Chương XII TRỐN VỀ BA-LÊ
HÔM đó là mồng 3 tháng 11, tuy ở giữa mùa thu (dương-lịch ) nhưng tiết trời còn đẹp. Nếu chúng tôi sửa soạn gấp để đi thì có thể hy-vọng về tới Ba-Lê trước những ngày mưa lạnh.
Bàn đi tính lại mãi, kế hoạch của chúng tôi được ấn định như sau: vì tôi không bị canh chừng, tôi sẽ rút lui trước tiên, mang theo hành-lý gồm có gói lương khô tức là vỏ bánh, một cái chăn cũ, một cái chai không, một đôi giày để thay đổi, một bọc quần-áo của Diệp-Lan đã giấu trong rương của tôi, một cái soong bằng sắt tây nghĩa là đủ thứ đồ-đạc của một kẻ dọn nhà. Còn Diệp-Lan đợi khi nào vợ chồng Bô-La ngủ say sẽ lẻn đi và đến một gốc cây trong phố mà chúng tôi đã hẹn nhau trước.
Tôi đến đó vào khoảng 11 giờ. Mãi nửa đêm Diệp-Lan mới tới nơi. Đợi mãi, tôi bắt đầu thất vọng và lo nàng bị bắt gặp. Chợt tôi nghe thấy tiếng bưóc nhẹ trên đường. Bóng người thấp-thoáng dưới ánh đèn xa: tôi nhận ra chiếc áo choàng đỏ của nàng vẫn thường khoác để ra ngoài.
Nàng vừa thở vừa nói:
– Tôi tưởng đi không thoát. Bô-La không ngủ cứ rên như bò rống. Rồi tôi cũng đến chuồng từ-biệt con Tuấn-Sư nữa. Tội nghiệp cho nó! Nó sẽ buồn rầu đến thế nào? Anh đã mang tất cả đồ-dùng đấy chứ?
Không phải là lúc để chúng tôi kiểm-soát đồ-đạc nên tôi bảo nàng phải ra khỏi ngay thị-xã đi về miền quê, nếu không tất bị người ta bắt gặp.
Nàng nói:
– Được rồi! Đồng-ý. Nhưng trước hết, anh đưa tay đây.
– Để làm gì?
– Để đặt vào bàn tay tôi và cả hai chúng ta cùng thề rằng “sống chết có nhau”. Anh có bằng lòng không?
– Vui lòng.
– Vậy anh đưa tay đây và nói như tôi: chúng ta giúp đỡ nhau suốt đời, sống chết có nhau!
– Sống chết có nhau!
Nàng bắt tay tôi và lòng tôi cảm-xúc bởi giọng nói run run trong lúc nàng thề.
Phố sá vắng tanh, không-khí lặng ngắt như tờ. Thỉnh thoảng nghe thấy tiếng gió thổi vào những chiếc đèn lồng đưa qua đưa lại làm cho những bóng đen di-động trên mặt hè.
Nàng bước ra trước và nói:
– Bây giờ, chúng ta bắt đầu đi.
Không mấy lúc chúng tôi đã ra khỏi thành-phố đến nơi đồng ruộng. Tôi đi sau nàng, tôi ngắm kỹ thấy nàng khuỳnh-khuỳnh cánh tay trái trong lớp áo choàng như đang cắp một vật gì. Đồ-đạc tôi mang cả rồi, vậy cái đó là vật gì? Tôi liền hỏi nàng.
Nàng mở áo choàng và đáp:
– Cây hoa mộc của tôi.
Tôi nhìn thấy một cái chậu con trùm giấy đỏ! Nàng vẫn có chậu hoa này để trên ngăn cửa sổ xe, bị Bô-La rầy la luôn mà nàng không chịu bỏ.
Tôi khó chịu về cái gánh nặng mới đó, bảo nàng:
– Chúng ta lại còn phải đèo thêm cái đó nữa kia à?
– Nếu bỏ lại, nó sẽ chết khô. Đã một con Tuấn-Sư rồi! Khốn-nạn cho nó! Anh không biết lúc nãy tôi định dắt cả nó đi. Vì nó cứ nhìn tôi, chắc nó biết có chuyện gì.
Dắt cả con sư-tử đi, có lẽ dắt bằng dây như dắt con chó chăng? Thực là một ý-kiến kỳ-cục. Tôi không thể không bật cười.
Diệp-Lan đòi sẻ ít đồ-dạc cho nàng mang, tôi cũng chiều ý.
Đêm mát mà không lạnh. Muôn ngàn điểm sao lấp-lánh trên nền trời xám. Trong đồng mọi vật đều ngủ cả. Cây cối cứng-nhắc và im-lìm. Không một tiếng gió đưa, một tiếng chim chóc hay giun-dế làm sống động những đêm hè. Thỉnh-thoảng, khi chúng tôi qua một xóm nhỏ, vài con chó sủa theo chúng tôi và làm tỉnh-thức những con khác. Tức thì những tiếng sủa cứ liên-tiếp nhau kéo dài mãi vào trong khoảng tối-tăm thăm-thẳm như những người lính gác báo hiệu và trả lời nhau.
Sợ Bô-La truy-tầm, chúng tôi phải đi suốt đêm. Tôi lo Diệp-Lan không đi được lâu nhưng mải đến sáng nàng mới thấy mệt. Chúng tôi đã đi qua nhiều làng không gặp một ai. Những cột cây-số cho chúng tôi biết là đã cách xa Bơ-Loa được năm dặm.
Một ánh vàng tỏa lên trời phía trước chúng tôi. Tiếng gà gáy từ chuồng nọ đến chuồng kia. Trong nhà, người ta đã nhìn thấy ánh-sáng lọt qua cửa sổ.
Chúng tôi gặp những người làm ruộng bước thong-thả ra đồng.
Diệp-Lan nói:
– Bây giờ chúng ta nghỉ chân đã. Tôi hết sợ rồi!
– Cô đã sợ lắm hay sao?
– Sợ, từ lúc ra khỏi thành-phố Bơ-Loa.
– Sợ gì?
– Sợ cái vắng lặng ban đêm. Tôi không thích cái đó. Rồi có những bóng đen khi ẩn, khi hiện làm cho tôi phải rảo bước và lắm lúc hết hồn.
Chúng tôi đem bánh ra ăn. Ăn xong thì trời sáng, cái ánh-sáng xam-xám và ẩm thấp. Chúng tôi trông thấy một cánh đồng bao-la chưa trồng cấy, đây đó có những mái tranh ẩn trong khóm cây cao, tỏa lên những cuộn khói vàng. Đất mới cày xong, chưa ruộng nào có ngọn lúa xanh. Một đàn quạ khoang bay lượn trên trời rồi chia ra từng toàn nhỏ sà xuống chung quanh những thợ cày hay bừa đang làm việc rải-rác trong cánh đồng.
Chúng tôi lại lên đường. Đi được hai dặm nữa, chúng tôi bắt đầu thấy nặng chân, Diệp-Lan mệt quá, đặt mình xuống, ngủ luôn một giấc năm tiếng đồng hồ không dậy.
Trong cuộc đi này, tôi lo nhất là vấn-đề ngủ đêm. Mặc dầu tôi đã quen nằm sương gội gió ngoài trời, nghĩ đến cái lạnh của ngày quý-thu, tôi chẳng yên lòng. Vì thế, nghỉ xong trước khi đi, chúng tôi bàn nhau rằng không kể quãng đường dài ngắn, hễ gặp chỗ nào khả-dĩ trú được là nghỉ. Gần 4 giờ chiều, chúng tôi thấy ở chân tường một khu vườn có đống lá khô do gió cuốn lại. Còn lâu mới tối, tôi có nhiều thì-giờ để sửa soạn chỗ ngủ.
Tôi vào rừng nhặt thêm mấy ôm lá khô nữa thêm vào chỗ lá cũ ở chân tường đá. Tôi xếp gọn và nén xuống cho đều. Xong tôi lấy những cành cây uốn cong lại, một đầu đâm vào khe tường một đầu cắm xuống đất, khum khum như cái sườn lều rồi tôi phủ chăn lên trên. Thế là chúng tôi có một cái giường và một cái mái để trú ẩn.
Diệp-Lan tỏ ra thích thú cái túp lều mà tôi vừa xây dựng đó. Một mái lều tranh trong khu rừng vắng, khác nào như trong truyện “Thằng Bé Tí-hon”. A! Nếu nàng có sẵn bơ, nàng đã làm được món súp ngon lành.
Sau bữa cơm chiều dùng toàn vỏ bánh khô cũng như bữa sáng, đêm bắt đầu xuống. Làn ánh vàng còn lại ở chân trời tây tắt hẳn. Những con chim đậu ở trên cành thông rậm-rạp thôi hót. Bóng tối tràn ngập khu rừng, lòng tôi nao-núng.
Diệp-Lan hỏi tôi:
– Anh đã buồn ngủ chưa?
– Chưa.
– Vậy anh để cho tôi ngủ trước, rồi anh sẽ ngủ. Như vậy tôi bớt sợ.
Ở trong lều, tôi thấy không trống-trải lắm. Tuy-nhiên, do những lỗ chăn thủng, tôi nhìn thấy những ngôi sao lấp lánh trên trời và mặc dầu lúc đó vạn-vật đều ngủ cả, tôi vẫn nghe thấy như có một thứ tiếng khó mà diễn tả được, nó văng-vẳng bên tai như bảo chúng tôi rằng nơi đây chỉ là đất khách. Diệp-Lan nằm trằn trọc mãi nhưng rồi cái mệt cũng làm cho nàng thiếp đi. Tôi hết phận sự coi nàng, nên cũng ngủ theo.
Cái lạnh buổi sớm đã đánh thức chúng tôi dậy.
Diệp-Lan trông thấy tôi hơi run, nàng hỏi:
– Anh có rét không? Tôi lạnh quá!
Chúng tôi không còn cách gì để chống lại cái rét, đành lại ngủ giấc nữa để đợi trời sáng vậy.
Nhưng tôi không sao ngủ được. Tôi bị cóng cả tay, và run lập-cập. Chợt tôi nghe thấy tiếng lạo-sạo ở đâu đây. Như có hàng ngàn vạn sâu bọ đang bò trên lá cây.
Diệp-Lan hỏi nhỏ tôi:
– Anh có nghe thấy gì không?
Mặc dầu tôi muốn cho nàng vững dạ, tôi không thể trả lời là không nghe thấy gì được. Hơn nữa chính tôi cũng đã thấy nao-núng rồi. Nhưng tôi cố làm ra mặt bạo vì tôi có phận sự che-chở cho nàng, giá chỉ có một mình tôi, tất tôi đã chạy sớm rồi.
Trong hơn nửa tiếng đồng-hồ, nàng và tôi không dám động đậy. Tôi nghe thấy hai hàm răng nàng đang đập vào nhau cầm cập. Mà bên ngoài vẫn có tiếng răng-rắc không ngừng.
Vì tiếng kêu đó liên tiếp và đều-đều một điệu nên tôi đỡ sợ hơn trước. Tôi nghĩ nếu là người hay vật đi thì tiếng kêu đó phải thay đổi, tôi thử khám-phá xem sao.
Tôi kéo chăn ra: dưới ánh trăng, mọi vật đều yên vị cả. Thấy thế, tôi nhỏm dậy, đưa đầu ra ngoài lều để nhìn xa. Lá cây đang kêu răng-rắc, một cơn giá lạnh đã làm nó rắn-chắc lại và nứt-nẻ ra.
Biết nguyên-do tiếng kêu rồi, chúng tôi hết sợ nhưng chúng tôi lại thấy lạnh hơn. Bỗng Diệp-Lan choàng dậy.
Tôi hỏi:
– Gì thế?
– Hoa mộc của tôi chết cóng mất!
Nàng bèn lấy chậu cây ủ trong áo choàng.
Không biết mấy giờ rồi? Trời sáng hay hãy còn đêm? Trăng đã xế tà, không biết bao giờ mới lặn.
Một lát sau rét quá, chúng tôi ngồi sát vào nhau mà ai nấy đều run cầm-cập nói không ra lời. Chúng tôi không sao ngồi mãi ở đấy được nữa, đi cho ấm người và đỡ rét.
Chúng tôi gỡ chăn và đeo đồ-đạc lên lưng. Nhưng một việc khó-khăn hiện ra: Diệp-Lan ôm khư-khư chậu hoa ở ngực đi lâu có thể bại cánh tay. Tôi bàn với nàng nên bỏ chậu cây lại nhưng nàng giận và cho tôi không có từ-tâm, tôi không dám nói nữa.
Chúng tôi lên đường trong đêm tối giữa cơn giá lạnh. Thực là mạo-hiểm. Nhưng tôi không dám bảo cho nàng biết. Nàng đi hăng-hái và thỉnh thoảng lại nói một vài câu vui cho quên vất-vả.
Một giờ sau, chúng tôi nghe thấy tiếng gà gáy. Ai nấy đều tươi tỉnh vì biết trời sắp sáng. Chúng tôi đã bớt rét.
Chúng tôi cùng nhau nhắc lại chuyện hoảng sợ đêm qua và hơi cãi nhau. Sau cùng, đồng ý rằng tôi bạo hơn nàng, nhưng nàng không xuẩn như tôi.
Sợ Bô-La sẽ theo đường thẳng đuổi chúng tôi, nên chúng tôi rẽ sang đường đi Sác-Tơ để về Ba-Lê. Tôi xem bản-đồ lối này cũng không xa hơn lối đi Óc-Lê-Ăng mấy.
Chiều hôm đó, chúng tôi đi qua thành phố Sa-tô-Đông, ban ngày nóng thế mà chiều đến lại lạnh. Chúng tôi quyết sẽ tìm một hàng cơm để ngủ trọ, tuy tốn một số tiền lớn, còn hơn là để chết rét.
Diệp-Lan nói:
– Khi nào hết tiền, tôi sẽ vào hát trong các làng để kiếm.
Nàng nói cương-quyết như người lớn tin chắc vào công việc mình làm, tôi tin-tưởng và mừng trong lòng.
Nhưng hát để kiếm tiền không phải là việc dễ. Rồi đây chúng tôi sẽ biết.
Cách Sa-tô-Đông chừng 2 dặm, chúng tôi tìm vào một nhà trọ, người ta đòi 2 phật-lăng một đêm, mà chúng tôi còn phải khai tên tuổi và ở đâu đến. Tôi bịa luôn rằng chúng tôi đi Sắc-Tơ để tìm trước chỗ diễn, mai mốt gánh xiếc sẽ tới sau.
Nói dối, Diệp-Lan và tôi đều không ưa, nhưng đó là một trường-hợp cần-thiết, nó cũng làm cho chúng tôi giảm nhân-cách một phần nào.
Từ Sa-tô-Đông đến Sắc-Tơ đường xuyên qua những cánh đồng trơ gốc rạ. Xa xa thấy bóng một vài thôn-xã, hai bên đường tuyệt nhiên không có nhà cửa.
Chúng tôi đi mãi mới gặp một làng. Làng này trù-mật lắm gọi là làng Bôn-Văn. Tôi tuởng bở to, nào ngờ chỉ thu được có 3 xu, đó là tôi không kể những món quà do một ông đang cạo râu cầm cả một ca nước hắt vào đầu chúng tôi và một người hàng thịt thả chó đuổi chúng tôi và cắn rách gấu giuýp của Diệp-Lan. Vì thế nghề hát rong của chúng tôi không thể tiếp diễn được.
Diệp-Lan bảo tôi:
– Nếu anh có một con chó sói và tôi có một ống sáo thì chúng ta dễ kiếm tiền. Thực buồn cười cho người đời chỉ thích cho những kẻ nào có một vật gì thôi.
Diệp-Lan có một nết kiên-nhẫn lạ-lùng nàng không hề tức giận khi gặp những sự bất-trắc xẩy ra.
May sao tối hôm đó chúng tôi không phải mất tiền trọ. Bà chủ trại cho chúng tôi ngủ nhờ trong chuồng cừu, hơi cừu sưởi ấm chúng tôi thành ra đêm đó là một đêm êm-đềm nhất trong cuộc lữ-hành của chúng tôi. Sáng hôm sau khi chúng tôi sắp đi thì bà chủ trại cũng lên xe ngựa để đi chợ tỉnh Sác-Tơ. Thấy Diệp-Lan có vẻ yếu-đuối, bà ta thương tình gọi nàng lên xe nhưng nàng ái-ngại nhìn tôi và từ-chối. Bà chủ trại hiểu ngay rằng nàng không muốn được sung-sướng lấy một mình, nên cho cả hai chúng tôi lên xe.
Chúng tôi cứ như thế, khi ngủ trong trại, lúc ngủ trong lò gạch, khi vào nhà trọ, ngày nào cũng đi đến lúc mỏi chân thì nghỉ.
Một buổi chiều kia, chúng tôi đến một xóm nọ chỉ còn cách Ba-Lê chừng ba dặm đường.
Thực là vừa vặn. Trong túi chúng tôi chỉ con mười một xu. Giầy của Diệp-Lan đã mòn rách, chân nàng đã sưng lên, mỗi khi bắt đầu đi thì lại đau nhức vô cùng. Chúng tôi mỏi mệt quá mỗi khi cất bàn chân lên thấy nặng-nề như đế giầy đeo sắt.
Tuy vậy, Diệp-Lan không hề phàn-nàn, sáng nào nàng cũng chuẩn bị trước tiên để đi.
Mười một xu trong túi, chúng tôi không đủ để ngủ trọ, may sao khi đến Xã-Lai chúng tôi gặp một người thợ đẽo đá đi cùng đường và cho chúng tôi ngủ trong chuồng ngựa.
Diệp-Lan nói:
– Sáng mai ta phải đi sớm, vì ngày mai chính là sinh-nhật của má tôi, tôi muốn về cho kịp để đem chậu hoa mộc này mừng má tôi.
Ôi chậu hoa mộc trông thật tang-thương, cành lá xác-xơ, cánh hoa ủ dột.
Tờ-mờ sáng, người chủ vào dắt ngựa thì chúng tôi cũng lên đường. Từ ngày chúng tôi khởi-hành cho đến bây giờ, đêm tuy lạnh, nhưng ngày tạnh ráo, thực là may mắn cho chúng tôi.
Nhưng khi ở chuồng ngựa bước ra tôi thấy hình như rét nhiều. Trên trời u-ám, không có một ngôi sao. Về phương đông đáng lẽ có những ánh hồng hiện ra như mọi hôm, chúng tôi chỉ trông thấy một đám mây xam-xám nặng-nề, lại thêm ngọn gió bắc dứt những lá khô và cuốn đi vèo vèo. Thỉnh thoảng những trận lá khô lại đổ đến chắn trước mặt chúng tôi như ngăn đường không cho chúng tôi đi. Diệp-Lan phải khó-khăn mới giữ được cái áo choàng để che kín cho chậu cây.
Ngày đã bắt đầu, nhưng ánh sáng nhợt-nhạt âm-u.
Diệp-Lan lúc nào cũng tìm được câu an-ủi:
– Hôm nay mặt trời đình công, càng tốt, nó không vạch áo rách của chúng ta cho mọi người xem.
Tôi đáp:
– Cô cứ yên tâm. Trước khi ta đến Ba-Lê, trời sẽ “giặt” giúp quần-áo cho chúng ta.
Tôi tưởng thế nào trời cũng mưa. Nhưng lại là một trận tuyết. Trước hết, những hạt tuyết rơi phơi-phới như những con bướm nhỏ bay trong gió. Rồi những con bướm to dần và xuống thành đàn đông đặc. Gió bắc dồn những con bướm đó vào mặt chúng tôi làm chúng tôi tối tăm mặt mũi. Mưa tuyết mỗi lúc một mạnh.
Đi được một dặm, chúng tôi lại phải qua một khu rừng, trông trước trông sau, không có nhà cửa gì cả, chúng tôi đành phải tìm chỗ trú, không thể đi cố được nữa.
Chúng tôi chạy đến ngồi nép dưới chân bờ hào bên đường để tránh gió. Chúng tôi yên ổn được một lúc lâu. Bên kìa bờ, gió thổi từng cơn, vét những hạt tuyết trên mặt đất cuốn đi như một đám mây trắng đánh vào sườn bờ và đọng lại thành đống. Lâu dần đống tuyết lên cao và gió đánh tràn qua mặt bờ sang sườn bên này rơi xuống đầu chúng tôi. Chúng tôi lấy chăn ra che, bị gió đánh tung ra. Tuyết vào dầu, vào cổ chúng tôi rồi tan ra, ướt át và lạnh buốt.
Quần-áo chúng tôi lại rách nên tuyết dễ thấm vào. Diệp-Lan nhợt-nhạt và run cầm-cập. Nàng ngồi sát vào tôi cho ấm, nhưng tôi cũng lạnh hơn. Bụi tuyết vào cổ tôi biến thành nước làm ướt hết cả quần-áo và chảy xuống đầy cả hai chiếc giầy, như người vừa ngâm ở dưới nước mới lên.
Suốt trong hai tiếng đồng-hồ, chúng tôi ở trong tình-trạng đó mà gió không ngớt. Tuyết hình như không phải ở trên trời xuống mà bay ngang như trăm ngàn mũi tên trắng, thỉnh-thoảng lại xoáy tròn và quật ngược vào chỗ chúng tôi.
Diệp-Lan cứ ôm khư-khư chậu hoa trong áo choàng, không chịu bỏ ra ngoài. Khi thấy tuyết lọt vào, đọng đầy trên mặt chậu, nàng định trao cho tôi.
Tôi nói:
– Làm thế nào được bây giờ?
– Anh cố giữ hộ cho tôi
Tôi bực quá vì nàng đã khổ vì chậu hoa. Tôi nhún vai lên và trỏ vào những ngón tay nàng tím bầm vì giữ chậu.
Nàng phát giận và nói:
– Sao anh không bảo trước để tôi vứt đi cho sớm?
Chúng tôi ở trong một tình-trạng mà sự xô-xát dễ xẩy ra. Chúng tôi nói nặng với nhau một vài câu – đó là những câu thứ nhất từ ngày đi với nhau – rồi hai người im-lặng cả, hai người đều quay ra nhìn tuyết xuống.
Tôi chợt thấy tay nàng cầm tay tôi, nàng buồn-rầu nói:
– Thế tôi vứt đi nhé? Anh có bằng lòng không?
Tôi nói:
– Cô xem cây đã chết rồi, lá ủ-rũ cả.
Nàng không trả lời tôi nhưng mắt long-lanh lệ.
Nàng nói một mình:
– Má ơi! con sẽ chẳng có gì đem về cho má.
Tôi liền cầm lấy chậu hoa và bảo nàng:
– Chúng ta giữ lại vậy.
Tuyết vẫn xuống, nhưng gió yếu dần rồi lặng hẳn. Lúc đó tuyết xuống từng mớ dày, không mấy lúc thành một lớp thảm trắng tinh ngập tới đầu gối chúng tôi, tưởng chừng như tuyết muốn bọc kín chúng tôi vào trong một tấm thảm giá-lạnh.
Tuyết cứ xuống tới-tấp như thế trong hơn một tiếng đồng-hồ. Cành cây tuyết bám chĩu xuống. Chiếc chăn trùm trên đầu chúng tôi mỗi lúc thấy nặng thêm như có năm bẩy kí-lô đè lên. Chúng tôi đứng ngay như người gỗ, không nói năng gì vì thân-thể và tinh-thần như bị tê-liệt.
Sau cùng, tuyết xuống thưa dần rồi tạnh hẳn. Trời tối đen như mực. Đất trắng rọi sáng lên trời.
Diệp-Lan nói:
– Chúng ta đi đi.
Chúng tôi lên đường, lội bì-bõm trong tuyết sâu đến đùi. Ra khỏi rừng, trên đường tuyệt-nhiên không có một cái xe, trong đồng không có bóng một người làm ruộng. Sinh-vật duy-nhất trong bãi sa-mạc này là những con ác-là. Chúng đậu trên cành cây, khi chúng tôi đi qua, buông những tiếng líu-lo như chế-riễu chúng tôi.
Sau khi đi qua làng kia, chúng tôi lên một cái dốc. Đứng ở đây chúng tôi nhìn thấy một đám mây khói đang lửng-lơ trôi trên một thành-phố bao-la nằm giữa hai trái đòi trăng-trắng. Một âm-thanh ỳ-ầm hỗn-loạn và những tiếng rì-rào như tiếng sóng triều đưa đến tai chúng tôi.
Diệp-Lan nói:
– Đấy là Ba-Lê.
Chúng tôi thấy đỡ hẳn rét và mệt. Xa xa, trên đường cái, nhiều xe cộ đi về phía Ba-Lê.
Nhưng chúng tôi chưa tới Thủ-đô. Khi chúng tôi xuống dốc và đi trong đồng thì cái đích mà chúng tôi đang nhắm bỗng biến mất trước mặt chúng tôi. Cái mỏi, cái mệt ở đâu lại đến. Chúng tôi vấp luôn và không tiến được tí nào. Quần-áo ướt bốc hơi trên mình chúng tôi.
Tuyết trên đường không trắng nữa, càng đi càng thấy đen dần như bùn. Những xe cộ ngược xuôi liên-tiếp nhau thành những dòng dài vô tận. Nhà cửa kế tiếp nhà cửa và trong đồng, đây đó có những bánh xe lớn và đen đang quay trong những đống đá xanh. Mặc dầu phấn- khởi, Diệp-Lan phải đứng lại nghỉ chân, vì mồ-hôi chảy ròng xuống trán và chân đi khập-khiểng. Tôi liền gạt những tuyết trên cái ghế dài ở một cửa nhà kia cho nàng ngồi. Nàng bảo tôi hỏi một người đánh xe sắp qua chỗ chúng tôi:
– Anh hỏi xem đã sắp đến nơi chưa.
Tôi hỏi, người đánh xe lại hỏi chúng tôi:
– Các em đi đâu?
Tôi đáp:
– Về chợ Ba-Lê.
– Thế thì còn phải đi một giờ rưỡi nữa mà đi khỏe mới tới.
Nghe câu đáp, nàng kêu lên:
– Tôi không thể đi được nữa.
Da nàng xanh nhợt, mắt nàng lờ-đờ, ngực thở ì-ạch.
Tôi kéo nàng dậy, nàng cứ muốn ngồi lỳ trên ghế. Tôi liền nói chuyện về mẹ nàng. Nàng lại tỉnh-táo ngay. Bây giờ sắp đến nơi, chúng tôi không cần hành-lý nữa, đem theo cho thêm nặng, tôi bỏ lại cả trên ghế.
Tôi bảo nàng vịn vào tôi. Chúng tôi lai tiếp tục đi.
Nàng nói:
– Rồi anh xem, má tôi sẽ mừng rỡ hôn anh, cho chúng ta ăn bánh, ăn kẹo. Tôi sẽ nằm dài tám ngày không dậy.
Khi về tới cổng thành Ba-Lê, tôi hỏi đường về chợ. Người ta bảo đi thẳng về phía bờ sông. Phố sá ở Ba-Lê sao mà bẩn và trơn hơn đường cái nhiều. Nhiều người đứng lại nhìn chúng tôi đi qua. Trong đám người đông-đúc và đám xe rộn-rã, chúng tôi củ-rủ, lấm-láp, ngơ-ngác, rõ vẻ đôi chim xiêu-bạt. Lòng hy-vọng tiếp sức cho Diệp-Lan, chúng tôi bước nhanh hơn trước.
Đến bờ sông Sen, người ta chỉ cho chúng lôi đến cầu mới, chúng tôi đi thẳng đưởng thì thấy ngay nhà Thờ Thánh An-Tập.
Khi nàng nhìn thấy mặt đồng-hồ thiếp vàng, tôi thấy thân nàng run lên bên cạnh tôi.
Nàng nói:
– Đồng-hồ! Đồng-hồ kia!
Nhưng đó chỉ là một tia mừng chớp nhoáng.
Đồng-hồ có đấy nhưng nhà chẳng thấy đâu. Chúng tôi đi vòng quanh nhà Thờ.
Nàng nói:
– Chúng ta nhầm rồi. Không phải nhà Thờ An-Tập.
Tôi lại hỏi vài người nữa thì chính đấy là nhà Thờ An-Tập.
Mắt nàng đờ ra, lưỡi líu lại không nói được nữa.
Tôi bảo:
– Chúng ta thử tìm những phố đâm thẳng về phía đồng-hồ.
Nàng để tôi kéo đi, không còn cái hăng-hái lúc đầu.
Nàng nhìn lại, không quen một phố nào.
Trước mặt nhà Thờ, có một bãi đất, ở đó nhà cửa bị phá hủy đã lâu và thợ-thuyền đang làm việc.
Nàng khóc òa lên và nói:
– Chính ở đây. Chính chỗ này.
– Chúng ta hỏi xem.
– Hỏi cái gì? Tên phố tôi không biết, tên má tôi, tôi cũng không hay. Tôi chỉ nhớ nhà má tôi, nếu trông thấy tôi nhận được ngay.
Những người lớn hơn chúng tôi, mạnh hơn chúng tôi đứng trước cơ-sự này cùng khó lòng mà chịu-đựng đưọc. Trải bao nhiêu lao-khổ, bao nhiêu thử-thách, ấp-ủ một mối hy-vọng không sờn, bây giờ uổng cả. Chúng tôi tựa lưng vào nhà Thờ, hai người nhìn lẫn nhau, tiều-tụy rách rưới. Chỗ nầy đông người qua lại, họ xô vai thích cánh vào chúng tôi. Vài người đứng lại tò-mò nhìn hai đứa Mọi đói khát, sớn xác ở đầu mới về.
Cảnh của tôi không đến nỗi tuyệt vọng như Diệp-Lan, sức của tôi chưa kiệt quệ, nên tôi tỉnh trí được trước tiên. Tôi cầm cánh tay dắt nàng vào trong quán chợ cho khỏi rét. Ở đây rau cỏ bày ngổn-ngang. Trong góc có mấy cái bao tải vứt đó, tôi bảo nàng ngồi lên. Nàng mặc tôi sai khiến như một người ngây dại. Tôi chẳng biết nói gì, tôi đứng nhìn nàng. Mặt nàng xanh xám hẳn đi, môi không còn một hột máu. Nàng run từ đầu xuống chân.
Tôi hỏi:
– Cô đau?
Nước mắt trào ra trên má nàng. Nàng thổn-thức:
– Má ơi! Má ở dâu?
Chung quanh chúng tôi, kẻ bán người mua rộn-rịp, ồn-ào. Chúng tôi không tránh thoát những con mắt tò-mò. Người ta vây lấy chúng tôi để xem hai đứa trẻ khốn-nạn, xanh-xao, ủ-rũ, một đứa lại nức-nở khóc hoài.
Một bà to lớn hỏi:
– Chúng mày làm gì thế?
– Chúng tôi nghỉ chân.
– Đây không phải là chỗ nghỉ.
Tôi không nói gì, cầm tay Diệp-Lan kéo lên để đi ra: đi đâu? Tôi cũng không biết. Nhưng nàng lảo đảo và rũ xuống. Bà đó thấy vậy thương hại bảo tôi:
– Mày không thấy nó chết lả à? Còn lôi nó thế?
Rồi bà ta hỏi tôi. Tôi kể lại: chúng tôi ở xa đến đây để tìm má Diệp-Lan, nhung không thấy nhà vì phố đó đã bị phá bỏ rồi!
Nghe xong bà ta kêu:
– Câu chuyện kỳ quá!
Rồi gọi bạn bè đến xem.
Nghe hết chuyện, một bà hỏi tôi:
– Thế mày không biết tên bà ta và tên phố à?
Xong quay ra hỏi mọi người:
– Các bà ở đây có ai biết một người đàn bà bán hàng xén ở trong một phố trước cửa nhà Thờ mới bị phá đi không?
Mọi người, đều xôn-xao hỏi nhau. Rốt-cục không ai biết cả. Tám năm qua rồi, làm sao mà tìm được dấu cũ. Phố bị phá bỏ đã lâu rồi. Hàng xén, có hàng trăm nhà, biết ai là mẹ Diệp-Lan? Biết bà ta ở nhà nào? Bây giờ tìm đâu cho ra? Thực là vu-vơ quá.
Nghe người ta bàn-tán vậy, Diệp-Lan lại càng tái lợt và run hơn trước.
Một bà khác nói:
– Con bé này rét cóng! Vào đây ngồi cạnh lồng ấp cho đỡ rét.
Bà ta đưa chúng tôi vào trong cửa hàng của bà. Có hai ba bà nữa theo sau chúng tôi, còn các bà khác giải-tán cả.
Không những bà kia cho chúng tôi sưởi lồng ấp, bà còn cho mỗi chúng tôi một chén cháo nữa. Khi chúng tôi đã tỉnh-táo, bà đưa vào tay cho tôi 20 xu.
Số tiền đó đối với bà là nhiều đấy, nhưng so với tình-trạng chúng tôi thì chẳng là bao. Đi đâu? Làm gì bây giờ? Nếu chỉ có mình tôi thì tôi chỉ có việc đi thẳng đến Hao-Cảng thôi. Nhưng còn Diệp-Lan! Nàng sẽ về đâu? Lòng nàng cũng nghĩ thế, nên khi ra đến đầu đường nàng hỏi:
– Chúng ta đi đâu bây giờ?
Nhà Thờ sừng-sững trước mặt chúng tôi.
Tuyết, lại bắt đầu bay phơi-phới, gió đưa lạnh-ngắt. Phố-xá vắng người qua lại.
Tôi trở sang cửa nhà Thờ và nói:
– Sang bên kia.
Chúng tôi vào nhà Thờ. Bầu không-khí ấm-áp sưởi lòng chúng tôi đỡ đau buốt. Thánh-đường im-lặng như tờ. Vài người còn sót lại đang quỳ trước bàn thờ. Chúng tôi lánh sang bàn thờ bên cạnh. Diệp-Lan lẩm-bẩm:
– Lạy Thượng-Đế! Thượng-Đế!
Tôi nói nhỏ:
– Cô nghe tôi: cô không tìm thấy má cô, bây giờ cô hãy tìm về với má tôi vậy.
– Về Thiên-Cảng?
– Phải. Tất cô không muốn trở lại với Bô-La nữa chứ? Cô đã ngán nghề xiếc lắm rồi. Vậy thì cô nên về ở với má tôi. Cô sẽ làm việc với má tôi. Má tôi sẽ dạy cô đan mũ. Một ngày kia, tôi đi biển trở về, tôi sẽ tìm thấy cả hai người thân yêu. Cô sẽ thấy má tôi yêu cô. Rồi, nếu cô ở với má tôi, tôi sẽ yên tâm hơn, má tôi không buồn nữa. Khi nào má tôi ốm, cô sẽ săn-sóc cho má tôi.
Diệp-Lan là một người chân-thật. Nàng nhận lời tôi bằng một nét mừng hiện trên mặt, thành-thực hơn tất cả những lời nói, tỏ ra nàng đã lo lắng cho số phận bơ-vơ của nàng biết bao nhiêu. Nàng chỉ ngại một nỗi:
– Nhỡ má anh không thuận thì sao?
– Sao lại không?
– Vì tôi là con gái phường xiếc.
– Thì tôi cũng thế.
Nàng buồn rầu đáp:
– Nhưng trường hợp của anh khác nhiều.
Tìm được lối thoát rồi, nhưng cũng chưa ổn, vì còn phải làm thế nào để đến nơi được. Tương-lai đã sắp đặt rồi, còn hiện-tại phải giải-quyết thế nào?
Tôi không rõ đường từ Ba-Lê về Thiên-Cảng phải đi mất bao nhiêu ngày, nhưng tôi biết là xa lắm.
Khi vứt bỏ đồ đạc tại trên ghế làng kia, như chiếc tàu ngộ nạn quăng bớt hàng-hóa đi cho khỏi đắm, tôi không quên giữ lại tấm bản đồ đường sá. Tôi rút trong túi ra, trải trên mặt một chiếc ghế dựa tìm đường đi: muốn ra khỏi Ba-Lê phải đi men bờ sông Sen. Đó là điều cần biết ngay tức khắc, còn đường về Thiên-Cảng, tôi sẽ liệu sau.
Nhưng tôi không khỏi băn-khoăn khi nghĩ đến chân không có giầy, quần-áo không đủ che thân, Diệp-Lan mỗi ngày một yếu thêm mà trời thì giá-lạnh nhất là về ban đêm.
Tôi hỏi Diệp-Lan:
– Cô có thể đi được chứ?
– Tôi không biết, khi đi đến đây, lòng mong nhớ mẹ làm cho tôi hăng-hái. Còn về Thiên-Cảng thì tôi nản lắm vì tôi không biết má anh.
– Chúng mày làm gì ở đây?
Có tiếng quát ở sau lưng chúng tôi, vì tấm bản đồ mở trên mặt ghế không phải là quyển kinh.
– Ra ngay đi!
Chúng tôi phải tuân lời người gác và ra ngay.
Lúc đó tuyết không xuống nữa, nhưng gió thổi nhiều, rét buốt đến tận xương.
Đi chưa đầy 10 phút, Diệp-Lan dừng lại, nàng nói:
– Tôi không đi được nữa, người choáng-váng và khó thở.
Nàng sà xuống ngồi trên một cái dốc đá. Nghỉ mười phút, nàng lại đứng dậy đi.
Đến sông Sen, chúng tôi rẽ sang bèn trái, bến tầu dài tít tắp, tuyết rải trắng xóa, làm cho màu nước sông đen ngòm.
Khách bộ-hành ủ kín trong áo măng-tô, bước rảo cẳng. Mấy đứa trẻ con chơi trượt tuyết trên hè vắng. Diệp-Lan hỏi tôi:
– Đi còn xa không?
– Đâu?
– Đến chỗ trú.
– Tôi cũng chưa biết. Ta cứ đi.
– Anh Do-Mạnh ơi! Tôi không đi được nữa, anh ạ. Anh hãy để tôi chết ở đây. Đưa tôi vào góc kia.
Tôi liền khoác cánh tay cố dìu nàng đi. Tôi mong sao chóng ra khỏi Ba-Lê đến cánh đồng, thế nào cũng tìm được một lò gạch, một cái lều hoang hay một quán trọ chứ ở trong những phố đầy người, ai cũng hối-hả về công-việc, lại có những Cảnh-binh nhìn chúng tôi bằng đôi mắt nghiêm-khắc, ngờ-vực, thì còn trông đợi được gì.
Chúng tôi lếch-thếch đi trong mười lăm phút nữa, nhưng không tiến được mấy, nghĩa là tuy chúng tôi có vượt qua đám nhà ở nhưng lại đến một phố, bên này là bức thành cao, bên kia là bức tường dài vô tận, trên có những cây tuyết phủ và nhưng chòi lính canh. Diệp-Lan không lê chân được, tôi phải ẵm nàng đi mặc dầu tôi vừa mỏi mệt vừa lo lắng, mồ hôi chảy ròng-ròng trên trán. Tôi thấy nàng kiệt-lực lắm rồi, có lẽ ốm nặng. Chúng tôi sẽ trở nên thế nào?
Chợt nàng buông tay ra; tụt xuống hè. Tôi vội đỡ lấy nàng thì nàng nằm vật trên tuyết.
Nàng nói trong hơi thở:
– Tôi chết mất.
Tôi ngồi bên cạnh; dỗ-dành và khuyên nàng đứng dậy đi chút nữa. Nhưng nàng trơ như một vật vô-tri, không nói gì và cũng không nghe thấy gì, chỉ có hai bàn tay nàng là còn sống và nóng như hai hòn than.
Vài phút sau, tôi đâm sợ. Không một người nào qua lại. Tôi đứng dậy nhìn xa. Hai bên chỉ có hai dẫy tường đá giữa là một dải tuyết dài vô tận. Tôi giục nàng, nàng không đáp. Tôi vực nàng dậy và ẵm đi, nàng mặc kệ. Đi được một quãng tôi không sao bước được nữa. Tôi phải nghỉ. Nàng tụt xuống đất. Tôi ngồi xuống cạnh nàng. Nguy to! Nàng sẽ chết ở đây chăng! Trong lúc mê hoảng, chắc nàng sực nhớ đến cảnh-trạng của chúng tôi, nên nàng ngả vào mình tôi đặt đôi môi lạnh trên má tôi. Nước mắt tôi ở đâu tràn ra và lòng tôi se lại.
Tôi vẫn hy-vọng nàng sẽ hồi sức lại và chúng tôi sẽ tiếp tục đi được, nhưng nàng không cử-động nữa, mắt nhắm nghiền, nếu thân nàng thỉnh-thoảng không run run, tôi đã tưởng nàng chết rồi.
Hai ba người khách qua đường thấy chúng tôi ngồi bệt trên tuyết đứng dừng lại, lưỡng-lự rồi lại đi.
Không thể chần-chừ được nữa, tôi phải định-liệu một bề: bây giờ hễ gặp người nào qua đây là tôi cầu cứu. Nghĩ xong thì một ông cảnh-sát lù-lù đến. Tôi chưa kịp cầu cứu thì ông ta đã hỏi tôi ngay:
– Tại sao lại ngồi cả đây?
Tôi đáp:
– Em tôi ốm quá không thể đi được nữa.
Rồi ông ta hỏi hết câu này đến câu khác. Tôi phải kể lại – một chuyện mà tôi đã sắp đặt sẵn – rằng chúng tôi định về thăm cha mẹ chúng tôi ở mãi tận Thiên-Cảng gần bờ biển, xa lắm, chúng tôi đã đi bộ được mười hôm rồi.
Nghe xong, ông ta tròn xoe mắt nhìn tôi. Rồi nói:
– Nếu cứ ở đây, con bé kia sẽ chết rét. Hãy theo ta về bót.
Diệp-Lan mệt quá không sao đứng lên được. Ông cảnh sát ra lệnh, nàng cứ lả người ra
Ông ta liền xốc nàng lên hai cánh tay và bảo tôi đi theo.
Đi được năm phút, ông ta gặp một bạn đồng nghiệp, ông liền kể lại chuyện chúng tôi và trao Diệp-Lan cho ông bạn.
Một lát sau, chúng tôi đến trước một ngôi nhà lớn, bên ngoài treo một chiếc đèn lồng kính đỏ. Trong phòng có mươi người cảnh sát đang quây quần chung quanh lò sưởi đỏ hồng.
Ông Cảnh- sát-trưởng hỏi, Diệp-Lan không nói được nên tôi phải trả lời nghĩa là tôi lại lặp lại câu chuyện mà tôi đã nói bên trên.
Một người cảnh sát nhìn Diệp-Lan nói:
– Tôi trông nó chết rồi hay sao?
Ông Cảnh-sát-trưởng nói:
– Chưa. May ra còn cứu được. Đưa ngay nó về sở chính.
Rôi ông quay ra hỏi tôi:
– Còn mày, mày làm gì bây giờ? Mày có đủ phương-tiện để sinh sống không?
Không hiểu ông nói gì, tôi giương mắt nhìn.
Ông hỏi lại:
– Mày có tiền không?
– Thưa ông, tôi có 20 xu.
– Vậy thì mày đi ngay đi. Đừng có lởn-vởn ở phố. Tao bắt được sẽ cho vào nhà giam.
Người ta đặt Diệp-Lan lên cáng, đắp cho nàng cái chăn rồi buông màn cáng xuống. Hai người phu khiêng đi.
Tôi như điên như dại. Không biết số phận nàng sẽ ra sao? Lại lo người ta bắt tôi nếu gặp tôi trong phố. Tuy nhiên tôi cứ theo sau và họ cũng để cho tôi di.
Chúng tôi đi khá lâu qua sông Sen đến một công-trường, trong có một ngôi nhà Thờ lớn. Người ta cho cả tôi vào. Một ông vận áo đen vén màn cáng lên: mặt Diệp-Lan đỏ như bông hoa mào gà
Ông ta hỏi ngọt ngào. Tôi tiến lại trả lời thay Diệp-Lan và kể lại là lần thứ ba câu chuyện mà tôi đã sắp đặt.
Ông ta nói:
– Cảm hàn… kiệt lực, có lẽ sưng phổi. Đưa ngay đến phúc-đường Chúa-Cứu-Thế.
Ông ta viết vài chữ vào giấy rồi chúng tôi lại đi. Đường đầy tuyết, phu khiêng rất khó-nhọc. Nhân lúc họ nghỉ, tôi đến bên màn cáng hỏi han Diệp-Lan, có lúc nàng nói nhỏ nhẹ, có lúc nàng không trả lời.
Lần đi này xa hơn lần trưóc. Đường sá vắng người. Trời bắt đầu tối. Sau cùng chúng tôi đến một ngồi nhà sơn xanh. Người ta đưa Diệp-Lan vào trong một căn phòng tối: một người vận áo lu trắng chạy đến đón bệnh-nhân
Trong lúc gần đất xa trời, có lẽ Diệp-Lan cũng hiểu như tôi, rằng lúc này là lúc phân-Iy, nên nàng sẽ vén màn nhìn tôi bằng đôi mắt bừng sáng lên, nàng nói:
– Anh bỏ em sao?
Lòng tôi lúc đó đang nghĩ đến nàng, nghĩ đến nỗi cô-đơn của nàng, nên tôi nói, giọng cả quyết:
– Không.
Nàng chỉ kịp cảm ơn tôi bằng cái nhìn chan-chứa tình lưu-luyến, thì người ta đã khiêng phắt nàng vào nhà trong.
Tôi đứng ngây như tượng, không động-đậy. Người gác cổng lấy tay đập vào vai tôi và bảo tôi ra.
Tôi hỏi:
– Tôi không được thăm em tôi nữa à?
– Có. Chủ-nhật và thứ năm.
Rồi cánh cửa đóng sầm lại sau gót chân tôi.
Đêm xuống. Một vài nhà đã thắp đèn. Vấn-đề đầu tiên hiện ra trong óc tôi là đêm nay ngủ ở đâu. Còn vấn-đề làm thế nào sống được ở Ba-Lê cho đến khi Diệp-Lan khỏi bệnh tôi để đến mai hãy tính đến. Cái nguy khổ hiện thời làm cho tôi không quan-tâm đến các việc của ngày mai.
Mặc dầu óc tôi chỉ nghĩ có một việc đó mà tôi không sao giải quyết được. Tôi có biết đâu ở ngay lòng thủ-đô này có những kẻ cũng khốn cùng như tôi, cũng bơ-vơ như tôi mà họ có thể tìm được chốn ngủ có khi cả cái ăn nữa. Sinh-trưởng nơi đồng ruộng, tôi chỉ biết những phương-tiện của người nhà quê là tìm sao đưọc một chuồng ngựa, một vựa để thóc hay một đống rơm. Nhưng ở trong phố tôi đang đi tìm đâu ra các thứ đó? Toàn những nhà, những tường và những nhà!
Khi ở nhà Phúc-đường ra, tôi đi về tay trái đến góc đường, tôi rẽ sang một đại-lộ hai bên trồng cây cao vút. Tên đề trên biển là “Phố Xe-Vơ”. Con đường này đi đâu? Tôi không biết. Cần chi! Tôi đi không có đích thì đến phố này hay phố khác cũng thế. Tôi bắt đầu đi thong-thả vì thấy mệt. Chân tôi không cố giầy, giẫm tuyết từ sáng sớm, bây giờ cóng đơ ra như hai bàn chân gỗ. Trên hè, trẻ con đang chơi trượt tuyết. Tôi thẫn-thờ đứng lại xem.
Trong đám trẻ đang chơi đùa, tôi ngạc-nhiên thấy một mặt quen: đó là một đứa trẻ giúp việc cho gánh hát Vi-Nhan cắm lều ở bên cạnh lều Bô-La, chủ cũ tôi. Tên hắn là Bíp. Chúng tôi quen nhau và vẫn nô-đùa với nhau.
Vì chỉ có một mình tôi đứng xem, nên hắn nhận ngay ra tôi và chạy lại hỏi:
– Kia! Anh đến Ba-Lê làm gì? Có đem sư-tử về không? Mai tôi sẽ lại thăm Diệp-Lan.
Tôi bảo hắn là tôi đã thôi ở với Bô-La rồi. Tôi mới đến Ba-Lê hồi sáng này hiện đang bối-rối về việc tìm chỗ ngủ. Tôi không đả-động gì đến Diệp-Lan. Cuối cùng tôi hỏi chỗ hắn làm bây giờ có cần người thì giới-thiệu giúp tôi vào làm.
Hắn đáp:
– Dễ lắm, miễn anh là một “xảo thủ”. Anh có thể là một “xảo thủ” chứ?
Tôi chẳng hiểu “xảo thủ ” là gì nhưng vì muốn có một chỗ ngủ nên trả lời đại là tôi có đủ đức-tính đó.
– Thế thì hay lắm.
– Chủ là ai thế?
– Ngây thơ quá, chú mán rừng của tôi ơi! Tôi là chủ chứ còn ai nữa? Nếu anh “nhập phường” của tôi, tôi sẽ dạy anh cách “làm ăn”.
Tôi không hiểu những danh từ mới lạ đó, cho là tiếng nói của người Ba-Lê, không lộ ra vẻ bỡ-ngỡ. Tuy nhiên tôi lấy làm lạ: một đứa trẻ không đầy 11 tuổi, choắt như con chuột mà lại là chủ một phường trò rong.
Bíp thấy tôi co-ro liền hỏi:
– Anh rét à? Ta vào đây “khu phong” một tí.
Nói xong Bíp đưa tôi vào quán rượu và mời tôi một cốc rượu vang nóng.
– Bây giờ ấm lòng rồi, ta đi về ăn cơm.
Đáng lẽ đi về phía tay phải để vào giữa thành-phố, Bíp dắt tôi đi về phía tay trái. Chúng tôi đi qua những phố vắng, nhà cửa lụp-xụp tồi-tàn.
Bíp thấy tôi có vẻ thắc-mắc, liền cười lớn và bảo:
– Anh tưởng tôi sẽ mời anh về một tòa lầu-đài chăng?
Thực vậy, không phải Bíp đưa tôi về khu dinh-thự mà dẫn tôi ra cánh đồng. Đêm xuống đã lâu nhưng trời không tối lắm. Chúng tôi bỏ đường cái, theo con đường ngoằn-ngoèo vào sâu trong cánh đồng. Đến cạnh một hầm đá, Bíp đứng lại, bảo tôi:
– Chỗ ở của tôi đây. Anh đưa tay tôi dắt, bước cẩn thận kẻo ngã.
Chúng tôi xuống một cái hầm đá, đi quanh co giữa những vách đá, vào một đường hầm khá sâu. Bíp đánh diêm soi lối di, tôi bồn-chồn kinh-ngạc. Bíp nói:
– Chút xíu nữa đến nơi.
Mấy phút sau, quả-nhiên tôi trông thấy ánh lửa đỏ trong một cái hang: đó là đống than củi cháy hồng.
Bên cạnh có một đứa trẻ trạc tuổi Bíp đang nằm dài.
Bíp hỏi:
– Chưa ai về à?
– Chưa.
– Tốt lắm. Đây là một anh bạn. Mày tìm cho anh ấy đôi giầy, mau lên!
Đứa trẻ chạy đi, lát sau trở lại với một thúng giầy đủ hạng. Tôi tưởng chừng như đứng trước một hiệu bán giầy.
Bíp nói:
– Chọn đi. Và nếu anh quen đi bít-tất, đừng ngại phiền, cứ hỏi sẽ có ngay.
Tả làm sao được nỗi êm-dịu trong người tôi khi đôi chân đau và lạnh cóng của tôi được bao kín trong những chiếc bít-tất len và những đôi giầy mới.
Tôi mang giày xong thì có hai đứa trẻ khác về, rồi đứa thứ ba, rồi đứa thứ tư, rồi ba đứa nữa. Tất cả là chín. Bíp giới-thiệu tôi với lũ trẻ.
– Đây là một anh bạn mà tôi quen biết từ ngày ở gánh Vi-Nhan. Anh là một tay “tài ba” đấy. Còn các bạn, các bạn đã làm được những việc gì?
Mỗi trẻ liền móc túi vải bày ra chung quanh đống lửa. Đứa thì đem về một cái giăm-bông, đứa thì hai chai rượu, đứa đưa ra một bình đựng sữa nhỏ xíu. Cả toán đều cười lên, chế-nhạo.
Bíp nói:
– Tốt lắm, nó sẽ uống phần sữa đó.
Xong Bíp ra hiệu cho mọi người ngồi chung quanh đống lửa, ngồi bên trên đất không có ghế, lót gì cả.
Tôi hân hạnh được Bíp mời ăn súp đầu tiên. Tôi phải thú thật rằng tôi chưa từng bao giờ được dự một bữa ăn thịnh-soạn đến thế, kể cả khi ở nhà mẹ tôi và khi ở nhà ông Biên-Gia nữa. Sau món giăm-bông đến món thịt gà. Sau món thịt gà đến món ba-tê gan. Tôi đói quá cắm đầu ăn, nuốt nhanh như hổ. Mọi đứa trẻ đều đưa mắt nhìn nhau. Thấy thế, Bíp nói lên tất cả những cảm-tưởng của bọn trẻ:
– Thật là hãn-hữu. Rất hân-hạnh được anh bạn chiếu-cố một cách thật-thà và nồng-hậu.
Ăn xong, tối thấy người mỏi và nặng nề vì hơi lửa nóng và nhất là vì dạ-dày căng.
Bíp thấy mắt tôi híp lại, liền hỏi:
– Anh buồn ngủ à? Cứ tự nhiên, đừng ngại. Tôi rất tiếc không có giường cao đệm ấm, nhưng cũng có chỗ nằm tạm cho anh.
Rồi Bíp mời tôi:
– Uống một ly rượu ngọt rồi hãy ngủ.
Tôi từ chối. Mọi đứa trẻ đều ngạc-nhiên. Cho tôi là một thằng ngốc.
Tôi hỏi Bíp:
– Ngủ chỗ nào?
– Anh theo tôi.
Bíp châm một ngọn đèn và đưa tôi sang một cái hầm ngang gần đó. Mặt đất có một cái ổ rơm dày trên vứt hai ba cái chăn len.
Bíp bảo tôi:
– Ngủ kỹ đi, mai ta sẽ nói chuyện.
Rồi anh cầm đèn ra.
Tôi không yên tâm vì không biết cái hầm này đi sâu đến đâu và rất thắc-mắc về những người bạn mới của tôi, về những cái túi đựng giam-bông, rượu và bình sữa. Tất cả cái đó coi không được minh-bạch lắm. Nhưng cái mệt nặng hon cái buồn, nên vừa đặt lưng xuống ổ tôi đã díu mắt lại. Bíp đã nói “ Mai ta sẽ nói chuyện”. Thế thì đến ngày mai sẽ hay. Bây giờ bụng no, chăn ấm, ngày hôm nay đã quá cực-khổ rồi, tôi không muốn kéo dài ra nữa ; tôi ngủ liền mặc những tiếng cười nói và uống rượu ồn-ào bên cạnh tôi.
Sáng hôm sau, Bíp gọi tôi, nếu không có lẽ tôi ngủ đến 24 tiếng đồng-hồ.
Anh nói:.
– Đồ “tế-nhuyễn” đây, anh mặc vào.
Bíp để trên ổ một cuộn quần-áo mới toàn bằng len dầy và mềm. Tôi liền bỏ quần-áo ra và vận bộ mới vào.
Bíp gọi tôi:
– Anh ơi! Ban nãy trong khi tôi rửa mặt tôi nghĩ đến anh và tìm được kế này. Nhưng phải tinh-ranh mới được. Không biết anh có làm được không?
– May ra được.
– Được hay không có thể biết ngay. Nếu anh không tập việc mà hành nghề ngay như chúng tôi, sợ có tai-họa. Muốn phòng ngừa, tôi hãy cho anh đi với một bạn giỏi nhất của tôi, và anh sẽ đóng vai “chuột con” [1] cho quen.
Mặc dầu sợ mất danh-giá, không muốn tỏ ra là kẻ quê mùa không thạo ngôn-ngữ Ba-Lê, tôi không thể lặng im mà bỏ qua không hỏi danh-từ “chuột con” là gì vì tôi sẽ đóng vai đó, tôi phải hiểu nghĩa là gì.
Thấy tôi nhìn anh, Bíp hỏi:
– Vận quần-áo xong chưa?
– Xong rồi.
– Bây giờ lo điểm-tâm đã, rồi tôi sẽ đưa anh đến nhà bạn tôi.
Tôi theo Bíp ra, đống lửa đã tắt. Chung quanh dọn sạch không còn vết tích gì tỏ ra đã ăn uống ở đây đêm qua. Đường hầm sáng dần vì chúng tôi ra gần tới cửa. Tôi nhìn thấy hai cái cột lớn đỡ vòm trần và đây đó có những đống đá vụn.
Bíp với tay vào một hốc đá lấy ra một chai rượu, một ổ bánh mì và một khúc giăm-bông.
Anh nói:
– Ta điểm-tâm đã rồi hãy đi. Trưa nay ta sẽ ăn cơm nhà anh bạn mà chúng ta sắp đến.
Tôi cố thu hết can-đảm và hỏi:
– Anh đừng cười tôi nhé! Anh biết tôi không phải là dân Ba-Lê. Anh cắt nghĩa cho tôi nghe thế nào là “chuột con”.
Anh liền cười ngoặt-ngoẹo và nói:
– Xứ anh là Mán cả à? “Chuột con” là một gã nhanh-choai, nói cho dễ hiểu, là một đứa trẻ như anh và tôi, không bị-thịt và nhanh-nhẹn. Có lẽ anh chưa biết các chủ hiệu thường đóng cửa hàng thế nào để vào trong nhà ăn cơm?
Mặc dầu không hiểu trong câu chuyện anh vừa nói, hai ý chẳng liên-hệ gì với nhau, tôi trả lời rằng:
– Tôi không biết họ đóng cửa thế nào.
Bíp đưa cho tôi chai rượu anh uống dở và nói:
– Bằng một bức ngăn thấp. Cánh ngăn đó có dây lò-so nối vào một cái chuông con. Ai vào phải đẩy cửa, cửa mở làm chuông kêu. Chủ nhà đang ăn uống ở ngăn sau cửa hàng hay trong bếp biết ngay có người vào. Bây giờ anh đoán thử xem “chuột con” có công-dụng gì?
– Chịu, không biết. Hay là nó dùng để thay thế cho cái chuông?
Anh bật cười phát ho lên và tạt vào má tôi một cái. Hết cơn cười, anh nói:
– Anh còn ngây-thơ thế nữa anh làm tôi chết cười mất. Đáng lẽ thay thế cho quả chuông thì chuột con phải giữ cho chuông khỏi kêu. Muốn thế, người ta nhấc con chuột qua cửa vào. Nó liền im lặng bò vào ngăn kéo, chộp hộp tiền, trao nhanh cho người bạn đứng ngoài và người này lại cầm tay nó nhấc bổng ra ngoài. Coi đó, chủ nhân mất của mà không biết. Anh có làm được không?
Tôi đỏ mặt và nói.
– Thế là ăn cắp à?
– Còn gì nữa!
– Vậy anh là kẻ cắp à?
– Cũng như anh là một thằng ngu.
Tôi không nói gì. Tôi nghĩ lại những điều mắt thấy tai nghe từ hôm qua đến nay mà lòng tự bảo lòng: Bíp bảo tôi là một thằng ngu, rất đúng.
Tuy-nhiên tôi phải dứt khoát. Tôi nói:
– Anh ơi! Nếu anh cậy tôi làm việc đó thì anh nhầm rồi.
Lần này Bíp không cười nữa mà hầm-hầm tức giận. Có lẽ hắn nghĩ tôi đã lừa dối hắn, nếu hắn để tôi đi, tôi sẽ tố-cáo hắn chăng?
Bíp hung-hăng nói:
– Anh không được tố-cáo tôi và anh cũng không ra được khỏi nơi này.
– Tôi nhất định đi.
– Không được.
– Giữ thế nào được ta.
– A! Thằng này giỏi.
Bíp liền xông vào đánh tôi. Tuy Bíp nhanh và dẻo thực nhưng không khỏe bằng tôi. Cuộc đánh lộn không lâu. Lúc đầu vì bị đánh bất ngờ nên tôi ngã. Sau tôi vật lại và đè lên hắn, tôi hỏi:
– Mày có để tao đi không?
– Để mày đi thưa tao chăng?
– Không đời nào!
– Thề đi.
– Tao thề không bao giờ tố-cáo mày.
Tôi bỏ hắn dậy. Hắn vừa thở vừa nói:
– Mày ngu lắm. Mày có thể mài cái lương-thiện của mày ra ăn không? Nếu mày không gặp tao hôm qua thì hôm nay mày đã chết nhăn răng ra rồi. Mày sở-dĩ còn sống được là vì mày đã ăn những miếng giăm-bông ăn cắp, mày đã uống rượu vang ăn cắp, chân mày không tê bại nữa vì ta đã cho mày những giầy ăn cắp. Và nếu mày ở đây ra không bị chết rét là nhờ những quần-áo ăn cắp mà ta đã cho mày.
Những quần-áo tôi đang mặc ấm-áp thực, tôi không nghĩ đến.
Tôi nói:
– Thôi, cho tôi mượn cây đèn đây.
– Làm gì?
– Đi tìm quần-áo cũ của tôi.
– Tôi không đòi lại quần-áo đâu. Tôi cho anh.
– Vẫn biết thế, nhưng tôi không muốn mặc nữa.
Bíp nhún vai nhìn tôi trở vào chỗ nằm đêm qua.
Tôi cởi bỏ quần-áo của Bíp và lại mặc những quần-áo rách của tôi. Và tôi xin thú thực khi tìm đến giầy, tôi rất buồn vì một chiếc bị tuột hẳn đế.
Bíp đứng nhìn tôi không nói gì. Tôi quay mặt đi vì tôi xấu-hổ về những đồ bệ-rạc của tôi.
Bíp đổi giọng, nói ngọt-ngào:
– Anh là một người ngu thực. Nhưng việc anh vừa làm đó khiến cho tôi thấy (Bíp vỗ tay vào ngực) rung động trong lòng. Giữ lòng trong-sạch kể cũng hay vậy.
– Sao anh không chịu làm?
– Quá muộn rồi!
– Nếu không may anh bị bắt, bị giam, anh sẽ nói với mẹ anh thế nào?
– Mẹ tôi à? Giá tôi được có một người mẹ! Thôi, đừng hỏi tôi về chuyện đó nữa.
Tôi định ngắt lời Bíp, thì hắn nói luôn:
– Anh định quở trách tôi chăng? Thôi, để cho tôi yên. Tôi không muốn cho anh ra đi bệ-rạc như vậy. Nếu anh không thích vận quần-áo ăn cắp, anh có bằng lòng nhận những quần-áo cũ của những ngày tôi đi làm không? Những quần-áo đó, tôi còn giữ. Anh là một người tốt, anh hãy nhận đi!
Tôi gật đầu.
Bíp tỏ ra rất sung-sướng và nói:
– Nếu vậy, anh hãy đi với tôi, tôi sẽ lấy cho anh
Chúng tôi trở vào Ba-Lê. Bíp đưa tôi đến một căn nhà ở gần cổng thành, mời tôi lên gác, anh mở tủ lấy ra một cái áo và một cái quần cho tôi, đúng là quần-áo anh vận ngày làm với gánh Vi-Nhan mà tôi từng trông thấy. Anh lại cho tôi thêm một đôi giầy đã cũ nhưng còn tốt.
Khi tôi mặc quần-áo và đi giầy xong. Anh nói:
– Thôi, chào anh. Nếu ra ngoài có gặp các bạn tôi, anh cố lánh xa, đừng nhận nhé.
Lúc đó chưa đến 10 giờ. Tôi còn nhiều thì-giờ để tìm chỗ ngủ đêm nay.
Trời hanh, gió lạnh. Đồ mặc tạm đủ, cái ăn chưa cần, tôi thong-thả tìm một chỗ trú ở Ba-Lê.
Hôm nay không phải là ngày được phép vào thăm Diệp-Lan.
Tôi cứ thẳng trước mặt đi cầu may.
Đi đã hơn hai giờ qua rất nhiều phố mà tôi chưa tìm thấy gì, chưa nghĩ được gì. Tôi bụng bảo dạ: cái may không đến, tốt hơn hết là tự đi tìm cái may vậy. Tôi đi về phía sông Sen. Tôi định đến chợ, tìm bà hàng phúc-hậu hôm nọ đã cho tôi 20 xu xem bà có can người giúp việc hay bà có quen ai có viêc cho tôi làm chăng?
Đầu tiên bà ta không nhận ra tôi trong bộ quần-áo lành. Tôi phải nhắc lại chuyện hôm trước, bà hỏi luôn: em gái tôi bây giờ thế nào? Tôi đáp nàng hiện nằm ở Phúc-đường, bà tỏ lòng thương hại. Tôi nói:
– Tôi không muốn xa em tôi. Tôi đợi em tôi khỏi để cùng về quê, vì thế tôi cần phải có việc làm. Tôi không biết hỏi ai. Tôi nghĩ ngay đến bà và mong…
Bà ta ngắt lời tôi:
– Em ơi! Em nghĩ đến mụ Ba Sơn này thực là khéo lắm. Ta rất hoan-hỉ. Em coi ta, chắc em biết ta không phải là người để cho một đứa trẻ vất-vưởng trên vỉa hè.
Nói xong, bà gọi hai ba người bạn hàng đến bàn-bạc xem có cách gi giúp tôi không. Việc này hơi khó vì ở chợ này người ta không quen dùng trẻ con giúp việc. Rồi, sau khi hỏi đi hỏi lại hỏi đến mười lần và biết chữ tôi tốt, các bà đồng ý tìm cho tôi một chân viết phiếu hàng, nếu người ta cần đến.
Tôi không được mục kích việc vận-động của các bà xem chừng công phu lắm. Tôi chỉ biết năm giờ sáng hôm sau, tôi được đặt ngồi một bàn ở khu bán cá, phụ trách việc viết phiếu bán hàng, không khó-khăn lắm. Tôi viết đẹp và nhanh. Bà Ba Sơn đến xem tôi làm việc thế nào, người ta bảo tôi làm tốt lắm và cho tôi mỗi ngày 30 xu. Số tiền không to, nhưng được bà Ba cho tôi ngủ nhờ ở cửa hàng bà thành ra tôi chỉ mất tiền ăn thôi.
Diệp-Lan vào nhà thương hôm thứ hai. Tôi đợi mãi mới đến thứ năm. Khi làm xong việc ở chợ, tôi tìm đến phố Xe-Vơ. Truớc khi đi thăm Diệp-Lan, người ta cho tôi cam bỏ đầy hai túi. Tôi đến trước giờ mở cửa. Lòng tôi rối-bời: không biết Diệp-Lan thế nào? Còn sống hay đã chết rồi!
Người ta trỏ cho tôi phòng Thánh Mi-Sen, tôi cắm dầu chạy bình-bịch, một viên Y-tá nắm tôi lại và bảo nếu còn làm náo-động sẽ bị đuổi ra lập tức. Tôi liền kiễng chân đi. Đến nơi, Diệp-Lan còn sống và đã khá nhiều. Thấy bóng tôi, nét mặt xanh-xao của nàng bừng sáng lên. Nàng nói:
– Anh-trai của em! Anh đã vào đấy à?
Lần đầu tiên nàng kêu tôi là anh-trai.
Tôi cảm-động quá, chỉ nói được một tiếng:
– Em.
– Em biết nếu anh không chết rét thế nào hôm nay anh cũng vào thăm em.
Rồi nàng nắm tay tôi và hỏi mấy hôm nay tôi ở đâu. Khi tôi kể chuyện ở hầm đá, nàng nói:
– Như thế là phải lắm. Em rất bằng lòng.
Tôi lại nói đến bà Ba Sơn đã giúp đỡ tôi. Nàng dân-dấn nước mắt, nói:
– Thực là một trái tim vàng.
Bây giờ đến lượt nàng trả lời tôi.
Hôm vào đây, nàng mê-mệt không biết gì, sốt nặng và mê-man. Nhờ được một bà Phước hết lòng chăm nom thuốc-thang nên bệnh đã bớt nhiều.
Rồi nàng nói nhỏ:
– Dù sao em cũng muốn ra, vì ở đây em sợ lắm. Đêm qua có một đứa bé chết, ở giường bên cạnh kia kìa, người ta quấn vải và bỏ nó vào một hộp đựng sô-cô-la, em thấy thế ngất người đi.
Diệp-Lan tưởng-tượng sẽ được ra nhà thương sớm nhưng bệnh nàng lai-rai nên phải nằm ở đó đến hơn hai tháng mới khỏi hẳn.
Nhưng đó cũng là một dịp sung-sướng cho chúng tôi.
Trong thời gian đó, với tính-nết thùy-mị dễ yêu, Diệp-Lan làm cho bà Phước, Bác-sĩ và các Y-sinh thương mến nàng. Ai cũng biết chuyện chúng tôi. Vì nàng mà tôi được thương lây. Thứ năm và chủ-nhật, hễ tôi vào là người ta đãi tôi như một người thân trong nhà.
Ngày ra nhà thương đã đến. Khi trao giấy phép cho Diệp-Lan, bà Phước cho chúng tôi biết Bác-sĩ đã tìm cách cho chúng tôi không phải đi bộ về Thiên-Cảng. Người ta đã điều-đình với một người chủ xe, chuyên đem những bà nhũ-mẫu đi ở, cho chúng tôi đi nhờ xe đến tỉnh Via, rồi thì từ Via người chủ xe sẽ mua vé xe chuyên-chở công-cộng cho chúng tôi về Thiên-Cảng. Khi Diệp-Lan sắp ra, mọi người trong phòng Thánh Mi-Sen đã gom góp được số tiền là 25 phật-lăng, quá đủ tiền xe. Còn tôi trong vòng hai tháng trời mỗi ngày để ra 7, 8 xu, tổng-cộng được 22 phật-lăng để chuẩn-bị cho cuộc hành-trình không ngờ ngày nay, hốt-nhiên được dễ-dàng. Cảnh lếch thếch vào Ba-Lê hai tháng trước, so với buổi rời thủ-đô hôm nay thực là một vực một trời! Bà Ba Sơn lại ân-cần đưa chân chúng tôi ra tận xe và gói cho đủ thứ để ăn đường.
Xe chở vú em không phải là th?