← Quay lại trang sách

Chương XIV VỀ VỚI GIA-ĐÌNH

TÀU Ô-Rê-Nốc đã đâm vào bãi phía đông mũi biển Lê-Vi cách Hải-cảng Sec-Bua bốn năm dặm.

Những người dân quê bế tôi về làng Phê-Năng gần đó và đưa vào nhà một vị Linh-Mục.

Tôi vừa bị mệt vừa bị xúc-động nhiều quá nên ngủ mê-man trong hơn hai mươi tiếng đồng-hồ không dậy. Nếu không có ông Giám-Đốc Hải-quân và nhân-viên hãng Bảo-hiểm đến làm phiền chúng tôi thì tôi tưởng tôi và con chó của tôi sẽ ngủ một giấc trăm năm như ả “Hằng-Nga ngủ ở trong rừng” ngày xưa.

Tôi phải ra trình-diện các vị nói trên và kể lại những sự việc đã xảy ra từ khi tàu Ô-Rê-Nốc khởi-hành từ Hao-Cảng đến khi dạt vào bãi Lê-Vi. Tôi cũng phải khai tại sao tôi phải lẩn trốn trong rương và trước khi nói ra tôi rất sợ hãi. Nhưng tôi nghĩ phải thú hết sự thực, đúng sự thực dù có xảy ra sao cũng đành. Việc có xảy ra là tôi bị giao về Hao-Cảng cho ông chủ tàu Ô-Rê-Nốc. Ba hôm sau, người ta cho tôi xuống tàu và ngay chiều hôm đó thì tới Hao-Cảng.

Chuyện của tôi ở đây ai cũng biết rồi, vì các nhật-báo đều đăng tin cả. Tôi nghiễm-nhiên thành một người anh- hùng hay nói cho đúng là một quái-vật để thỏa-mãn tính tò-mò của công-chúng. Khi tôi bước ra đầu thang tàu, tôi thấy không biết cơ-man nào là người đứng chực trên bến. Họ chỉ vào tôi và con chó của tôi và nói:

– Nó đấy! Nó đấy! cả con chó nữa đấy!

Đến Hao-Cảng, tôi mới biết những thủy-thủ tàu Ô-Rê-Nốc không chết, họ được một chiếc tàu Anh cứu thoát rồi một chiếc tàu khác đã đưa họ hồi hương. Còn anh Hệ-Man, anh đã bị bắn xuống biển ngay lúc hai tàu đâm vào nhau. Hoặc anh không biết bơi, hoặc anh bị cột buồm đè phải và bị cuốn cả xuống biển nên mất tích. Vì thế, anh mới không trở lại mở rương cho tôi ra.

Chuyện của tôi hình như là một chứng-cứ tai-hại cho ông Thuyền-Trưởng:

Hãng Bảo-hiểm nói rằng nếu ông này không chạy sớm, ông ta có thể cứu được con tàu, vì một đứa trẻ con có thể đưa được nó vào bãi thì cả đoàn thủy-thủ tất có thể đưa nó vào hải-cảng được. Ở Hao-Cảng chỗ nào người ta cũng bàn-tán về việc này, cãi nhau về việc này. Tôi đi đến chỗ nào người ta cũng túm lại hỏi tôi.

Bấy giờ, một rạp hát trong thành phố diễn kịch “Vụ đắm tàu Mê-Đuy ” ông chủ rạp có hảo-ý là đưa tôi vào đóng một vai phụ trong chuyện đó và số tiền thu được bao nhiêu sẽ giúp cho tôi. Rạp đông đến nỗi phải đóng cửa lại không bán vé nữa. Người ta cho tôi đóng vai một ấu-thủy-quân chỉ ra sân khấu làm cảnh và không phải nói gì. Khi tôi bước ra vói con chó của tôi, tất cả những vai chính đều phải ngừng hát vì cả rạp hoan-hô và vỗ tay như sấm. Tất cả những ống nhòm đều chĩa về tôi. Tôi dại-dột tưởng mình là vai chính. Con chó của tôi có lẽ cũng nghĩ như tôi.

Khi giải tán, ông chủ trừ tiền phí tổn, tất nhiên ông trừ một cách rất rộng-rãi, phần tôi còn được 200 phật-lăng. Vì còn nhiều khách muốn xem, nên ông chủ diễn 8 xuất liền, mỗi xuất sau này ông chủ chỉ cho tối 5 phật-lăng. Tổng cộng tôi được tất cả 240 phật-lăng, là một tài-sản lớn đối với tôi.

Tôi định trích ra một phần tiền để sắm bộ đồ thật tốt để xin vào làm tàu biển. Vì lòng ham đi biển và nhất là sự sợ hãi chú tôi làm cho tôi tự chống lại việc trở về quê.

Bị bỏ rơi trong tàu Ô-Rê-Nốc, bị lăn lên lộn xuống vì gió táp, bị ném vứt trên bãi cát, nghĩa là bị thập tử nhất sinh, tôi thú thật rằng lòng tôi đã buồn lắm và tôi thấy số-phận những người sống yên lành dưới mái nhà của họ trên đất thực đáng thèm muốn hơn số-phận những người đi biển nhiều. Nhưng khi tôi đứng vững được rồi, những nỗi buồn lo bỗng dưng tiêu-tan khác nào như những giọt nước biển thấm vào quần-áo tôi khi gặp ánh nắng mặt trời bốc đi hết cả. Vì thế khi tái hồi Hao-Cảng, tôi chỉ nghĩ đến việc đi tìm một chiếc tàu để xin làm chân tập việc. Ông chủ tàu Ô-Rê-Nốc sẵn lòng tuyển mộ tôi vào làm cho tàu A-Ma-Dôn. Số tiền trong buổi trình-diễn đến vừa kịp thời để giúp tôi sắm các thứ cần-thiết cho việc đăng-ký làm thủy-thủ của tôi.

Ngày tôi gặp anh Hệ-Man xấu số, anh đã đưa tôi – chắc quý vị độc-giả còn nhớ – về ở nhà trọ của anh. Đó là một căn buồng tối tăm, ở trong cùng một cái sân ở bến Quân-trại. Tôi tìm đến nơi đó. Bà chủ bằng lòng cho tôi thuê lại. Tuy-nhiên bà bảo tôi bà không thể nấu ăn cho tôi được vì bà ốm. Nhưng điều đó không cần cho tôi lắm. Vì vấn đề ăn, tôi cho là việc phụ hay là việc không đáng kể từ khi tôi chắc đã có bánh ăn.

Bà chủ nhà rất tử-tế và có lòng thương người nên tôi lại nhớ đến mẹ tôi. Bà góa chồng, hãy còn trẻ, có một con trai lớn hơn tôi hai tuổi. Anh này làm tàu biển và đi sang Ấn-Độ đã tám tháng rồi. Hiện có tin tàu của anh, tàu Na-Tri, nay mai sẽ về tới Hao-Cảng.

Cảnh của bà hơi giống cảnh mẹ tôi, nhưng tâm tính của bà thì giống hệt như mẹ tôi nghĩa là bà không muốn cho con đi biển. Chồng bà mắc bệnh hoàng-đản và mất ở nước ngoài, vì thế lúc nào bà cũng lo-lắng và nhớ con. Bà chỉ mong sau chuyến đi thứ nhất này, con bà thấy vất-vả sẽ chán nghề đi biển và ở nhà với bà.

Bà nóng ruột quá. Mỗi lần tôi ở bến về, vì tôi thường ra bến cả ngày, bà lại hỏi:

– Thời-tiết thế nào? Gió chiều nào? Có nhiều tàu về không?

Hành-trình từ Ấn-Độ về Pháp xa lắm, nên ngày về thất thường. Tàu Na-Tri có thể tới nơi, hôm nay hay ngày mai, mà cũng có thể tới nơi trong nửa tháng hay một tháng nữa không biết chừng.

Tôi ở nhà bà đã gần một tuần-lễ, bệnh bà thấy mỗi ngày một nặng thêm. Những bà con đến thăm cho tôi biết bệnh bà trầm-trọng lắm và bác- sĩ đã chê rồi. Thực vậy mỗi ngày bà một yếu, một xanh đi và nói không ra tiếng. Mỗi khi tôi vào buồng bà để báo tin thời-tiết, thấy bà nằm liệt trên giường mà tôi ái-ngại.

Sau trận bão tai hại vừa qua thì tiết trời lại đẹp hơn bao giờ hết. Biển yên lặng như những ngày mùa hạ mà có phần êm-lặng hơn nữa.

Sự êm-lặng đó làm bà thất vọng. Mỗi lần tôi nhắc lại câu đã nói hôm trước “ không có gió”, bà lại lắc đầu đau-đớn:

– Trời độc-địa quá! Tôi sẽ không được nhìn mặt con tôi!

Bà con hàng xóm khuyên bà không nên nghĩ quẩn và đem những câu nguời ta thường nói đối người ốm để an-ủi bà, nhưng bà không chịu và cứ lải-nhải:

– Nhất-định tôi không được nhìn mặt con tôi!

Mắt bà đẫm lệ làm cho mọi người muốn khóc. Tôi không rõ bệnh-tình bà thế nào, nhưng nghe người ta nói thì bà không sao sống được nữa. Nên tôi cứ phải hỏi dò ở ngoài trước rồi mới dám bước vào phòng thăm bà.

Một buổi sáng, hôm đó là thứ ba, tôi ở bến về ăn cơm. Khi qua phòng bà, tôi hỏi nhỏ bà hàng xóm như thường-lệ. Bà này bảo:

– Sáng nay bác-sĩ đã đến.

– Bác-sĩ bảo sao?

– Bác-sĩ bảo bà ấy không sống qua ngày hôm nay.

Tôi không dám vào thăm bà. Tôi liền tụt giầy, đi chân không để khỏi làm động. Nhưng khi tôi đi qua cửa, bà nghe tiếng bước của tôi, bà gọi yếu ớt:

– Do-Mạnh!

Tôi chạy vào thấy người em gái bà đang săn sóc bà. Bà này ra hiệu bảo tôi ngồi xuống, nhưng bệnh-nhân gọi tôi đến bên giường. Bà nhìn tôi, tôi hiểu ngay và nói:

– Trời vẫn thế.

– Không có gió?

– Không

– Có tàu nào về?

– Có tàu Lít-Bon, tàu Sông-Xen, còn toàn thuyền đánh cá.

Tôi nói vừa hết câu, bỗng cửa mở mạnh, chồng bà em gái, làm thợ ở bến tàu vào. Ông ta có vẻ bối-rối. Ông nói:

– Tàu Lít-Bon đã về.

– Phải, Do-Mạnh vừa nói.

Bệnh nhân trả lời một cách chán-nản. Đồng-thời, bà nhìn thẳng vào mắt ông kia vì mặt ông có vẻ bất thường và hỏi:

– Trời ơi! Gì nữa?

– Vâng, phải, có một tin nữa… là tàu Lít-Bon có gặp tàu Na-Tri ở cù-lao Sanh, bình yên cả.

Lúc đó, bà nằm thẳng trên giường, da xanh nhợt và hết sinh-khí, người ta tưởng bà sắp chết. Nhưng không, bà chống tay nhổm dậy, nói:

– Trời ơi! Trời ơi!

Mắt bà đã mờ bây giờ sáng hẳn lên. Và mặt bà đỏ bừng lên.

Bà hỏi từ đảo Sanh đến Hao-Cảng, tàu Na-Tri phải đi hết bao lâu? Thực là khó trả lời: hai ngày nếu thuận gió, sáu ngày, tám ngày nếu không có gió. Tàu Lít-Bon đi mất 30 tiếng đồng-hồ thì tàu Na-Tri ngày mai có thể tới bến.

Bà sai người đi gọi bác-sĩ, bà nói:

– Tôi cố sống đến lúc đó. Tôi không muốn chết mà không được trông thấy con tôi.

Sức khỏe, trí-khôn và nghị-lực đã hoàn lại trong người bà. Bác-sĩ thấy thế cũng phải ngạc-nhiên.

Nhà bà là thứ nhà của những người nghèo. Căn mà bà đang nằm vừa dùng làm bếp, vừa dùng làm buồng ngủ.

Sau nửa tháng chủ-nhân nằm bệnh, cửa nhà bừa bãi đó là sự thường: nào chai lọ, nào ấm, chén và trăm thứ lặt vặt để ngổn-ngang và đầy bụi bặm. Nói đúng ra thì bệnh-nhân không có người trông nom thường-trực vì chỉ có những bạn bè, những hàng-xóm và người em gái, họ đến giúp đỡ vài giờ rồi ai lại về nhà nấy, kẻ bận việc nhà, người bận trông con.

Bà nhờ chúng tôi quét dọn, xếp-đặt cho căn buồng được ngăn nắp và sạch-sẽ. Bà cũng bảo mở cửa sổ ra, bà em gái sợ gió lạnh không nghe, bà kêu nài:

– Không việc gì cho tôi đâu. Cứ mở ra. Tôi không muốn cho con tôi khi về thấy mùi bệnh tật.

Con bà bao giờ về? Thời-tiết không thay đổi. Trời vẫn yên, không một luồng gió nhỏ thì tàu Na-Tri tiến nhanh làm sao được!

Trong những thương-cảng, người ta thường có lệ niêm-yết những tàu sắp tới. Nhưng ở Hao-Cảng thì tin-tức phải lấy ở mũi Hiên về rồi người ta mới yết-thị cho công-chúng biết. Bà nhờ tôi việc xem giúp yết-thị. Tôi vui lòng nhận ngay. Cứ mỗi giờ tôi lại đi từ bến Quân-trại đến phố Óc-Lê-Ăng vào hãng Bảo-hiểm đọc yết-thị.

Trời vẫn yên, nên chưa có một con tàu nào về. Mọi tàu đều đổ ở cửa biển Măng cả.

Tuy-nhiên bà không nản lòng. Trời sắp tối, bà nhờ chúng tôi khiêng giường bà đến cạnh cửa sổ để nhìn cái chong-chóng chỉ gió ở nóc nhà đối-diện, vì bà biết gió sắp lên. Nếu là lúc thường thì chúng tôi đã phì cười vì trong đêm trăng, cái chong-chóng hiện rõ hình đen trên nền trời xanh, đứng trơ như bị gắn chặt vào đầu trụ.

Đêm đó, bà em gái ở lại săn-sóc bệnh-nhân. Bà giục tôi đi ngủ. Nửa đêm, những tiếng kèn-kẹt lạ tai làm tôi thức dậy. Thì ra tiếng chong-chóng quay và xiết mạnh vào thân sắt: gió đã lên.

Sáng dậy, tôi chạy ra biển. Biển bắt đầu rào-rạt. Gió bắc thổi về mát lạnh. Một người lính đoan trông chiều trời và nói chuyện với tôi rằng gió còn to và sắp đổi sang gió tây.

Tôi về nhà báo tin mừng cho bà biết vì gió tây sẽ thuận chiều cho tàu Na-Tri và chỉ nội nhật hôm nay là về tới bến thôi.

Bà nói:

– Em có thấy chăng? Ta nói phải chứ? Ta biết thể nào gió cũng lên. Lạy trời! Cho mẹ con tôi gặp nhau.

Bà em gái kể lại rằng suốt đêm bệnh-nhân không ngủ, nằm thẳng đờ,, mắt dán vào cánh chong-chóng và cứ hỏi đi hỏi lại một câu:

– Mấy giờ nước biển lên?

Bà muốn uống chút rượu vang. Bác-sĩ đã dặn bà muốn đòi gì thì cứ cho bà dùng. Nhưng bà chỉ nhắp được một chút thôi vì bà đuối sức lắm rồi, bà thở hổn-hển khó-khăn.

Bà nói:

– Nó nuôi sức tôi đến lúc đó.

Rồi hai con mắt bà lại trông về phía cây chỉ gió. Bà không nói nữa. Thỉnh-thoảng lại lẩm-bẩm:

– Giang, con ơi!

Giang là tên con trai bà.

Khi trời tờ-mờ sáng, bà gọi tôi lại cạnh giường bảo:

– Em đến hàng thịt mua giúp tôi ba cân thịt bò ngon và một bắp cải nữa.

Bà em gái ngăn lại:

– Bắp cải, chị ăn sao được?

– Không. Đó là mua cho thằng Giang. Nó thích ăn những thứ đó lắm. Đã lâu, chắc nó không được ăn. Tiền đây.

Bà khó-nhọc thò tay xuống dưới gối kéo ra một đồng 100 xu, đưa cho tôi. 7 giờ sáng, bác-sĩ đến, xem mạch lại và tuyên-bố rằng bác-sĩ chưa bao giờ trông thấy cái nghị- lực của con người lại chống được với cái chết như trường-hợp này. Bây giờ bệnh-nhân chỉ sống bằng ý-lực và hy-vọng thôi. Bà đã sống được đến giờ phút này, tất bà có thể sống đến hết ngày hôm nay, đến lúc nước triều xuống chẳng hạn.

Đến giờ công-sở mở cửa, tôi ra phố Óc-Lê-Ăng. Nhiều tàu có tên trong yết-thị, mà tàu Na-Tri thì không. Từ 8 giờ sáng, đến 3 giờ chiều tôi phải đi lại đến 20 lần để dò tin- tức. Sau cùng, đến 3 giờ, tôi đọc trên yết-thị: Tàu Na-Tri, ở Can-quít-ta về.

Tôi vội-vã về báo tin mừng vì bệnh-nhân xem ra mỗi lúc một đuối dần. Cái thất-vọng không thấy con về lúc nước triều dâng buổi sáng làm cho bà suy-tổn rất nhiều. Được tin tàu Na-Tri về, thần-sắc bà sáng hẳn lên. Bà hỏi:

– Mấy giờ nước lên?

– Sáu giờ.

– Tôi có thể đợi được đến lúc đó. Cho tôi chút rượu.

Tôi ra bờ đập xem. Ngoài khơi có hơn hai mươi chiếc tàu bỏ neo đợi nước triều lên để vào bến.

Đúng 4 giờ, những tàu nhẹ bắt đầu vào trước, còn tàu Na-Tri trọng-tải nhiều, nên đến 5 giờ mới vào được bến.

Tôi chạy một mạch về nhà, chưa kịp nói, bà đã hỏi:

– Về rồi?

– Vâng, tàu đang vào bến.

Bà bảo em gái:

– Đỡ tôi dậy.

Bà em gái đỡ bà ngồi tựa vào những chiếc gối. Mắt bà còn sống, nhưng môi bà đã nhợt-nhạt rồi.

Mười lăm phút sau, có tiếng chạy ở ngoài, con bà đã về. Bà cố ngồi dậy để ôm con vào lòng. Hai mẹ con đều khóc.

Đúng như lời bác-sĩ tiên đoán, bà tắt thở ngay đêm hôm ấy khoảng 11 giờ, lúc nước triều xuống sau khi đã trối-trăng với người con yêu dấu.

Lòng thất-vọng của một người mẹ xa con, sức phấn-đấu với tử-thần, tình mẫu-tử và cái chết của một người mẹ đã gieo vào lòng tôi một cái gì mà những lời khẩn-khoản của Diệp-Lan và cái nạn đắm tàu Ô-Rê-Nốc đã không làm được.

Mẹ tôi có thể rồi cũng sẽ chết không trông thấy tôi. Là lần đầu tiên trong đời tôi mà tôi trông thấy, tôi cảm thấy viễn-ảnh đó.

Suốt đêm tôi không ngủ được. Ý-nghĩ đó làm tôi nghẹn-ngào, khó thở. Tàu A-Ma-Dôn tám ngày nữa thì khởi hành. Tàu Hồng-Lư năm giờ sáng nay sẽ nhổ neo. Óc phiêu-lưu và sự sợ chú tôi đã đưa tôi xuống tàu biển, nhưng tình thương mẹ đã kéo tôi trở về Thiên-Cảng. Tôi cứ về, chú tôi sẽ không ăn thịt được tôi. Tôi đã chống được cái đói, cái rét, chống được phong-ba, thì với lòng can-đảm, tôi cũng sẽ có thể chống lại ông chú ác-nghiệt. Mẹ tôi không muốn cho tôi đi biển, là vì mẹ tôi có quyền giữ tôi. Hỏi tôi có quyền trốn đi, không có sự thỏa-thuận của mẹ tôi không? Không biết mẹ tôi có ghét tôi khi tôi trở về không? Và nếu tôi không trở về thì ai là người săn-sóc mẹ tôi khi người già-yếu không làm lụng được?

Đồng-hồ đánh 4 giờ, tôi trở dậy thu-xếp quần-áo. Bốn giờ rưỡi, tôi xuống tàu Hồng-Lư. Năm giờ tàu rời Hao-Cảng. Và ba mươi sáu giờ sau, vào lúc hoàng-hôn thì tôi trông thấy những ngôi nhà thứ nhất của làng tôi.

Tàu đến bến, tôi theo con đường tắt trên bãi hoang, tức là con đường dạo trước tôi về với Diệp-Lan. Nhưng đã sang mùa, con đường trông khác hẳn. Cỏ lên xanh, những ngọn kim-tước nở hoa. Trong đám rêu ở đáy hào, những cây đồng-thảo lá xanh chen hoa tím. Từ dưới đất, từ trên cành, sau một ngày nóng-nực, một mùi hương thoang-thoảng đưa lên làm nở ngang lá phổi và khoan-khoái tinh-thần.

Không bao giờ tôi thấy mình được sung-sướng và vui-vẻ như ngày hôm nay. Tôi sắp trông thấy mẹ tôi.

Tôi nhảy qua hào sang bờ giậu. Cách tôi chừng hai mươi bước, Diệp-Lan đang gỡ những mùi-xoa phơi trên dây.

– Diệp-Lan!

Nàng quay lại nhưng không trông thấy tôi, vì tôi nấp ngoài giậu cây.

Tôi nhìn thấy nàng vận quần-áo tang.

Sao lại để tang? Để tang ai? Tôi hỏi luôn:

– Má đâu?

Diệp-Lan ngơ-ngác chưa kịp trả lời thì mẹ tôi hiện ra trên thềm, tôi mừng quá. Nhưng phía sau mẹ tôi lại hiện ra một ông già râu bạc và dài, ông Biên-Gia. Ông đã chết rồi, sao lại có đây? Mắt tôi mờ lại: Hay là hai bóng ma?

Ngay lúc đó, ông Biên-Gia hỏi:

– Diệp-Lan! Gì thế?

Ông Biên-Gia nói được, thế thì ông còn sống. Tôi không nghi-ngờ nữa. Tôi xé giậu len qua đám kim-tước vào sân:

– Mẹ ơi!

Tôi giơ mũ lên cho mọi người nhìn rõ và chạy lại ôm sầm lấy chân mẹ, tôi gục đầu vào lòng mẹ tôi như ngày còn thơ.

Mối xúc-động đã yên, tôi kể lại chuyện phiêu-lưu của tôi sau ngày từ-biệt Diệp-Lan.

Nhưng tôi nóng biết tại sao ông Biên-Gia đã chết rồi sống lại mà đứng trước mặt chúng tôi được, nên tôi chỉ nói vắn-tắt chuyện của tôi bằng mấy câu.

Chuyện ông Biên-Gia rất giản dị.

Khi thuyền ông ở đảo Rinh về thì gặp bão, thuyền đắm ông bám được tấm gỗ. Ông đang bập-bềnh giữa biển thì gặp một chiếc tàu Mỹ ba-buồm từ Hao-Cảng về Cựu- kim-Sơn. Vị đó lại không muốn đuổi ông lên bất cứ một bến của nước nào và đợi khi gặp tàu Pháp sẽ giao trả ông về quê hương. Vì thế, ông bắt buộc phải theo tàu Mỹ về Ca-li-phóc-Ni. Cuộc hành trình này dài tới năm, sáu tháng. Đi đường không gặp chiếc tàu Pháp nào nên khi qua Hải-giác-ôn, ông Biên-Gia có gửi cho chúng tôi một bức thư và bỏ vào thùng thư mà những người đi biển đặt ở Hỏa-Đảo. Nhưng lá thư đó không bao giờ đến nơi. Đến Cựư-kim-Sơn, ông phải đi xuyên nước Mỹ qua những đồng cỏ bao-la và đã trở về Pháp được hai tháng nay.

***

Tôi không làm lính thủy.

Bác tôi ở Ấn-Độ mới mất, vì thế gia-đình tôi phải để tang. Bác tôi để lại một gia-tài lớn cho chúng tôi và chú tôi, nhờ đó chúng tôi trở nên sung-túc.

Ông Biên-Gia lại muốn đưa tôi về Hòn-Gianh để tiếp-tục việc giáo-dục cho tôi. Còn Diệp-Lan, mẹ tôi cho vào học tại một trường có ký-túc-xá.

Muốn biết nàng đã hưởng-thụ một nền giáo-dục lương-hảo thế nào, muốn biết nàng đã trở nên một người vợ đảm, một người mẹ hiền, xin quý-vị hãy để ý xem xét nàng lát nữa sẽ trở về với hai con nhỏ – con chúng tôi – một trai và một gái. Chúng yêu ông Biên-Gia như ông nội. Ngày nào chúng cũng đến Hòn-Gianh để thăm ông.

Chính tôi, tôi không đi biển nhưng tôi vẫn thích những cái gì dính-dáng đến nghề đi biển. Trong số 30 chiếc tàu ở Thiên-Cảng hàng năm được trang-bị để đi đánh cá tại đảo Tân-địa, thì 6 chiếc thuộc về tôi. Mẹ tôi vẫn ở Thiên-Cảng và vẫn ở ngôi nhà cũ của cha tôi để lại. Tôi đã sửa lại hai lần cái mui tàu cũ ở cạnh nhà tôi để giữ nguyên cảnh sắc ngày xưa. Bức họa mà quý vị nhìn kia chính là hình-ảnh ngôi nhà chúng tôi. Đấy là do tay họa-sĩ hay “họe-sĩ ” Lư-Sinh vẽ. Họa-sĩ trở nên bạn thân của gia-đình chúng tôi. Mỗi năm, họa-sĩ về nghỉ hè hai tháng ở nhà chúng tôi. Họa-sĩ đã cố sức, mà không sao tìm trong vùng được một người cảnh-sát để bắt họa-sĩ.

Ông Biên-Gia năm nay đã 92 tuổi. Tuổi-tác không làm cho ông kém sức-khỏe hoặc kém sáng- suốt. Lưng ông hơi còng, nhưng lòng ông vẫn trẻ và tốt. Cây ông trồng đã mọc xanh-tốt và trên cù-lao Gianh, về phía ít gió, cây-cỏ rậm như rừng, về phía tây, ông vẫn nuôi cừu đen và nguyên một giống bò và thỏ như ngày xưa. Những con hải-âu vẫn đến bay lượn trên hòn đảo.

Đành rằng cái gia-tài của bác tôi để lại đã đến đúng lúc với chúng tôi, nhưng nếu không có ông Biên-Gia, không có những bài học của ông, không có tấm gương sáng của ông, không có sự chăm-nom của ông, không có sự chỉ dẫn của ông thì hôm nay tôi chỉ là một anh trọc-phú quê-mùa không hơn không kém, vì tiền của không đào-tạo nên con người.

Nếu câu nói trên cần có căn-cứ thì cái gương của chú Xi-Mông tôi hãy còn sờ-sờ kia dùng để chứng-minh được.

Gia-tài của bác tôi để lại thêm vào vốn của mình, số tiền lớn đó đã làm chú tôi cuống-cuồng lên. Chú tôi giàu to rồi không cần bóc-lột những dân quê nữa, vì lợi-tức không được mấy. Chú tôi đâm vào những công-cuộc đầu-cơ lớn-lao. Nhưng ở đây, có nhiều người dóc-tổ và giảo-quyệt hơn chú tôi nên không được mấy năm, những bạn công-ty với chú tôi đã làm cho chú tôi khánh-kiệt gia-tài, đến nỗi chú tôi đã phải bán hết gia-sản: nào phòng chạy việc, nào nhà ở Đôn, một dinh-cơ chú tôi đã tốn bao nhiêu mồ-hôi nuớc mắt để gầy dựng lên, thế mà còn thiếu một vạn phật-lăng nữa mới đủ trang-trải hết nợ.

May sao lúc đó, tôi vừa đúng 18 tuổi, pháp-luật cho tôi quyền sử-dụng số tiền của bác tôi đã chia cho. Theo lời khuyên của mẹ tôi, tôi muốn giúp đỡ chú tôi trong lúc thất-cơ lỡ-vận. Nhưng chú tôi không nhận lời đề-nghị của tôi. Sau tôi phải giấu chú tôi, trả hết các chủ nợ. Được tin đó, chú tôi chạy đến và mắng tôi một mẻ thậm-tệ:

– Đồ ngu! Có tiền không biết dùng!

Hiện giờ tôi vẫn trợ-cấp cho chú tôi, nhưng trợ-cấp bằng một cách gián-tiếp. Thoạt tiên, tôi dành mỗi năm cho chú tôi một món tiền để di-dưõng tuổi già. Không bao lâu, người ta cho chúng tôi biết đáng lẽ dùng tiền đó để ăn thì chú tôi nhịn ăn đói để tiền cho vay lãi và buôn những đồ cũ. Vì thế, bây giờ chúng tôi nhờ vả trả tiền một người bà con rất tử-tế nhận nuôi chú tôi. Tôi đã giữ cẩn-thận thế mà chú tôi vẫn còn chịu thiếu thốn để ký-cóp tiền: chú tôi bán những bộ quần-áo mới của chúng tôi may cho và chỉ mặc quần-áo rách.

Khi chúng tôi than-trách thì chú tôi bảo chúng tôi hoang-phí lắm, có ngày hết nghiệp và lúc đó, chúng tôi mới sung-sướng thấy món tiền mà chú tôi đã khôn-ngoan dành-dụm.

Saigon, ngày 2-5-1960

HÀ MAI ANH