban ngày chúng tôi ăn ở vệ đường dưới bóng cây, đến tối chúng tôi vào hàng cơm. Không phải là những món tôm cua, mà những đĩa súp nóng ngon. Không phải là cái ổ cỏ mà là những tấm trải giường trắng tinh và êm-ấm.
Và ông Lư-Sinh rất ngạc-nhiên thấy tôi không phải là một đứa quê mùa. Những điều ông Biên-Gia truyền-thụ cho tôi thường làm cho họa-sĩ phải sửng-sốt: tôi biết nhiều hơn họa-sĩ về cây-cối, về tên các sâu-bọ, các thứ cỏ, về thế-giới cũa các loài nhỏ-mọn mà nhiều người không biết.
Cứ thẳng đường cái mà đi, một ngày kia chúng tôi đến tổng Mạc-Tân. Lối này khộng phải là lối đi Hao-Cảng, nhưng tôi cũng không quan tâm. Tôi tin rằng thế nào rồi chúng tôi cũng đến nơi và tôi cũng được xuống tàu đi du-lịch xứ Ba-Tây, nên dù lợi thì-giờ hay mất thì-giờ, tôi không cần lắm.
Mạc-Tân là một địa-phương mỹ-lệ nhất miền Nóc-Măng-Đi. Vùng này có những rừng thông bát-ngát, những khối đá sập lở, những đồi dốc, những hẻm núi thâm-u. Chỗ nào cũng có những dòng nước chảy dưới cây rừng, bọt tung trắng xóa hay đổ xuống thành thác, nước dội ầm-ầm. Thực là một vùng cây-cỏ xanh-tươi, khí-hậu mát-mẻ rất thích-hợp cho những họa-sĩ, cứ mỗi bước lại hiện ra một đề-tài để nghiên-cứu hay một bức-họa hoàn-mỹ lập thành.
Chúng tôi không ở yên một chỗ nào cả. Chúng tôi lấy Mạc-Tân làm tâm-điểm và lần lượt đi quanh vùng. Trong khi ông Lư-Sinh bận vẽ, tôi đi câu cá hoặc vợt tôm dùng bữa ăn chiều.
Tôi sung-sướng quá! Nhưng than ôi! Những ngày vui đó chẳng được bền lâu.
Một buổi sáng, trong khi chúng tôi mỗi người một việc đang làm, thấy một viên Cảnh-sát đi thẳng đến chúng tôi. Trông ra, ông ta có một bộ-điệu kỳ-cục tức-cười, chắc hẳn không phải vì vẻ chững chạc hay vì dáng đường-hoàng mà ông ta được tuyển-dụng.
Bất cứ cái gì ở người hay ở sự vật, bày ra một cảnh khôi-hài là họa-sĩ nhận thấy ngay, vì thế ông bảo tôi nhìn xem viên cảnh-sát. Đồng-thời ở lề bức tranh đang vẽ, ông phác sơ vài nét thành cái đầu viên Cảnh-binh.
Viên Cảnh-binh lại gần thấy chúng tôi nhìn ông ta, ông ta nắn lại mũ, sửa lại mớ tóc hung, kéo cái chuôi kiếm về phía trước, bước khệnh-khạng và lắc-lư như con vịt.
Ngọn bút họa-sĩ vờn theo cử-chỉ của viên Cảnh-binh thành một bức hoạt-kê rất ngộ. Hình vẽ này chẳng làm cho viên Cảnh-binh hài lòng. Đưa mắt nhìn qua rồi, ông ta bảo họa-sĩ:
– Ông đã ngắm kỹ tôi rồi, bây giờ tôi muốn xem tướng-mạo ông.
Ông Lư-Sinh bỏ bức vẽ vào trong cặp và nói:
– Ông Cảnh-binh ơi, xin ông đừng bận tâm, tôi đã nhìn ông, bây giờ chắc ông đã nhìn tôi rồi. Thế là hòa cả!
– Không nói lôi thôi. Ông phải biết tôi đòi giấy thông-hành của ông. Đó là bổn phận của tôi và nhiệm-vụ của tôi phải hỏi ông vì ông đã lang-thang trên đường cái.
Không trả lời Cảnh-binh, ông Lư-Sinh quay lại bảo tôi:
– Do-Mạnh, em tìm trong bao, tờ thông-hành của ta, đấy, ở ngăn đựng thuốc lá ấy và đem trình quý-ông đây.
Rồi ông nói với viên Cảnh-binh:
– Thưa ông, vì kính-trọng công-vụ của ông, tôi cũng muốn bảo đặt cái giấy đó vào cái dĩa bằng bạc để dâng ông, nhưng trong lúc lữ-hành, chắc ông đã rõ, nguời ta không có những thứ người ta muốn, vì thế mà em Do-Mạnh đây không có găng tay, nhưng chính ông, ông cũng không có găng tay, lại một lần nữa chúng ta hòa!
Viên Cảnh-binh lúc đầu nghe lời trình-bày rất lễ-độ tỏ vẻ sung-sướng, sau cùng ông ta hiểu đó là một sự báng-nhạo, nên ông ta đỏ mặt, cắn môi, ấn mũ vào đầu rồi giả-bộ thông-thạo đọc:
– “ Chúng tôi, vân vân … yêu-cầu các nhà chức-trách dân-sự và quân-sự cho thông-hành và đi lại tự-do: ông …. hừm hừm, ông... Lư, Lư…. hừm hừm, si …. sinh, nghề-nghiệp ồ ồ…
Đến đây ông ta bối-rối, dừng lại khá lâu, rồi chợt ông mạnh-bạo đọc: “nghề-nghiệp: họ… họa-sĩ… ”
Rồi ông ta lẩm-nhẩm vài tiếng nữa, xong trao tờ thông-hành cho tôi rồi nói một cách đường-bệ:
– Được rồi.
Ông ta sắp quay đi, có lẽ để chấm dứt nhanh-chóng câu chuyện đã làm ông ta khó chịu. Ông Lư-Sinh cảm-hứng không phải chỗ, giữ viên Cảnh-binh lại:
– Thưa ông, xin lỗi ông, ông đã bỏ qua không xem cái chính-yếu trong tờ thông-hành của tôi vì cái đó mà tôi đã phải trả 2 phật-lăng không ta-thán gì.
– Cái gì?.
– Cái ông phải giúp-đỡ và che-chở cho tôi.
– Thì sao?
– Thì xin ông làm ơn cho tôi biết cứ vào nghề-nghiệp gì mà tôi được lang-thang trên đường cái?
– Vào nghề-nghiệp đã nói trong giấy thông-hành.
– Nghĩa là nghề-nghiệp… họa-sĩ
– Chính thế vì là nghề-nghiệp của ông.
– Vậy xin ông làm ơn cho tôi biết những điều mà tôi được phép làm và những điều tôi không được làm?
– Không phải bổn-phận của tôi phải dạy ông hành-nghề.
– Nghề của tôi, không. Nhưng nghề Họa-sĩ, xin ông hiểu cho? Đối với Cảnh-sát-cục, tôi là họa-sĩ, có phải thế không? Họa-sĩ là nghề của tôi?
– Ờ, ờ… phải.
– Như vậy cách đây 2 dặm chẳng hạn, tôi lại gặp một bạn đồng-nghiệp của ông hỏi giấy thông-hành, đúng lúc tôi đang làm việc gì không ăn-nhập với cái nghề họa-sĩ, ông ấy sẽ lại bắt tôi?
– Cố-nhiên.
– Vì thế tôi cần phải biết những gì tôi được phép làm và những gì tôi không được làm.
Những giọt mồ-hôi to-tướng chảy trên mặt đỏ của viên Cảnh-binh khốn-nạn. Ông ta thấy rõ người ta chế-riễu ông ta. Ông ta bắt đầu cảm thấy mình đã nói hớ câu gì. Cuối cùng ông ta nổi giận:
– Có phải ông định quấy-rầy viên-chức chính-phủ không, ông, với bộ râu dài của ông? Thôi, không phải nói lôi-thôi nữa. Vì nghề-nghiệp của ông không phải nghề-nghỉệp của ông, như vậy không được rõ-rệt. Vì không được rõ-rệt, tôi bắt ông. Ông hãy theo tôi đến ông Xã-trưởng. Ông sẽ giải-thích với ông Xã-trưởng. Còn thằng bé kia – ông chỉ vào tôi – tên cũng không ghi vào giấy thông-hành, người ta sẽ điều-tra xem nó là ai. Tuân lệnh.
– Vì tôi là họa-sĩ mà ông bắt?
– Tôi bắt ông, vì tôi bắt ông, tôi phải trình-bày lý-do với ông kia à? Đi mau! Phải tuân lệnh! Nếu không, tôi sẽ áp-giải ông.
– Vậy thì đi. Nếu ông Xã-trưởng cũng thuộc loại ông, thì tôi mất hết cả ngay. Em Do-Mạnh, lại đây vác bao đi. Ông Cảnh-binh ơi!
– Cái gì?
– Xin ông trói tay tôi lại và tuốt kiếm ra. Vì tôi muốn được bắt vào “hạng nhất ”.
Tôi không đồng-ý về những khôi-hài đó. Tôi nghĩ rằng ông Lư-Sinh nên yên-lặng thì hơn.
– “Còn thằng bé kia, người ta sẽ điều-tra xem nó là ai? ”
Lời nói của viên Cảnh-binh hãy còn nhắc-nhở bên tai tôi.
Người ta sẽ điều-tra ra sự-thực và giải tôi về với chú tôi.
Tôi lo quá. Còn ông Lư-Sinh vừa đi vừa hát:
“ Kìa kẻ tù-phạm,
Trông thảm-thương thay!
Người ta đương giải
Đến đoạn đầu đài!”
Viên Cảnh-binh đi sau lưng ông Lư-Sinh. Tôi theo sau cùng, cách viên Cảnh-binh độ bốn năm bước. Từ chỗ chúng tôi đến làng phải đi chừng nửa dậm và phải qua một cánh rừng. Sự ngẫu-nhiên xui-khiến cho con đường lúc đó vắng tanh. Chúng tôi vào rừng độ trăm mét. Tôi vừa đi vừa nghĩ. Thà lưu-lạc khổ-sở còn hơn là bị bắt về tỉnh Đôn. Tôi liền quyết-định. Bao đồ chưa khoác lên vai, tôi còn xách ở tay. Tôi đi chầm-chậm lại. Rồi vứt bao xuống đất, tôi nhảy phắt qua cái rãnh bên đường
Nghe tiếng bao rơi, viên Cảnh-binh quay lại thì tôi đã ở trong rừng.
Viên Cảnh-binh kêu:
– Bắt lấy nó!
Ông Lư-Sinh nói to:
– Đừng sợ: Chúng ta cười đi nào!
Tôi chỉ đáp:
– Chú ơi! Vĩnh biệt!
Tôi băng mình trong đám cây rậm. Người ta đuổi tôi hay không đuổi tôi? Tôi cắm cổ không dám quay đầu lại, cứ lao mình đi mặc cho cành cây đánh vào mặt, mặc cho gai đâm. Tôi chạy mờ cả mắt không trông thấy chỗ trống ở trước mặt tôi. Chợt tôi thấy chân tôi không chấm đất rồi ngã lăn xuống một cái hố. Tôi nằm xõng-xượt, không què gẫy nhưng bị nằm dưới lớp cỏ và gai dầy chi-chít đến nỗi không trông thấy trời đâu cả. Cái bản-năng tự-vệ của những con thú rừng bị chó săn đuổi tự-nhiên nẩy ra trong người tôi và xui khiến tôi nằm rạp xuống đáy hố, thu hình lại rất nhỏ, nín thở, và nghe ngóng. Tôi chỉ thấy tiếng chim sợ-hãi bay loạn, gọi nhau.
Chung quanh tôi, cát ở miệng hố bị tôi làm lở, chảy từ-từ xuống như một cái “đồng-hồ cát” khổng-lồ.
Khi tôi đã yên-trí là không có ai đuổi tôi nữa, tôi bèn nghĩ về tình-trạng của tôi. Tôi lý luận thế này: ông Lư-Sinh sẽ bị giữ lại ở trụ-sở ông Xã-trưởng, viên Cảnh-binh sẽ loan-báo cho các bạn đồng-nghiệp. Lập tức bọn họ sẽ đi lùng bắt tôi. Muốn thoát-nạn, tôi phải đi ngay để cách họ cho xa. Tôi không tính rằng tại trụ-sở Xã-trưởng, việc đó sẽ có thể được dàn xếp ổn-thoả. Tôi chỉ sợ một nỗi là bị Cảnh-binh bắt điệu về tỉnh Đôn, nên dù có phải xông vào lửa tôi cũng không từ. Tuy-nhiên lòng tôi cứ băn-khoăn vì đã bỏ ông Lư-Sinh. Nhưng phải chăng tính đùa-cợt của ông đã xui nên cảnh ly-tán hốt-nhiên này?
Chú thích:
(1) Isigny.
(2) Vire.
(3) Quetteville.
(4) Galianière.