← Quay lại trang sách

Chương XIII THUYỀN-TRƯỞNG BẤT ĐẮC DĨ

TÔI yên trí tôi chỉ xuống trình-diện tại một chiếc tàu nào là được tuyển-mộ ngay.

Vì thế, sau khi tới ngoại-cảng, tôi hãy đi tản-bộ trên bến trước để chọn tàu. Vũng Ngự có bốn năm chiếc giang-thuyền, không phải việc của tôi. Vũng Ngăn có mấy chiếc tàu lớn của Mỹ đang bốc những bao bông xếp trên bờ thành từng đống cao như núi. Cũng lại không phải việc của tôi. Tôi muốn tìm một chiếc tàu Pháp.

Khi đi quanh Vũng Thương-Mại, tôi rất khoái-ngạc trước một dẫy tàu của hầu-hết các nước trên thế-giới, cái to, cái nhỏ chen nhau, cột buồm tua-tủa lên như cây rừng, cờ lệnh, cờ hiệu và quốc-kỳ bay phất-phới. Tôi cho cảnh này đẹp hơn Ba-Lê.

Cũng có những chiếc tàu đưa ra mùi đường thơm ngọt, những chiếc khác ngửi thấy toàn mùi hạt tiêu và mùi quế. Chỗ nào cũng thấy người ta đem hàng xuống tàu hoặc khuân hàng lên bến. Mấy người lính đoan đi lại xem phu vần những bao cà-phê và nghe những tiếng hát não-nùng của người thủy-thủ.

Trong đám tàu kể trên có một chiếc tôi vừa trông thấy đã thích ngay. Tàu sơn trắng với một đường mép xanh da trời. Đó là một chiếc tàu nhỏ ba cột buồm. Ở đây buồm có treo tấm biển, người ta đọc thấy:

“Nhận hàng đi Bách-Nam và Bá-Hải

SAO-MAI – Thuyền-trưởng Phi-Gát

Nhổ neo trong khoảnh-khắc”

Còn đợi gì nữa mà không xuống chiếc tàu sơn xanh sơn trắng này? Và trong địa-dư còn có cái tên nào đẹp hơn và hấp-dẫn hơn hai địa-điểm Bách-Nam và Bá-Hải?

Tôi xuống tàu. Bọn thủy-thủ và thợ thuyền đang mải xếp hàng-hóa. Người ta đang xuống hầm –qua cái miệng vuông rộng lớn – những két hàng nặng chĩu đu đưa ở đầu dây. Không ai để ý đến tôi, vì tôi đứng im một chỗ và cũng không dám tiến đến gần một ông – có lẽ là Thuyền-trưởng – đang ghi sổ mỗi khi két hàng đi qua mặt. Sau cùng người ta nhìn thấy tôi. Ông cầm sổ đuổi tôi:

– Lên ngay đi! Xuống đây làm gì?

– Thưa ông, tôi muốn ông cho tôi tập việc thủy-thủ ở tàu Sao-Mai.

Ông ta không buồn trả lời, chỉ tay ra cái cầu là lối tôi vừa xuống.

– Nhưng, thưa ông

Ông liền giơ tay lên. Tôi không kêu nài nữa, bước ra vừa xấu-hổ vừa buồn.

Người ta không cần đến tôi hay sao?

Tôi không thoái chí. Tôi tìm tàu khác. Tàu Sao Mai có lẽ sang-trọng quá đối với tôi chăng. Lần này tôi chọn một chiếc tàu nhỏ hai buồm màu đen và cũ-kỹ tên là Công-Hải, chở hàng đi Tam-Cờ. Người ta trả lời là không cần người. Tìm đến chiếc tàu thứ ba, đáng lẽ phải vào trình viên Thuyền-trưởng, tôi hỏi một người thủy-thủ, người này liền nhún vai lên cho tôi là một đứa trẻ kỳ-cục, không trả lời. Sau cùng tôi đến một chiếc tàu nhẹ hai buồm sắp khởi-hành đi Phi-Châu.Viên thuyền-trưởng coi vẻ khắc-khổ, nhưng có ý muốn nhận tôi. Khi ông biết tôi không có cha để ký giấy cam-đoan, không có giấy ký-danh vào Hải-quân, không có túi đựng quần-áo và nhất là không có quần-áo, ông ta mời tôi ra tức khắc nếu không muốn nếm mùi móng-giò của ông!

Công-việc thất-bại, tôi bắt đầu buồn: dễ thường lại phải trở về Thiên-Cảng chăng? Nếu chỉ có mẹ tôi và Diệp-Lan thì trở về cũng vui đấy, nhưng còn chú tôi, còn tờ cam-kết kia, tôi quên sao được? Tôi phải cố tìm cho được môt chỗ làm.

Đi vòng các Vũng, tôi lại trở về ngoại-cảng. Thủy-triều lên. Một vài chiếc thuyền đánh cá đã bắt đầu ra khơi. Tôi ra bờ đập để xem tàu ra vào. Đã lâu tôi không được ngắm cảnh biển và nước triều lên xuống. Bây giờ, một vùng chân trời bao-la mở ra trước mắt, những con tàu Ca-Yên, Ru-Ăng, Hồng-Lư ra vào nhẹ-nhàng, những chiếc tàu lớn nhổ neo trong những tiếng chào tiễn-biệt, tiếng nói cười của thủy-thủ, tiếng máy chạy ầm-ì, những chiếc mùi-soa phất-phơ như những cánh bướm ở trên cửa sổ tàu, những lá buồm đủ cỡ xáo trộn trong vũng kéo dài từ bến đến chỗ ngoẹo làm tôi quên hẳn việc mình.

Tôi tỳ tay lên bao-lơn đập và đứng ngắm cảnh đã hơn hai tiếng đồng-hồ. Chợt ở phía sau, có người kéo tóc tôi. Giật mình quay lại, tôi thấy anh Hệ-Man, một nhạc-công cùng làm trong gánh Bô-La với tôi.

Tôi hỏi ngay:

– Ông Bô-La có đến Hao-Cảng không?

Vẻ hốt-hoảng của tôi làm anh Hệ-Man không nói lên được vì anh bật cười rũ-rượi.

Hai phút sau, cơn cười đã ngớt, anh bảo tôi rằng:

“Anh cũng như tôi, anh đã bỏ Bô-La để về với một người anh ruột hiện ở nước Cộng-Hòa Ê-Qua-Tơ. Còn về Bô-La – tôi yên-trí, không sợ – ông ta đã thừa hưởng được một gia-tài vĩ-đại, bán tất cả gánh xiếc, nói cho đúng là tất cả cặn-bã của gánh xiếc, và giải nghệ rồi. Nửa tháng sau khi tôi bỏ di, con Tuấn-Sư đáng thương đã chết. Sau khi Diệp-Lan đi rồi, nó trở nên hung-dữ và buồn rầu, không chịu ăn uống gì và hình như nó chỉ thèm thịt Bô-La thôi, nên mỗi khi Bô-La đi qua là nó gầm-gừ muốn cắn; Bô-La chẳng dại hy-sinh thân mình để cứu sống nó nên mặc-kệ cho nó chết, cái chết của nó là do lòng trung-thành và nhớ tiếc Diệp-Lan mà ra.”

Xong anh lại hỏi tôi đã được làm thủy-thủ chưa. Tôi liền kể lại những nỗi khó-khăn mà tôi đă gặp cho anh nghe. Anh là người kỳ-cựu trong một gánh xiếc nên óc anh rất giàu mưu-kế.

Anh nói:

– Nếu em muốn, tôi sẽ vui lòng nhận em là em ruột để đưa em đăng vào thủy-thủ.

Nhưng còn túi quần-áo? Việc này nan-giải. Hệ-Man không giàu hơn gì tôi. Vé tàu của anh trong chuyến đi này đã được người anh ruột của anh trả tiền trước. Như vậy dù tiền túi của anh và của tôi họp lại cũng không đủ mua sắm một túi quần-áo cho tôi.

Chúng tôi phải bỏ ý-kiến đó. Muốn an-ủi tôi, anh đưa tôi đi ăn cơm với anh. Ăn xong, một người đồng-hương với anh làm nhạc-công cho một rạp hát gần đó, biếu chúng tôi hai vé để vào xem. Màn đầu là một hài-kịch nhan-đề “Chiến-tranh công-khai”, trong đó người ta khiêng một nhân-vật nằm trong một cái rương.

Anh liền ghé tai tôi, bảo:

– Việc của em đấy! Đến giờ nghỉ tôi sẽ nói cho em biết ý-kiến.

Ý-kiến của anh là sẽ mua cho tôi một cái két lớn, tôi sẽ nằm trong đó. Một giờ trước khi tàu chạy, anh sẽ vác két đã khóa, buộc cẩn-thận xuống tàu. Khi chúng tôi đã ra khơi rồi, anh sẽ mở cho tôi ra. Lúc đó, ông Thuyền-trưởng, nếu biết, cũng không sao đẩy tôi lên được, trừ phi quẳng tôi xuống biển, sẽ đành chịu cho tôi ở trên tàu. Một khi đã được tự-do, tôi sẽ xoay-xở để có việc làm.

Thực ra đó là một kế-hoạch điên cuồng nhưng cũng là một kiểu mạo-hiểm hào-hứng làm cho tôi thích-thú.

Sáng hôm sau, chúng tôi đi thăm các hàng bán đồ cũ trong phố và bỏ ra 10 phật-lăng mua một cái két lớn có đai sắt, thước tấc vừa sát với tầm vóc tôi như là đã đặt làm từ trước. Hệ-Man vác về nhà trọ và cho tôi cùng ở đấy. Anh cẩn-thận chọc cạnh thủng ra nhiều lỗ để tôi thở. Tôi vào nằm thử anh đóng kín lại. Trong hơn 2 tiếng đồng-hồ, tôi thấy rất dễ chịu, tôi có thể cựa tay chân và nằm nghiêng hay nằm ngửa khi tôi muốn trở mình.

Tàu của Hệ-Man đi, tên là Ô-Rê-Nốc, sẽ khởi-hành hồi 2 giờ chiều hôm sau vào lúc nước lên. Tôi cỏ đủ thì-giờ ra xem qua chiếc tàu đó và viết một bức thư dài cho mẹ tôi báo tin tôi đã được xuống tàu và xin mẹ tôi tha lỗi cho tôi đã làm trái ý mẹ tôi, tôi mong rang cuộc đi của tôi sẽ đem lại hạnh-phúc cho cả gia-đình. Tôi cũng gửi kèm một bức thư cho Diệp-Lan kể cho nàng nghe những điều mà anh Hệ-Man đã dạy tôi, đồng-thời tôi cũng khuyên nàng ngoan-ngoãn, dịu-dàng trong điều ăn nết ở đối với mẹ tôi.

Hai giờ trước khi thủy-triều lên, nghĩa là vào lúc giữa trưa, Hệ-Man bảo tôi vào két và đưa cho tôi một tấm bánh mì. Anh vừa cười vừa nói:

– Để dành đến mai, nếu em đói, em sẽ có bánh ăn.

Tôi sẽ phải giam mình trong hộp đó ít ra là 20 tiếng đồng-hồ vì chúng tôi đã tính rằng khi tàu còn trong vùng Hao-Cảng, chúng tôi còn phải đề-phòng. Nếu tôi “thò” ra sớm, Thuyền-trưởng sẽ có thể đuổi tôi xuống một thuyền đánh cá hay một chiếc tàu hoa-tiêu. Nhưng một khi đã ra khơi rồi, cái nguy gặp các tàu thuyền đó sẽ bớt đi. Đã mấy hôm nay, gió nam thổi khá mạnh, như vậy trong 20 tiếng đồng-hồ chúng tôi sẽ tới gần Sec-Bua và ở giữa biển Măng. Anh Hệ-Man đã buộc thêm hai đoạn dây da ở trong két để tôi cầm cho khỏi lăn-lộn trong khi két được khuân-vác.

Hệ-Man khoá chặt hai bên khóa và buộc dây chung-quanh nhiều vòng rất chắc. Xong anh ta vác két lên lưng và cười to quá làm tôi long lên xòng-xọc như ở trên mình ngựa.

Khi tới tàu Ô-Rê-Nốc, niềm vui của anh bỗng cắt dứt. Viên Thuyền-trưởng hỏi:

– Anh mang cái gì thế?

– Cái rương của tôi.

– Muộn quá rồi. Cửa hầm tàu vừa đóng xong.

Chính chúng tôi dụng ý đến vào lúc cửa hầm đóng rồi, vì nếu cửa hầm còn mở, người ta sẽ cho két của tôi xuống hầm và xếp nhiều két khác đè lên, tôi sẽ phải nằm đó cho đến khi tàu tới bến mới được dỡ ra. Bây giờ cửa hầm đóng rồi người ta sẽ để tôi trên sàn tàu hay trong phòng của Hệ-Man.

Nhưng việc đời thường không trôi chảy một cách dễ-dàng như ý định của ta. Viên Thuyền-trưởng khăng-khăng không chịu nhận két hàng kia. Nằm trong, tôi đã tưởng sẽ phải lộn lên bến. Sau cùng, ông ta thuận cho xếp ở sàn thứ nhất với các két khác đem đến phút cuối cùng

Một người thủy-thủ nói:

– Đi đường sẽ xếp lại.

Sẽ xếp lại, tôi không cần. Tôi chỉ mong không phải nằm lâu trong két.

Lát sau, tôi nghe thấy tiếng dây buộc tàu rơi xuống nước, đồng-thời người ta đang quay máy để cuộn dây. Trên đầu tôi, có tiếng bước đi nhịp-nhàng của những thủy-thủ đang ra sức kéo dây để tàu rời bến. Những tiếng động do người hay máy vận dụng, nằm trong két, tôi đều biết rõ như mắt nhìn thấy.

Nghe thấy tiếng xe-cộ đi, tiếng nói ồn-ào, tôi hiểu là đã đến Thủy-môn. Tàu đứng im vài phút, rồi tự-nhiên đươc kéo từ-từ đi. Đó là chiếc tàu dắt vừa đến đưa tàu chúng tôi đi. Tàu bập-bềnh từ đầu đến lái: chúng tôi đến ngoại-cảng. Rồi tròng-trành hơn nữa: chúng tôi đang ở trong bờ đập. Tiếng ròng-rọc kêu xè-xè, người ta kéo buồm: con tàu nghiêng-ngả. Chiếc móc rơi xuống nước. Lái tàu kêu kèn-kẹt. Chúng tôi ra khơi.

Thế là xong việc. Đời đi biển của tôi bắt đầu từ đây! Đã phải trả bằng bao nhiêu khó-khăn, khổ-cực, tôi mới mua được cái phút mơ-ước này, tôi tưởng nó sẽ làm cho tôi sung-sướng nhưng lòng tôi cảm thấy buồn tênh, vì hiện-trạng của tôi không cho tôi cởi-mở tấm lòng.

Giá được ở trên sân thứ hai của tàu, kết bạn với những thủy-thủ, đưọc giúp những việc vận-dụng lặt-vặt, nhìn đằng trước thấy mặt biển mênh-mông, đằng sau có đất liền và hải-cảng, tôi sẽ sung-sướng rồi đây được băng mình trên những bến lạ bờ xa. Nhưng bây giờ, bị giam trong bốn tấm gỗ của một cái rương, tôi không thể chống lại cái sợ- hãi nó xâm-nhập trong lòng tôi.

Ba, bốn tiếng khẽ gõ vào thành rương kéo tôi ra ngoài cơn sầu-tư. Vì không nghe thấy tiếng nói nên tôi không dám trả lời lỡ phải người thủy-thủ nào thì khốn. Tiếng gõ lại diễn ra một cách đặc-biệt; tôi biết đích là Hệ-Man. Tôi lấy cán dao díp gõ lại để trả lời.

Việc thông-tin đó làm tôi đỡ buồn. Dù sao, tôi cũng không bị bỏ quên. Chỉ phải nằm trong rương vài giờ nữa là được thoát thân. Tôi sẽ đứng trong lòng biển cả, thế-giới sẽ là của tôi.

Gió lạnh. Con tàu chìa sườn ra đỡ sóng và tròng-trành nhiều quá. Ngày còn nhỏ vốn quen đánh cá biển và hay dập-dình thuyền để chơi, tôi không bao giờ say sóng, tôi tưởng bây giờ tránh được bệnh đó. Không ngờ tôi thấy nôn-nao trong dạ. Thoạt tiên, tôi tưởng sở-dĩ tôi bị chứng đó là vì tôi khó thở, vì tuy có mấy lỗ đã khoét, khí trời bên ngoài vào rất khó-khăn nên trong rương đầy một hơi nóng nặng-nề. Nhưng căn bệnh của tôi được định rõ ngay.

Khi con tàu chồm lên chúi xuống, tôi biết đích tình-trạng choáng-váng của tôi do đó mà ra. Tôi lo quá vì thấy nhiều người say sóng nôn-oẹ, rên-rỉ rầm lên. Nếu tôi bị thế mà có người đi qua đúng lúc tôi oẹ thì biết làm thế nào?

Tôi thường thấy người ta nói thứ thuốc tốt nhất chữa bệnh say sóng là cái ngủ, vì tôi chỉ có một thứ thuốc đó bên mình thôi nên tôi áp-dụng ngay. Tôi liền vùi đầu tôi vào trong hai cánh tay và cố ngủ. Nhưng nằm mãi, không sao ngủ được. Tôi đã cẩn-thận bỏ ít rơm vào làm ổ mà cái giường của tôi vẫn chẳng êm. Quả tim tôi cứ lắt-lẻo theo nhịp lên xuống của con tàu. Sau cùng tôi thiếp đi lúc nào không biết.

Tôi ngủ đã bao nhiêu giờ, tôi không biết, vì ánh-sáng không lọt được vào cái két của tôi. Tôi như nằm trong ngục tối không biết lúc đó là ngày hay đêm. Tuy-nhiên, cứ theo sự yên-lặng trong tàu, tôi đoán là ban đêm. Tôi nghe thấy bước đi của lính gác trên sàn tàu và thỉnh-thoảng tiếng bánh lái kêu kèn-kẹt. Con tàu lắc-lư mỗi lúc một mạnh: có tiếng răng-rắc ở cột buồm, tiếng ù-ù qua những dụng-cụ trên làu. Những khối sóng vật vào sườn tàu tỏ rằng gió thổi mạnh lắm. Hoặc vì khí lạnh ban đêm làm cho không-khí trong rương dễ thở hoặc vì tôi bị vất-vả quen rồi nên tôi thấy trong người tỉnh-táo không nôn-nao nữa. Rồi dần-dà tôi lại ngủ lại êm-ru trong cuộc hòa nhạc kinh-động ấy tưởng chừng như nằm trong căn buồng nhỏ ở nhà cha mẹ trong những đêm gió táp mưa sa. Một tiếng đổ gẫy kinh-hồn làm tôi bừng dậy: toàn thân tàu kêu răng-rắc, tiếp tiếng sập đổ trên sân tàu như tất cả bộ cột buồm ụp xuống, dây đứt kêu ình-ình như tiếng súng nổ.

Có tiếng Anh kêu:

– Tốp! Tốp!

Liền theo có tiếng Pháp kêu:

– Lên cả sân tàu đi!

Trong những tiếng kêu hỗn-độn ấy, đồng-thời nổi lên những tiếng sào-sào, tôi biết ngay là tiếng hơi nước phụt

Tàu chúng tôi bị chiếc tàu Anh đâm phải và tàu chúng tôi rạp hẳn về một bên vì tôi bị lăn vào cạnh rương.

Khi tôi tỉnh trí lại thì tiếng hơi nước cũng hết. Nhưng lại có tiếng ầm-ầm kinh-khủng nữa, ngay lúc đó tàu chúng tôi đứng thẳng lên được. Chiếc tàu Anh kia đã bị chìm rồi hay nó đã rời xa rồi?

Tôi liền gào lên để gọi thủy-thủ rồi tôi lắng tai nghe. Trên sân tàu, có tiếng nói lao-xao và tiếng đi lại hấp-tấp cả mọi phía. Bên ngoài, sóng đập vào thành tàu như phá, gió thổi đùng-đùng.

Tàu chúng tôi sắp đắm rồi hay sao? Hệ-Man sắp đến cứu tôi chăng? Tôi lo-lắng điên-cuồng. Máu trong người tôi ngừng chạy, tay tôi mồ-hôi ra ướt đẫm như dúng nước. Tự-nhiên, tôi nhỏm dậy, đầu tôi đập vào nắp rương. Tôi liền quỳ xuống, lấy hai tay hết sức đẩy nắp lên, nhưng hai cái khóa đã chắc mà mặt rương lại đóng những then ngang, nên không chuyển chút nào. Tôi kinh-hãi, nằm lăn ra như chết.

Một lúc sau, tôi lại kêu lên và gọi Hệ-Man, nhưng những tiếng thình thình trên tàu làm lấp cả tiếng tôi: những nhát búa đang chặt những cột buồm.

Sao Hệ-Man không đến tháo cho tôi ra? Hắn làm gì bây giờ?

Trong khi bọn người kia đang chặt những cột buồm, những người khác làm việc bơm nước ra: tôi nghe thấy tiếng tích-tắc đều đều của tay bơm.

Sắp chết đắm cả rồi. Tôi đội nắp rương lên nhưng vô hiệu. Tôi nằm vật ra, kinh-hoàng, thất-đảm.

– Hệ-Man! Hệ-Man!

Vẫn có tiếng động, nhưng cứ ở sân trên và không một người qua lại chỗ tôi. Tiếng của tôi không ra khỏi ngoài rương, mà nếu có lọt ra được tiếng nào thì cũng bị những luồng gió mạnh cuốn phắt di.

Hệ-Man có lẽ bị rơi xuống biển rồi chăng? Hắn đã bị sóng cuốn đi rồi chăng? Hay hắn bị cột buồm đè chết rồi? Hay lúc lâm nguy, hắn mải cứu lấy thân hắn mà quên hẳn tôi đi? Thế thì tôi sắp phải chết đuối ở trong cái ruơng này!

Không hy-vọng gì đựợc cứu sống nữa!

Can-đảm đợi cái chết, can-đảm nhìn thẳng cái chết, không phải là một việc mà đứa trẻ không làm được. Nhưng khi người ta được tự-do, ít ra người ta cũng chống cự được và sự chiến đấu đó sẽ đỡ đần người ta, nay tôi bị giam chết trong bốn tấm ván này không nhấc mình lên được, không thở được, hỏi còn làm gì được? Thực là một điều khốn-nạn và tàn-khốc?

Tôi tức mình dùng đầu để phá cái ngục của tôi nhưng nó chắc quá không núng chút nào. Tôi muốn hét lên nhưng cổ tôi đã khàn rồi không ra tiếng. Tôi không biết, vào địa-vị tôi, một người lớn có thể chịu dựng được như thế nào chứ tôi, tôi là một đứa trẻ, tôi ngất xỉu đi.

Khi tôi hoàn hồn – không biết đã lịm đi trong bao lâu – tôi có một cái cảm-giác lạ-lùng: hình như tôi đã chết ở đáy bể và đang bị nước xoáy đi. Nhưng những tiếng inh-ích trên sân tàu kéo tôi về thực tại. Người ta vẫn luôn tay bơm nước. Thỉnh-thoảng tôi nghe thấy ùng-ục trong ống bơm.

Gió gào trên tàu và những ngọn sóng ầm-ầm quật váo thân tàu làm tôi ở trong hòm hết lăn bên này lại sang bên kia. Tôi lại kêu gào, thỉnh-thoảng lại im xem có ai nghe thấy không. Nhưng chẳng thấy gì ngoại-trừ những tiếng ồn-ào của bão táp.

Ngột cả người, tôi liền bỏ hết áo ra. Khi tôi cởi cái gi-lê, tay tôi sờ thấy con dao mà tôi quên bẵng. Đó là một con dao nhà quê rất chắc, cán bằng sừng, lưỡi khỏe và sắc.

Chẳng có ai đến giải-thoát cho tôi, tôi đành tự cứu lấy tôi vậy. Tôi liền mở dao để cạy những ổ khóa trước.

Nếu bẩy nó ra thì gẫy dao mất, tôi khoét dần chân khóa. Rương đóng bằng gỗ giẻ đến hai, ba mươi năm rồi khô-nhắc và rắn như sắt, mũi dao khó nhấn vào.

Tôi gắng sức khoét, mồ-hôi ra như tắm. Cán dao trơn tuột trong lòng bàn tay. Thỉnh-thoảng phải nghỉ để lau tay cho ráo.

Khoét đã lâu mà không tiến được mấy vì con tàu cứ lắc-lư và giật tay tôi lại. Hễ lúc tôi ấn mạnh đầu dao vào gỗ là y như tôi bị ngã ngửa về phía đằng sau.

Sau cùng, ổ khóa cũng phải lung-lay, tôi nhè một cái lắc của tàu để đẩy bật nó ra. Bây giờ cạy đến ổ khóa thứ hai. Con dao nóng quá, tôi dấp vào lưỡi cho nguội, lưỡi tôi bị bỏng rát lên.

Bây giờ người ta không bơm nước ra nữa, nhưng trên đầu tôi, vẫn có tiếng chân đi lại tíu-tít. Chắc là khẩn-cấp lắm.Về việc gì? Tôi không sao đoán được. Có tiếng sền-sệt như người ta đang kéo vật gì nặng, một cái két lớn hay một cái xuồng? Sao thế nhỉ? Thế là nghĩa gì? Tôi không có thì-giờ tìm-hiểu và cũng không có thì-giờ nghe ngóng, tôi tiếp-tục làm việc của tôi.

Dao của tôi trơ ra, không bắt gỗ nữa, vì thế khó khoét hơn ổ khóa trước. Tôi đem hết hơi sức của tôi ra làm, cánh tay tôi bị tê-bại đi, lưng tôi như gẫy ra vì thân tôi phải ở trong cái thế gò bó. Vì thế tôi phải nghỉ tay một lát.

Lúc đó, tôi nghe tiếng gió bão, tiếng sóng dập và tiếng kèn-kẹt của thân tàu.

Việc cạy khóa của tôi mất độ hơn nửa tiếng đông-hồ. Tôi thấy lâu quá như độc-giả đã biết. Sau cùng chiếc khóa thứ hai cũng như cái thứ nhất đã thấy lung-lay.

Tôi liền quỳ gối, cúi khom-khom, chống hai tay xuống lấy lưng đội nắp hòm lên: hai ổ khóa bật ra nhưng nắp hòm không mở lên đtrợc. Ấy tôi quên! Hai đầu rương còn có buộc dây.

Bây giờ phải tìm cách cắt dây đó. Đầu tiên tôi tưởng dễ, nhưng tôi nhầm vì nắp rương tuy có hé một chút nhưng vẫn còn chụp lên lợi rương. Tôi phải thử cái lợi rương đi mới sờ thấy dây. Lại thêm một việc nữa.

Tôi không nản lòng và bắt tay vào việc ngay. May sao lần này tôi phải tách ngang thớ gỗ nên nhanh chóng hơn. Tôi tìm thấy dây và cắt phăng đi. Thế là xong việc.

Tôi đẩy mạnh nắp rương lên. Nó lên một tí, rồi lại ập xuống. Tôi đẩy mạnh hơn nữa, nó hé không hơn trước được một chút nào. Cái gì còn giam hảm tôi thế?

Tôi buồn quá, xỉu xuống đáy rương. Tôi nghĩ tôi đã tốn bao nhiêu công trình, bây giờ đành chịu bó tay hay sao? Nắp hòm hé ra đủ lọt bàn tay tôi. Tôi liền thò tay ra và sờ-soạng khắp chung quanh, vì trời tối nên tôi chỉ trông thấy lờ-mờ thôi.

Cố đưa tay lần mãi, tìm mãi, tôi mới hiểu cái gì đã ngăn-trở công việc của tôi: đó là một cái rương kếch xù! Cái rương này đặt trên một cái két khác và chòi ra trên nửa mặt rương của tôi. Tuy không đè hẳn lên rương của tôi nhưng nó vẫn giữ không cho nắp mở ra. Tôi cố đẩy cái rương tai ác ấy ra nhưng nó nặng quá, không hề nhức-nhích. Vả lại ở trong cái thế “thu hình”, tôi không sao thi-thố mạnh được. Cánh tay tôi không duỗi thẳng được mà nghĩ đến việc nhấc cái rương ấy lên hay đẩy nó ra thì thực là chuyện điên rồ!

Mất bao nhiêu công sức, kết-cục thành thế này? Bây giờ phải làm cách gì? Tôi cuống-cuồng tưởng như máu của tôi đang sôi sùng-sục trong đầu như nồi súp-de.

Trước kia tôi kêu trong rương đóng kín nên ngoài không nghe thấy tiếng, bây giờ nắp hở rồi, có lẽ người ta sẽ nghe thấy tiếng tôi kêu. Tôi gào thật to. Rồi tôi lắng tai nghe. Trên sân tàu có tiếng rầm-rầm và hình như có vật gì rơi tõm xuống biển. Tôi nghe thấy họ chắc họ phải nghe thấy tôi; nghĩ thế, tôi lại gào to. Rồi tôi lại để tai nghe. Không nghe thấy tiếng rầm-rầm nữa, mà tiếng chân đi cũng không, chỉ có tiếng gió thổi vèo-vèo. Có điều lạ quá là hình như có tiếng kêu ở ngoài biển vọng vào phía thành tàu tôi nằm.

Như vậy, không bao giờ người ta nghe thấy tiếng tôi kêu nữa. Tôi nhất định cạy bản-lề rương ra. Nếu được, tôi không cần mở, tôi chỉ đưa ngang cái nắp ra ngoài là tôi ra được.

Tôi lại tiếp-tục làm, làm mau lẹ. Sự vắng-lặng trên tàu làm tôi lo-sợ. Tất cả thủy-thủ trong tàu bị sóng cuốn đi hết rồi hay sao? Có thể đúng lắm, vì tàu tròng-trành dữ, với tiếng gió gào thét kinh-hồn tỏ ra bão đang kịch-liệt. Những bản-lề không chắc bằng ổ khóa – nếu biết vậy tôi đã bắt đầu cạy nó trước thì hơn – tôi không cần khoét gỗ, vì chỉ có đinh thôi. Tôi dùng mũi dao để tháo ra. Khi đã tháo xong một bên, còn bên kia tôi chỉ lắc đi lắc lại nắp rương là đinh tuột ra. Tôi nâng cao nắp rương lên và đưa ngang về một bên rất dễ-dàng. Tôi nhảy phắt ra ngoài cái ngục ác-nghiệt của tôi. Được tự-do vùng-vẫy tay chân, tôi mừng quá! Chứ chết chẹt ở trong rương thực là chết mười lần!

Sự đắc thắng đã đem lại hy-vọng cho tôi, nhưng tôi chưa thoát khỏi cơn thử-thách. Nhờ ánh-sáng lờ-mờ, tôi sờ-soạng tìm ra chân thang.

Mái cầu thang đã ụp xuống may sao nó không vít hẳn, tôi lách mình lên trên sân. Chẳng nhìn thấy ma nào cả. Đằng lái cũng chẳng có ai. Con tàu đã bị đoàn thủy-thủ bỏ lại.

Tôi nhảy lên đài quan-sát nhìn ra. Tôi thấy trong làn ánh-sáng xanh-xao của buổi bình-minh mưa gió, một chấm đen đen ở trên biển: đó là một con tàu lớn.

Tôi gọi, tôi gào nhưng chiếc tàu xa quá, nà gió lại mạnh nên cái tiếng yếu-ớt của tôi không đi đến đâu.

Một mình tôi ở trên con tàu lênh-đênh giữa biển cả, một con tàu bị bỏ rơi và đang đắm. Tuy-nhiên, cái ngục giam đã làm tôi quá sợ hãi thành ra bây giờ tôi thấy bớt lo.

Tôi nhìn khắp tàu một lượt, nhận thấy tàu Ô-Rê-Nốc đã bị húc vào giữa hông. Thực là một cái lạ là sao vỏ nó không bị đứt đôi ra. Có lẽ chiếc tàu Anh đã đâm chéo vào. Trong cái húc kinh-khủng đó, nó đã làm đứt hết dây chằng của cột buồm lớn và của cột buồm lái về mé gió thổi. Hai cột buồm này mất hết dây không còn gì giữ lại nên gẫy gập như que bẻ. Hiện trên tàu, về cây cột thì chỉ còn cột-cái nguyên vẹn và nửa cột ở mũi tàu, về cánh buồm thì chỉ còn lá tam-giác ở đầu tàu và chiếc buồm vuông ở cột giữa rách tả-toi

Trời bắt đầu sáng: về phương đông, sau những đám mây đen, một ánh sáng hung-hung thỉnh-thoảng hiện ra rồi lại biến mất trong khoảng không thăm-thẳm. Mặt biển mênh-mông những bọt trắng xóa. Cảnh-tượng u-buồn dưới ánh-sáng nhợt-nhạt của ban mai. Gió bão thổi mạnh quá đè dẹp cả những con sóng, không nổi lên cao được.

Đoàn thủy-thủ đã bỏ cái tàu này chính vì nó đang lâm nguy, tôi không cần phải nghĩ lâu mới hiểu.

Phó mặc cho sóng gió hoành-hành, không buồm không lái, con tàu lăn đi lăn lại kinh-khủng. Những lớp sóng cao như núi quật vào vỏ tàu tưởng chừng như muốn nuốt tươi. Tôi phải bám vào một chiếc thùng mới đứng vững, toàn thân tôi bị ướt như người mới lội nước lên.

Tôi muốn biết đích-xác những thiệt-hại do hai tàu đụng nhau gây ra, tôi nghển ra ngoài bao lơn thấy sườn tàu bị toang nhiều chỗ. Không biết những chỗ thủng ấy có xuống dưới mực nước không. Tôi không thể suy lường được. Nước đã vào hầm tàu đến đâu rồi? Tôi cũng chẳng biết, vì tôi không sao vận-dụng được tay bơm nặng quá sức của tôi.

Trong tình-trạng này, tàu Ô-Rê-Nốc còn cầm-cự được với sóng, với gió bao nhiêu lâu nữa? Tất cả vấn-đề là ở điểm này.

Thế nào con tàu này cũng đắm. Tôi không còn nghi-ngờ gì nữa. Nhưng nó không đắm ngay tức khắc. Có thể một chiếc tàu khác trông thấy sẽ đến cứu. Tôi hy-vọng thế. Và nghĩ rằng tôi đã phấn-đấu được để thoát chết trong rương thì tôi còn phấn-đấu nữa chứ không chịu bỏ thân tôi.

Nhờ chút hiểu biết về nghề hàng-hải, tôi nhận thấy nếu cứ để con tàu quay-lô thế này không chóng thì chày thế nào nó cũng bị tan tành hoặc bị một trận sóng lớn là chìm. Tôi ra ngay mũi tàu điều-khiển lá buồm tam-giác cho con tàu đè sóng mà đi. Rồi tôi vào chỗ lái. Từ trước đến giờ, tôi chỉ được lái những chiếc thuyền con. Vì thế, tôi vừa để tay vào vòng vặn lái thì một con sóng giật làm quay ngược vòng đó lại khiến tôi ngã bắn ra đến bốn năm bước.

May sao, mọi thứ đã được thủy-thủ chuẩn-bị để chống bão! cán tay lái đã gài sẵn dây hãm để bớt nguy. Lúc đó tôi không biết hướng nào phải đi vì tôi không biết chúng tôi đang ở chỗ nào, nên tôi buộc cán tay lái cho tàu theo chiều gió thổi.

Tôi hy-vọng may ra gặp đựợc chiếc tàu nào đi qua chăng. Tôi lên đài qnan-sát cố phóng hết tầm con mắt ra khơi và bao-quát tất cả các điểm ở chân trời.

Bây giờ hình như gió bớt dữ. Ngày đã rõ và vòm trời cững bớt âm-u. Thỉnh-thoảng, ở những khe giữa hai đám mây lóe ra mộl ánh-sáng xanh nhợt, mặc-dầu biển vẫn động, tôi không nản lòng. Nếu ở gần bờ, tất nhiên phải có tàu trông thấy.

Trong ba tiếng đồng-hồ, tôi cứ trông về phía chân trời mà chẳng nhìn thấy gì. Gió dịu dần. Biển bớt động, nghĩa là những con sóng không hỗn-loạn như trước mà đi từng lớp đều đều khiến cho thân tàu đủ thì giờ lên xuống.

Chợt tôi nhìn thấy một điểm trắng trên nền đen của đám mây đang là là trên mặt biển. Điểm đó to dần, to hơn nữa: đó là một chiếc tàu. Nó đi xuôi gió, cùng chiều với tàu của tôi.

Tôi nhảy lên tay lái vặn cho tàu của tôi xuyên ngang lối đi của chiếc tàu đó, nhưng ngán thay! Chiếc tàu đó cỏ đủ các buồm lớn nhỏ mà tàu của tôi chỉ có mỗi một chiếc buồm con mà nó lại không bắt gió. Trong nửa tiếng đồng-hồ, tôi trông thấy nó rõ-ràng, có thể đếm từng chiếc buồm một, nhưng rồi thấy nó cứ xa dần.

Tôi chạy đến chỗ dây chuông giật lia-lịa, rồi trèo ra bao lơn nhìn. Con tàu kia cứ nhỏ dần đi. Họ không trông thấy gì và cũng không nghe thấy gì cả. Họ đi thẳng đường của họ.

Thất vọng đau đớn, tôi nhìn theo chiếc tàu vô-tình kia đến hơn một tiếng đồng-hồ. Nó nhỏ dần, nhỏ dần, bằng một nét chấm, rồi mất hút. Tôi lại có một mình ở giữa biển mênh-mông.

Có tàu đi qua cũng chưa đủ, cần phải chính chiếc tàu đó trông thấy tàu mình mới được. Đợi người ta cứu mình cũng chưa đủ, cần phải sửa-soạn cho người ta dễ trông thấy mình, nghĩa là phải kéo họ đến với mình mới được.

Nghĩ thế, tôi liền tìm trong hộp dấu-hiệu, lấy ra một lá cờ to. Vì các cột cờ gẫy hết, tôi phải trèo lên một cột buồm cao còn lại để treo cờ. Tàu tròng-trành khó leo quá. May sao tôi quen nghệ khi làm xiếc, nên việc leo trèo không khó khăn mấy. Tôi đặt hết hy-vọng vào lá cờ đó. Nó sẽ báo cho các tàu đi qua biết: “có một chiếc tàu đang ngộ nạn! ”.

Bây giờ biển im lặng rồi tôi lại lo đến những chỗ nước rò. Không thấy triệu-chứng gì tỏ ra là nước tiếp-tục rò vào trong tàu, vì thân tàu hình như không chìm xuống. Tuy nhiên, tôi vẫn phải đề-phòng, lỡ nó cứ đắm thì sao? Vì thế, tôi nhặt nhanh những tấm ván, những mảnh két và buộc vào với nhau thành một cái mảng con.

Trời gần trưa rồi. Từ hôm qua đến giờ tôi không ăn uống gì. Bụng tôi thấy cồn-cào. Các thứ trong nhà bếp đều bị gió cuốn xuống biển hết khi tàu bị gẫy cột buồm. Tôi định xuống tầng dưới để kiếm cái ăn.

Tôi cứ ngập-ngừng mãi không dám đi: nếu tàu đắm trong khi tôi ở tầng dưới thì chạy sao kịp? Nhưng cái đói đã thắng cái sợ.

Tôi xuống thang. Đi đuợc hai bước thì nghe thấy tiếng gừ-gừ. Tôi giật minh lùi lại. Con vật vừa kêu đó nhảy vọt ra trước mặt tôi. Đó là con chó – giống chó Thổ-nhĩ Kỳ – của viên Thuyền-trưởng bỏ quên lại. Nó cũng như tôi đã tự tìm cách để thoát khỏi cũi. Nó nhìn tôi, nhìn đi nhìn lại mãi với vẻ nghi-ngờ. Sau cùng có lẽ coi bộ tôi không phải là người hại nó, nên nó lại gần tôi và nghếch mũi lên. Lập tức chúng tôi thành đôi bạn. Nó theo chân tôi, vì nó cũng đói như tôi

Tôi tìm đuợc tất cả những thứ tôi định tìm: bánh mì, thịt nguội, rượu vang. Vớ được thứ gì lấy thứ ấy cho mau rồi tôi lộn lên tầng trên ngay.

Có thể nói được rằng tôi chỉ còn cách cái chết có hai bước thôi thế mà tôi ăn vẫn thấy ngon lành. Con chó ngồi chực trước mặt tôi, chốc-chốc lại chạy theo miếng bánh tôi vứt xuống sàn. Chúng tôi đã thân-thiết với nhau. Tôi không còn lẻ-loi nữa. Ăn xong, nó nằm dưới chân tôi. Nó nhìn tôi bằng đôi mắt trung-thành quá đến nỗi tôi phải ngồi xuống vuốt-ve nó

Khi đi ngang qua phòng Thuyền-Trưỏng, tôi trông thấy mấy chiếc súng lục để trên bàn, tôi chạy vào lượm cả, phòng khi có chiếc tàu nào đi qua, những chiếc súng đó sẽ dùng làm vật báo hiệu.

Một ngày ròng-rã trôi không có một cánh buồm nào qua lại. Biển bớt sóng mà gió cũng dịu nhiều: tàu Ô-Rê-Nốc hiện giờ vô sự, chắc là nước không rò vào được nữa. Tuy-nhiên, trời càng về tối, tôi càng thấy lo-lắng.

Hình như tàu chúng tôi không xa bờ biển lắm, may ra trong đêm tối, tôi sẽ nhìn thấy một ngọn Hải-đăng nào chăng, lúc đó tôi chỉ có việc lái tàu vào là thoát nạn.

Đêm xuống đã lâu, mà hy-vọng của tôi chưa thấy thực-hiện. Những ngôi sao lần-lượt lấp-lánh trên vòm trời sâu thẳm, còn ánh Hải-đăng tuyệt-nhiên không thấy đâu cả.

Nhân có đống quần-áo vứt trong phòng Thuyền-trưởng, tôi lấy ra để làm đệm và nằm nghỉ một lúc, nhất định thức suốt đêm để dò-xét chân trời. Đã lâu mắt tôi đăm-đăm nhìn vào khoảng bóng tối xa-xăm nhưng không khám-phá được gì. Con chó nằm gần tôi ngủ đã lâu. Gió hiu-hiu và con tàu chỉ hơi lắc-lư, không có điều chi quản-ngại.

Đến 10 hay 11 giờ, mặt trăng lên chiếu rõ khoảng biển yên-lành, lung-linh phản-chiếu ánh trăng. Cảnh trời êm biển lặng đó lại thêm tiếng ngáy của con chó làm cho tôi thiu-thiu ngủ lúc nào không biết.

Nhưng biển yên-lặng không phải là hết bão. Đến gần sáng, hơi gió lạnh làm tôi thức dậy. Những đám mây đen ở đâu kéo đến bao trùm mặt biển. Và sóng lại bắt đầu nổi lên. Gió cũng thổi nhanh chóng quá. Tôi đi tìm địa-bàn, nó cho tôi biết gió đang thổi từ hướng Tây-bắc.

Tôi liền vặn tay lái cho tàu theo chiều gió, vì tuy tôi không biết lúc đó tôi đang ở chỗ nào, nhưng cứ theo chiều gió mà đi thì sẽ tới bờ biển Nóc-Măng-Đi hay bờ biển Bơ-Ta-Nhơ.

Một giờ sau, ba-đào nổi lên dữ-dội như hôm trước. Những lớp sóng bạc đầu quật vào tàu Ô-Rê-Nốc dồn-dập khiến nó không sao bổng mình lên được. Những ngọn nước tràn qua quét từ đầu đến cuối sân tàu.

Trước sức gió, cột buồm mũi lung-lay và kêu răng-rắc. Những dây chằng cũng nhão lắm rồi. Tôi lo chỉ một trận gió lớn nữa là cột gẫy…. Thế là hết. Con tàu sẽ đắm!

Mắt tôi không rời cột buồm.

Chợt trước mặt tôi, xa-xa hiện ra một đường nâu-nâu kéo dài vô-tận. Mặc dầu trong lúc hiểm-nghèo, tôi leo lên dây cột buồm xem. Chính là đất rồi!!!

Tôi chạy đến tay lái, lái tàu vào thẳng vết nâu trước mặt: hai chân tôi run-run vì sung-sướng, nước mắt tôi dàn-dụa ra. Thoát chết! Nhưng đã chắc chưa?

Vết nâu mỗi lúc lại hiện rõ hơn. Tàu Ô-Rê-Nốc liệu có tới đó được chăng? Cột buồm còn cầm-cự được đến lúc cuối cùng không?

Tôi lo-lắng vô-cùng vì mỗi lúc gió nổi mạnh hơn. Cột buồm rên-xiết làm tôi đứt từng khúc ruột. Con chó ngồi trước mặt tôi, đôi mắt cứ trông vào tôi như để tìm hiêu tôi định làm gì.

Bờ biển này thấp. Bên trong rải-rác những đồi, không có bến, hoặc làng-mạc nào cả.

Hy-vọng của tôi như độc-giả đã biết không phải là đem tàu vào một hải-cảng, dù có hải-cảng trước mặt tôi, vì đó là một công-tác trên sức của tôi và trên cả sức của những người đi biển thiện-nghệ – tôi tin như thế – với con tàu ở trong tình-trạng này. Tôi chỉ mong sao đưa được con tàu vào một chỗ cạn rồi nhảy xuống bơi vào bờ để thoát chết thôi.

Nhưng liệu con tàu có vào được gần bãi không? Dưới biển có những đá ngầm cản-trở không?

Sự lo ngại đó khiến tôi gỡ hết ván gỗ ở cái mảng đã làm hôm qua ra và xếp chung quanh chỗ tôi. Nếu tàu đắm, tôi sẽ vớ lấy một tấm ván nhảy xuống biển. Xong tôi cởi áo, chỉ mặc một cái quần và đứng đợi.

Bờ biển hiện ra rất rõ-ràng. Tôi trông thấy cả lớp bọt sóng trắng xóa vỗ vào mép bãi: nước triều đang xuống.

Còn mười lăm phút nữa, còn mười phút nữa, còn năm phút nữa là tai qua nạn khỏi. Mẹ ơi! Diệp-Lan ơi!

Khi tôi đang mủi lòng nghĩ đến những người thân yêu bỗng ầm một tiếng, con tàu chồm lên, tay lái gẫy phăng, chuông kêu lên mấy tiếng, cột buồm lảo-đảo rồi gẫy gập về phía trước. Tôi bị ngã sấp xuống sàn: tàu Ô-Rê-Nốc chạm đất.

Tôi bò dậy. Con tàu xô cái nữa, chuyển từ mũi đến lái, tôi lại ngã dúi xuống. Con tàu dừng lại và đổ nghiêng ra.

Tôi chưa kịp bò dậy thì một ngọn sóng lớn ập đến trùm lên tàu, cuốn luôn tôi ra ngoài và đưa vào một xoáy nước.

Khi tôi vùng vẫy bơi ra khỏi xoáy nước đó, thì tôi đã cách xa thân tàu chừng hai mươi mét. Cạnh tôi, con chó đang bơi, mắt đầy thất-vọng. Tôi lên tiếng để khuyến-khích nó. Chúng tôi chỉ còn cách bãi chừng hai trăm mét. Thời thường, quãng biển đó đối với tôi chẳng thấm vào đâu, nhưng với những núi nước đang ồ-ạt tấn công vào bãi như bây giờ thì việc vượt qua quả là vô-cùng nguy-hiểm.

Không mất can-đảm, tôi bình-tĩnh bơi và cố ngoi lên trên sóng. Tuy-nhiên trong những lớp sóng dồn-dập tung-tóe bọt trắng làm tối tăm mặt mũi, tìm cách thở được giữa hai làn sóng thực là một việc khó-klhăn.

Trên bãi không một bóng người, tôi không mong gì có người ra cứu vớt. May sao gió và sóng đều hướng yào bãi.

Một làn sóng lũng xuống, chân tôi chạm đất. Đây là giờ phút quyết định. Ai cũng biết sóng ở gần bãi, lúc dồn vào lúc rút ra rất mạnh. Một lớp sóng đưa tôi vào bãi như một đám rong. Tôi móc tay tôi xuống cát để giữ chỗ, nhưng khi nó rút, nó lại lôi cả tôi ra. Lớp sóng thứ hai lại đưa tôi vào, tôi lại bám xuống cát, nó lại kéo tôi ra xa hơn nữa. Tôi nghĩ nếu tôi cứ tiếp tục chiến-đấu theo kiểu đó thì thế nào cũng chết đuối. Tôi lại bơi ra biển. Tôi chỉ có thể thoát chết bằng cách mà cha tôi nói đến ngày xưa. Trong lúc nghỉ bơi giữa hai làn sóng, tôi móc con dao ở túi quần và mở ra. Rồi tôi lại bơi vào bãi. Khi sóng ném tôi vào, tôi đâm sâu mũi dao xuống cát, khi nó lôi tôi ra, tôi cầm-cự được vì tôi đã có chỗ bám chắc-chắn. Cứ thế, tôi tiến vào dần. Đến chỗ nông, tôi bò dậy chạy cho nhanh. Khi tới bãi, bước được vài bước thì tôi nằm vật xuống cát.

Tôi thoát chết nhưng kiệt-lực và nằm bất tỉnh.

Chính con chó, bạn tôi liếm vào mặt tôi đã làm cho tôi tỉnh lại. Mắt nó sáng lên, hình như muốn bảo:

– Hãy tươi lên! Chúng ta thoát nạn rồi!

Tôi ngồi dậy nhìn chung quanh, thấy một người lính đoan cùng mấy người nhà quê đang chạy đến chỗ chúng tôi.

Chú thích:

[57] Một chức như pháp quan.

[58] Tức như tòa án.

[59] Cảnh sát trưởng.

[60] Quận trưởng trong thị trấn.