Chương 1
Tiếng trống: Thùng! Thùng! Thùng!… rền vang báo hiệu giờ ra chơi. Tiếng động lào xào xếp sách vở, tiếng chân chạy sầm sập, tiếng nói cười đùa giỡn vang rân của đám học sinh, từ các lớp túa ra ngoài sân, trong phạm vi trường học, tạo thành thứ âm thanh hỗn tạp. Tôi còn đang nhăn nhó, vì vết trầy rướm máu trên gần cùi chỏ bên cánh tay phải, thì cô giáo gọi:
– Thể Hà, đang làm gì đó? Sao không ra chơi? Tay em làm sao vậy? Lên đây cho cô xem.
Tôi dạ rồi riu ríu đi lên bục giảng. Cô giáo thấy máu thấm áo lộ ra ngoài giật mình, hỏi:
– Chuyện gì vậy Thể Hà? Trời ơi, máu ra thấm tay áo rồi! Sao em không đi băng bó lại? Để nó nhiễm trùng làm độc thì phiền lắm đó. Đến đây, cô lấy thuốc băng lại cho. Tại sao vậy? Chạy giỡn té hả?
Tôi lí nhí trong cổ họng:
– Dạ thưa cô không phải. Hồi nãy, em đi lấy chồng sách ở văn phòng cho cô, thì bị con nhỏ Thái Vân bên lớp bốn một đụng nhầm, nên em té, bị rách áo trầy da.
Cô giáo đi đến tủ lấy hộp thuốc cấp cứu của lớp, để lên bàn rồi lấy băng keo, thuốc đỏ ra. Cô vén tay áo cho tôi, vừa thoa thuốc sát trùng những vết trầy vừa băng lại. Cô nói:
– Con nhỏ Thái Vân thật vô ý vô tứ, lúc nào cũng chạy ào ào như ma đuổi. Nó lại nói cười ha hả như con trai. Em có đau lắm không? Cô băng xong rồi, ở đây không có thuốc, về nhớ uống viên Aspirine, thì sẽ dễ chịu hơn nhiều nghen Thể Hà.
Tôi cảm động những lời lẽ chân thành của cô giáo. Vết trầy không đau lắm, nhưng mắt tôi nhuốm đỏ. Cô giáo chợt hỏi:
– Trên hành lang trường rộng rãi. Nó chạy đi đâu mà bổ nhào vô em như vậy?
Tôi thỏ thẻ trả lời:
– Thưa cô, có lẽ gấp quá nên nó chạy đụng phải em. Đụng em nó cũng té lăn cù. Khi em và nó thu nhặt sách vở rớt bừa bãi trên nên xi-măng thì nó xin lỗi em, và cho em biết là má nó bị bịnh chi đó mà được chở vào bịnh xá. Thưa cô, nó chỉ nói vậy thôi rồi chạy riết về nhà.
Cô giáo mở to mắt ngạc nhiên:
– Vậy sao? Thôi em về chỗ ngồi. Hôm nay hãy ở trong lớp, đừng ra ngoài chơi. Mấy đứa nhỏ khác ưa chạy giỡn lung tung, lại đụng phải em làm em té thêm một lần nữa.
Thuở đó tôi ngồi lớp bốn trường Tiểu học. Tóc xõa lược cài. Mấy con bạn cùng lớp cùng trường có đứa uốn tóc. Phần nhiều thì hớt bum bê cắt bằng trước trán, có người còn gọi là cắt mành tương trước trán. Có đứa tóc xõa dài cũng cắt mành tương trước trán giống mái tóc của Nữ hoàng Ai Cập Cleopatra. Bọn nữ sinh chúng tôi mặc đồng phục áo bà ba, áo tay phùng dài hay ngắn cũng được, nhưng phải là màu trắng. Quần bằng sa teng, mỹ a, hay vải săn-đầm, vải ú… Và phải là màu đen.
Trong trường, học sinh thuở đó không được dùng viết BIC để viết. Thầy cô giáo nói viết chấm ngòi lá tre, ngòi muỗng, hay viết bôm mực cho học trò viết để giữ nét chữ đẹp. Con gái hay dùng mực tím. Con trai dùng mực xanh dương sậm, mực đen. Viết chấm vào bình mực, mực dính vào ngòi khi nhiều, khi ít. Cho nên dù kỹ cách mấy đi nữa, thì mấy ngón tay tụi tôi lúc nào cũng dính mực tèm lem, và áo trắng đứa nào cũng bị dính mực lốm đốm không nhiều thì ít. Mỗi lần giặt áo, phải ngâm áo trắng với nước pha “eau-de-Javel” ( nước tách) mới phai được vết mực.
Tôi ưa ăn mặc gọn gàng, sạch sẽ, chân luôn mang guốc sơn màu lá cẩm, hoặc màu cà-phê sữa nhạt có vẽ hình chiếc thuyền, cô lái đò… Quai guốc bằng nhựa mềm, trong vắt có vẽ hoa, vẽ bướm. Tôi bao tập, sách, bằng giấy kiếng màu đỏ, màu xanh ve chai trong suốt. Tôi viết chữ luôn gò gẫm, nắn nót và lúc nào cũng dùng giấy chặm màu hồng phấn, màu tường, chặm cho mực mau khô khỏi lem, để không bị cô giáo trừ điểm, như con Nguyễn Thị Bé Năm ngồi bàn dưới, ngày nào cũng bị cô giáo quở phạt vì tập vở lem luốc. Tập vở tôi giữ lúc nào cũng sạch sẽ lắm, nhưng chữ viết không được đẹp. Học thì hơn trung bình, trội nhứt là làm bài tập làm văn. Thế mà chơi đánh đũa, nhảy nhà, nhảy dây, đánh búng hột me hay hột ô môi thì đố đứa bạn nào qua mặt tôi!
Con Thái Vân chơi mấy thứ đó cũng không kém tôi. Nó còn gan hơn tôi, dám đánh trõng, đánh đáo, thảy lỗ, tán u với bọn con trai. Những thứ thường là bọn trai chơi, mà nó chơi cũng hay lắm. Chúng tôi hãy còn giữ cái tâm hồn trắng trong của tuổi hồng thơ ấu.
Từ năm lớp ba tôi và Thái Vân luôn dự vào phần văn nghệ của trường. Chúng tôi hát, múa… vào dịp lễ phát phần thưởng cuối năm học. Nhỏ Thái Vân oai phong trong các vũ điệu vung gươm, múa kiếm với động tác hùng tráng ngoạn mục theo điệu những bản nhạc: Trưng Nữ Vương, Bạch Đằng Giang, Cô Gái Việt… Tôi thì dự vào những điệu múa quạt, múa nón, múa lụa… Động tác lả lướt, mềm mại, dịu dàng, nhưng không được tán thưởng như nó.
o O o
Ở chợ quận nầy, ngoài những nhà lầu, nhà trệt tọa lạc mất trật tự trong khu chợ sầm uất bán buôn, thì có vài chục ngôi nhà dành cho công chức như: thầy giáo, các nhân viên làm ở Chi Y tế, Chi Điện lực, Chi Bưu điện, Chi Công chánh, văn phòng quận, Chi cảnh sát giữ an ninh và trật tự cho quận nhà. Vì phạm vi châu thành quận nhỏ hẹp, nên những người làm việc ở các cơ quan chánh quyền sống nơi nầy, gần như đều quen biết với nhau cả.
Ba tôi làm trưởng Chi Y tế, khi quận mới thành lập, cho đến nay hơn bảy năm rồi. Quận nầy trước kia là làng An Hữu, một trong những làng xã trù phú trực thuộc quận Cái Bè, tỉnh Mỹ Tho. Sau đó làng An Hữu được tách rời, lập thành quận và lấy tên là quận Sùng Hiếu. Từ Sàigòn xe chạy về miền Tây, trên Quốc lộ Bốn, trước khi tới chợ quận thì bên phải là Chi Y tế. Chi Y tế là một ngôi nhà gạch lớn, được xây trên mảnh đất ruộng, mới đắp lên thành nền và đường đi. Tôi không biết Chi Y tế được xây cất từ bao giờ, đường từ Quốc lộ Bốn vào Chi khoảng chừng ba trăm thước, thường thì bịnh nhân nhẹ đi bộ đến khám bịnh, xin thuốc. Văn phòng làm việc của Chi hết sức đơn giản, gồm có: vài chiếc ghế đẩu, hai chiếc bàn con. Một ghế cho ba tôi, cái ghế cho bịnh nhân ngồi đối diện để ông hỏi bịnh. Cái giường bằng sắt nhỏ để bịnh nhân nằm khi khám bịnh, và chiếc màn vải trắng chắn ngang. Góc phải, ở cửa bước vào là bàn ghế của cô thư ký để làm giấy tờ cho bịnh nhân trước khi đưa vào gặp ba tôi.
Trại cho bịnh nhân tạm nằm, chỉ có bốn cái giường một người nằm, bằng vạt cây. Sau cánh cửa gỗ cách ly các giường bịnh nối liền là nhà bếp, nhà tắm và nhà vệ sinh. Bịnh xá của Chi vỏn vẹn có ba tôi, cùng cô nữ Hộ sinh, ông y công, bốn người y tế xã và ông tài xế, với chiếc xe cũ kỹ đậu chình ình trước sân, mà có khi cả mấy tuần chưa rờ tới. Chi Y tế đơn sơ như vậy không phải làng xã quận nầy nghèo? Không đâu, bịnh nhân ít khi lui tới, dân chúng làng nầy có tiền nên khi bịnh thì họ đi bác sĩ tư, hoặc xuống tỉnh trị bịnh ở bịnh viên lớn dưới Mỹ Tho, hay qua thành phố tỉnh Vĩnh Long cho tiện, vì từ An Hữu qua bắc Mỹ Thuận, xe chạy chừng vài cây số thì đến thành phô Vĩnh Long ngay.
Không khí quận lỵ xa chốn thị tứ, bao giờ cũng êm đềm nhưng buồn bã, đìu hiu trong cơn mưa chiều dai dẳng, mùa nước ngập hay chạng vạng tối. Trên lộ ngang qua Chi Y tế, thỉnh thoảng có chiếc xe hơi tàu mo, xe mô-bi-lết chạy vụt qua. Tiếng máy nổ tành tạch phá tan bầu không khí yên tĩnh.
Tôi thích những ngày cuối tuần, ngày lễ nghỉ ba tôi hay dẫn tôi đi bắc Mỹ Thuận. Lúc tôi còn nhỏ, ba tôi hay dắt đi chợ Vĩnh Long phải qua ngang sông Mỹ Thuận. Sông Mỹ Thuận là dòng sông chia ranh giới tỉnh Mỹ Tho và tỉnh Vĩnh Long. Sông có chiều ngang rộng và dài ngút ngàn, tầm mắt thường không sao nhìn thấy chiều dài nó chạy đến đâu. Đây là sông Tiền Giang, khi đến Vĩnh Long rẽ vào nhánh sông Cổ Chiên. Đây cũng là một trong những con sông huyết mạch lớn nối dài từ các tỉnh miền Tiền Giang và Sàigòn. Thật sự mỗi lần xuống bắc để qua sông, tôi luôn ôm quíu, hoặc nắm chặt hai tay ba vì sợ hãi dòng nước đục màu phù sa cuồn cuộn chảy bên dưới. Từ bến bắc bên nầy, phía lên Sài Gòn thì thuộc tỉnh Mỹ Tho. Bến bắc bên kia thuộc tỉnh Vĩnh Long. Năm xửa năm xưa lúc tôi còn nhỏ, thì chiếc bắc có lẽ được chế tạo từ thời Pháp thuộc, cũ kỹ, ọp ẹp chạy xìn xịt nặng nề mà chỉ chở được chừng bốn chiếc xe đò Thuận Thành chạy liên tỉnh Sàigòn về miền Hậu Giang, còn xe nhỏ thì chen chúc được năm, sáu chiếc, ken vào vài chiếc xe đạp, xe Vespa hay xe gắn máy.
Miền Nam mưa nắng hai mùa, vào mùa nắng thì đỡ một chút, mùa mưa hành khách không đem theo dù, nón, hoặc áo đi mưa, gặp mưa thì bị ướt loi ngoi, vì chiếc bắc nầy không có mui. Bên trên cao chỉ có chỗ che nắng mưa mà người ta thường gọi là cái chuồng cu cho người tài công mà thôi. Bên dưới có song sắt ngăn, dành chỗ cho hành khách đứng. Khoảng giữa rộng, lộ thiên để xe hơi đậu, ở đầu và cuối chiếc bắc có hai sơi dây lòi tói lớn, dầy và rất nặng mắc cao hai bên để nhắc nhở tài xế, hành khách không được ra quá lố sẽ nguy hiểm. Bên trên chỗ xe đậu là chỗ hành khách đứng, đều trống không, nhìn thấy khoảng trời bao la lộng gió. Bắc chỉ có chiếc qua, chiếc lại. Xe thì nhiều, hành khách thì đông, cho nên hai bên bến bắc lúc nào cũng bị kẹt. Xe chờ qua bắc đậu bên lề dài có khi gần hai ba cây số. Hành khách phải xuống xe để đi bộ qua bắc. Nên nơi đây lúc nào cũng đông người. Và các cửa hàng buôn bán càng ngày càng mọc nhiều thêm, càng ngày càng sầm uất hơn, nhứt là các hàng quán bán đồ ăn và bán nước giải khát.
Mỗi lần khách đường xa ngồi xe bị dằn xóc, và bị nhiễm gió mái, ê mông, mỏi lưng, mỏi chân vì ngồi không được thong thả, hoặc đứng một chỗ suốt khoảng đường dài. Cái cảm nhận đầu tiên của họ khi bước xuống xe, dừng lại ở bến bắc Mỹ Thuận, là mùi thơm hấp dẫn của các món ăn. Cùng với tiếng rao mời hàng. Tiếng quát tháo tránh đường của kẻ vác, người bưng. Tiếng chú lơ xe mời hành khách lên xe nhanh chân cho kịp chuyến. Tiếng mẹ gọi tìm con. Tiếng chào hỏi hối hả của hai người quen gặp lại nhau trong chuyến xe ngược chiều. Cảnh giã từ bịn rịn của những kẻ tiễn người đưa… Hỷ nộ ái ố đều có ở đây, đã tạo nên một không khí hết sức đặc biệt. Mà tôi nghĩ rằng, chỉ nơi bến bắc Mỹ Thuận ở nước Việt Nam mới có cảnh ấy mà thôi.
Tất cả các bánh, trái, những món ăn đặc trưng của miền Nam cũng được bày bán ở bắc Mỹ Thuận. Thường thì mỗi năm, vào những ngày cận Tết, ở thôn quê nhà nhà tráng bánh tráng ngọt, bánh tráng dừa… Để những đêm xuân, gió hiu hiu lành lạnh, gia đình ngồi quanh bếp than hồng, nướng bánh tráng dừa ăn cặp với chuối ngào đường, hay đậu phọng ngào đường bày lên mặt bánh, ăn bánh rồi uống nước trà Tàu, kể những chuyện vui xa xưa… Bánh tráng nhúng nước để làm gỏi cuốn, cuốn bì, nem. Bắc Mỹ Thuận bán quanh năm, suốt tháng các loại bánh tráng. Ngoài ra còn có bánh phồng nếp, bánh phồng khoai cán trộn với sữa và nước cốt dừa, ăn sống thì không chê vào đâu được. Chim quay, thịt heo quay, tôm càng nướng, cá bông lau nấu canh chua… Đủ các món ăn ngon. Còn trái cây thì có chôm chôm, cam, mãng cầu, xoài, bòn bon, mãng cụt, nhãn, mận… Nhứt là ổi xá lỵ ở đây nổi tiếng nhứt. Da ổi xanh mỏng, ruột trắng, ít hột, dầy cơm, dòn, ngọt.
Đến Bắc Mỹ Thuận tôi có thể ăn bún tôm nướng, com dĩa sườn nướng, hủ tiếu dai Mỹ Thuận với tôm tươi, gan lòng heo. Tôi được ba cho mua chim ốc cao, chim dỏ dẻ quay đem về. Chim quay thì ở đâu chẳng có nhưng món chim quay ở Bắc Mỹ Thuận mới có chim sống làm ăn ngay. Cách ướp mùi vị lại khác biệt hơn những nơi khác. Và ba tôi cũng mua vài lít ốc gạo đem về để hôm sau vú làm món gỏi bắp chuối.
Về sau Mỹ Thuận mới có những chiếc bắc hai tầng, rộng lớn hơn ba bốn lần chiếc bắc cũ. Chiếc bắc lớn tầng dưới chở mười mấy chiếc xe. Tầng trên có những dãi băng ngồi cho hành khách. Những buổi tan trường phất phơ tà áo dài trắng của nữ sinh Trung học Tống Phước Hiệp, chen chúc những tà áo màu tung bay theo gió của nữ học viên trường Sư Phạm Vĩnh Long, trường Mỹ Thuật… Ai mà không cảm thấy tâm hồn lâng lâng khi mặt trời chiếu ẩn hiện trên rặng cây xa. Nước sông Mỹ Thuận lững lờ, sóng nhấp nhô đưa đẩy những cánh hoa hồng tím lềnh mặt nước vào mùa hoa ô môi nở.
Một hôm, ba dắt tôi đi ngang qua ông lão mù. Mắt ông thụt sâu trong hố mắt, chỉ còn mỗi bên trên làn da xạm nắng một gạch ngang, kín mít, không mở ra được. Ông ta ngồi trên manh chiếu rách, cạnh đứa bé trai mặt mày lem luốc, áo quần hôi hám, rách rưới. Trước mặt ông, ngoài manh chiếu có chiếc thau nhôm nhỏ móp méo, dính đơm dính quẹt sình đất. Ông đờn và cất tiếng ca thiết tha, ai oán dễ làm rơi lệ cho khách qua đường. Tôi hỏi ba:
– Ba à, tại sao ông lão nầy ca hát ở đây chi vậy?
Ba tôi bảo:
– Ông hát để xin tiền, những khách qua dường có từ tâm thương người.
Tôi lật đật móc túi ra còn năm cắc cầm trên tay nhìn ba, ba tôi hiểu ý gật đầu. Tôi khum xuống để vào thau cho ông. Từ đó, mỗi lần được ba tôi dắt đi, hay có dịp qua bắc Mỹ Thuận thì tôi luôn nhớ ông. Đến tặng ông chút ít, trong phần nhỏ tiền quà bánh của mình.
Bịnh nhân hàng ngày, đến khám bịnh ở Chi y tế chỉ rải rác năm bảy người. Hôm nào trời mưa, nước ngập thì chẳng có ai.
Vào mùa mưa dầm nước nổi thì nhóc nhen, ễnh ương, ếch nhái kêu uềnh oang cả một vùng, nghe mà buồn thúi ruột…, trừ những trường hợp tai nạn như: đụng xe, Việt Cộng gài mìn, pháo kích vào trường học, vào chợ… có vụ gây thương vong đổ máu, cần cấp cứu, thì họ mới đến bịnh xá của Chi y tế mà thôi. Còn thường như: cảm cúm, nóng lạnh, nhức đầu, dân trong quận đến tiệm thuốc Tàu mua cao đơn huờn tán về uống, hoặc họ ghé nhà thuốc Tây tự mua thuốc. Nhờ thế mà các nhà thuốc Tây, thuốc Tàu, y tá chích theo toa bác sĩ ở trong vùng có cuộc sống rất là sung túc.
Trong châu thành quận nầy, những người quen biết và nhứt là bịnh nhân luôn gọi ba tôi bằng Thầy Tư Nhàn, hoặc bác sĩ Nhàn. Mặc dù ba tôi thật tình không thích phong hiệu gán ghép có chữ bác sĩ trước tên của mình chút nào cả. Nhưng khó mà sửa họ được, họ gọi riết thành thói quen rồi thành danh luôn. Ba tôi chỉ làm việc ở trong Chi Y tế thôi, chớ không có mở chỗ chẩn bịnh cho thuốc tư riêng ở ngoài như những đồng nghiệp ra trường cùng khóa với ba tôi. Họ nhờ vậy trở nên rất là khá giả.
Gia đình hôm sớm xúm xít bên nhau chỉ có ba, tôi và bà vú. Trong những lúc rỗi rảnh, cha con tôi thường hay chuyện trò, tâm sự. Ba tôi thường kể:
– Con vô phước mẹ mất sớm. Nếu má con còn sống thì con là đứa bé sung sướng nhứt trên thế gian nầy. Má con là người đờn bà hiền dịu, đẹp người đẹp nết.
Nói đến đây có lẽ ông bị mủi lòng, uống vội hớp trà ấm để trấn an. Tôi ôm vai ba hỏi nhỏ:
– Ba à, nghe cô Hai con nói là ngày xưa có nhiều gia đình gạ ý với ông bà nội gả con gái họ cho ba lắm. Nhưng ba không chịu, xin ông bà đem trầu cau đến nhà ngoại mà hỏi cưới má. Làm sao ba quen được với má con vậy ba?
Đôi mắt ba tôi thoáng nét buồn, và mơ màng ôn lại thời đã qua, đầy kỷ niệm yêu thương. Ba tôi chậm rãi kể:
– Năm đó, ra trường ba còn rất trẻ, chân ướt chân ráo về làm việc ở quận mới thành lập nầy. Ba buồn lắm, vì cảnh lạ, không có người quen, và nhứt là ba muốn làm ở bịnh viện hơn. Làm ở bịnh viện thì có đầy đủ phương tiện, trực tiếp gặp bịnh nhân hàng ngày, sẽ có nhiều cơ hội học hỏi thêm về chuyên môn. Nhưng Ty Y tế nói với ba, làm ở đây hai năm sẽ thuyên chuyển về bịnh viện.
Tôi nóng ruột:
– Ba à, con chỉ muốn biết tại sao ba gặp má thôi.
Tôi nửa nằm nửa ngồi trên ghế sa-lông, nghĩa là ngồi chiếc ghế nầy mà hai chân thì vắt khèo qua chiếc ghế kế bên kia. Vú tôi từ nhà dưới đi lên miệng cười tươi, tay bưng hai ly nước chanh mời mọc:
– Mời thầy uống nước. Cô Ba uống thử xem, nếu không ngọt cho vú biết, vú sẽ để thêm đường vào ly nước chanh của cô.
Tôi lồm cồm ngồi dậy, bưng ly nước uống ngay gần quá nửa. Khà một tiếng, tôi cười với vú:
– Ngon quá! Vừa ngọt vú à, cảm ơn vú nhen. Trưa nay mình ăn gì vậy vú?
Vú tươi cười trả lời tôi:
– Thì hôm qua cô dặn mình ăn bánh đúc mặn.
Lòng tôi reo vui. Tôi cười hí hởn, hỏi ba:
– Ba à, ba có thích bánh đúc mặn không? Hôm qua con nói với vú làm mà con quên. Bánh đúc mặn ngon lắm đó ba.
Ba tôi chưa kịp trả lời, tôi quay sang bà vú, hỏi:
– Bánh đúc làm cách nào? Kể cho con nghe đi vú.
Bà vú vui vẻ:
– Bánh đúc dễ làm cô Ba à. Ai làm sao không biết, còn tôi thì: Bột gạo quậy với nước cốt dừa và nước xúp nấu bằng xương heo hay xương gà vịt chi cũng được. Tôm, thịt, nấm rơm bằm bể hai bể ba ướp với hành củ, tiêu, muối, đường xào cho vừa chín tới để làm nhưn. Chắt cho ráo nước. Nước nầy cũng để vào bột khuấy chung cho đều. Bột khuấy đều rồi để vào xửng đem hấp như mình hấp bánh ích, hoặc bánh chuối vậy. Canh cho bột vừa chín tới thì rải nhưn và trải ra cho đều. Để lên mặt một lớp bột mỏng bột đã pha hồi nãy còn để dành lại. Nếu bán ngoài chợ thì người làm bánh không để thêm lớp bột lên mặt, vì họ không muốn nhưn chìm trong lớp bánh, họ muốn cho nhưn nằm trên mặt gợi thèm và làm hấp dẫn người khác và dễ bán. Còn ở nhà thì thêm lớp bột trên mặt như vậy, để giữ nhưn không bị rớt ra khi cắt bánh.
Tôi hít hà, cười ngất, cắt ngang lời vú:
– Bánh chín, đem xuống dùng cái xắn giún như mái ngói lợp, xắn ra từng miếng vừa ăn, đơm vào dĩa. Bánh đúc mặn, ăn với nước tương pha chua ngọt, có ớt cay cay thì tuyệt vời hả vú?
Bà vú tươi nét mặt, vừa đi xuống bếp vừa nói:
– Cô biết rồi mà còn hỏi? Sau nầy tôi sẽ mất việc, vì cô đã biết hết nghề của tôi.
Ba tôi để tờ báo xuống bàn, thư thái bưng ly nước chanh uống ngụm nhỏ. Ba tôi thì lúc nào cũng vậy. Chậm rãi, khoan thai, cử chỉ ôn nhã như cái tên Nhàn của ba. Chỉ trong lúc cấp cứu bịnh nhân, ông mới lanh lẹ mà thôi. Ba tôi hỏi:
– Sống với vú, con biết được nhiều món ăn của vú nấu rồi phải không? Chừng nào con gái ba, cho ba ăn đồ con nấu đây? Con còn muốn nghe ba kể về mẹ nữa không? Hay để hôm khác?
Tôi lật đật, ngồi chồm về phía ba tôi:
– Khi lớn lên con sẽ nấu cho ba ăn. Ba à, con đang chờ nghe ba kể chuyện về má. Kể đi ba.
Những lúc cha con tôi rỗi rảnh chuyện trò tâm sự, ông luôn nhắc, luôn kể về má tôi ớ trường hợp nào đó, khía cạnh nào đó có dính dáng đến chuyện chúng tôi đang nói, đang bàn. Tôi tưởng chừng như má tôi đứng hoặc ngồi đâu đây, thật gần gũi với cha con tôi. “Con cá xẩy là con cá lớn”. Câu nói truyền miệng của người đời không biết có đúng không? Mặc dù tôi không biết vóc dáng mặt mũi mẹ mình ra sao, trừ tấm hình bán thân, dán ở thẻ học sinh năm đệ tứ của má tôi, được vẽ truyền thần thờ trên bàn. Nhưng theo lời ba, ông bà ngoại, cô tôi và họ hàng thì má tôi là một người đàn bà đẹp tuyệt vời!
Ba tôi kể về má tôi hoài mà không biết chán, chứng tỏ lòng ba tôi, từ trước đến giờ chỉ có má tôi. Còn tôi thì lúc nào cũng muốn nghe. Mặc dù câu chuyện kể nào đó đã được kể rất nhiều lần, qua bà ngoại, cậu mợ… Nhưng tôi luôn thích thú, và chăm chú nghe, như chưa được nghe trước đó bao giờ. Ba tôi mắt nhìn ra cửa sổ, đôi mắt mơ màng sống trở về ngày xưa xa đó:
– Gần mười năm rồi còn gì! Năm đó, ba về làm việc ở quận nầy. Có một hôm, ba đi Cái Bè họp với một vài người dưới Ty lên. Gặp lại những người bạn cũ thật vui. Họp xong cả bọn kéo ra tiệm ăn trước khi ai nấy trở về nhiệm sở mình. Trên chuyến xe về An Hữu ba gặp má con. Mái tóc dài đen mượt nằm trong vành nón lá của bả, đã gây sự chú ý cho ba. Chuyến xe cuối nên chen chúc hành khách và học trò. Má con trong bộ đồng phục của học sinh Trung học: Áo dài trắng quần đen. Bả lên sau, hết chỗ ngồi đến đứng gần ghế ba ngồi. Thấy tội không biết đường bà đi bao xa, ba xích vào trong gần cửa sổ xe, chừa khoảng trống lớn hơn và mời bả ngồi. Bả ngượng ngùng rồi ngồi xuống bên cạnh ba. Ba chẳng nói năng chi cho mãi đến khoảng lộ giữa làng Mỹ Đức Tây và làng Mỹ Đức Đông thì bả xuống xe. Trước khi xuống xe bả thỏ thẻ lời cảm ơn ba.
Ba tôi dừng lại uống thêm ngụm nước. Tôi thúc hối:
– Nói tiếp đi ba, rồi tại sao ba cưới má?
Để ly nước chanh xuống, ba tôi cười tiếp:
– Con muốn nghe về má dữ vậy sao? Nhìn theo dáng lã lướt của bả đi dưới nắng chiều, lòng ba dao động. Xe vùn vụt chạy và bóng dáng ấy khuất trong cây lá xanh, ruộng lúa chín vàng. Về đến nhà, nhưng trong hồn ba vẫn thấy còn vương vướng niềm vui êm đềm nhưng cũng đủ làm đêm đó ba cứ thao thức hoài. Từ đó, mỗi lần có dịp đi qua khoảng đường má con xuống xe, thì ba nhìn về phía ấy cố kiếm tìm, hình bóng xưa! Hoặc khi về Cái Bè hội họp, ba cố tình chờ chuyến xe cuối ngày để xem coi có gặp lại bả không? Nhưng ba nghĩ đó là bóng chim tăm cá! Cho đến một hôm, má con đến thăm ông dượng rể nằm dưỡng bịnh ở Chi y tế.
Ba tôi đang say sưa kể, bỗng bị tôi ngắt lời:
– Chà, gặp lại má ba mừng quýnh hả ba?
– Gặp lại bả ba tưởng chừng như đã quen thân với bả từ lâu rồi. Câu đầu ba gợi chuyện với má con là: “Cô đó hả?”. Câu chào cụt ngủn và vô duyên hết sức. Má con chỉ cười chúm chím. Ba liền đổi giọng: “Chào cô, bác đây là thân nhân của cô? Sao ông bịnh lâu quá mà bây giờ người nhà mới đưa đến đây?”. Má con đỏ ửng mặt mày trước cặp mắt soi bói của các nhân viên khác. Có lẽ bả cảm thấy có lỗi vì không quan tâm tới sức khỏe của người thân. Má con bảo: “Dạ thưa ông, tôi không biết ổng bịnh bao lâu rồi, nhưng ổng thường đi bác sĩ tư ở tỉnh. Bịnh ổng có nặng lắm không ông? Có cần chuyển đi bịnh viện tỉnh không?”. Ba chợt chạnh lòng, nên dịu dàng bảo: “Khá nặng. Ông cần chuyển đến bịnh viện tỉnh, nơi đó có đầy đủ phương tiện để tìm bịnh mà trị. Cô có thể thay người nhà mà quyết định mọi việc chuyển bịnh cho ông không?”. Giọng ba dù có êm ái, nhưng vẫn làm má con giật mình mở to mắt nhìn ba. Cái nhìn đáng thương, đáng tội nghiệp, làm ba nao nao. Má con bảo: “Dạ thưa ông tôi là cháu vợ, gọi ổng là dượng rể. Tôi không quyết định được việc chi hết. Lúc nãy tôi đến đây với người cùng xóm, họ đi chợ xong sẽ trở lại để tôi cùng về. Tôi sẽ nhờ họ về nhắn dì tôi lên gấp”. Vậy là ba đoán lầm. Bịnh nhơn không phải là ông ngoại con, nhưng cái vẻ hiền lành, lo lắng của má con làm ba có thiện cảm với má con nhiều hơn. Ba hỏi: “Cô không ở lại đây chăm sóc ống mà cùng về với họ hay sao?”. Bả e dè nhìn ba, vẻ nhút nhát, e thẹn, má ứng hồng, mắt sáng dịu. Bả nhỏ giọng bảo: “Thưa ông không, chắc tôi phải ở lại chờ dì tôi lên”. Rồi bả lấy cây quạt giấy trên đầu giường màu tím than xòe ra quạt mát cho người bịnh. Thế là từ đó ba quen với má con. Và năm sau, má con thi đậu bằng trung học, ông bà ngoại mới chịu gả cho ba.
Hai năm sau ngày cưới, má tôi sanh được đứa con gái đầu lòng. Trong sổ hộ tịch gốc của quận Sùng Hiếu, có khai ngày, tháng, năm chào đời của đứa bé: Huỳnh Thị Thể Vân (nữ). Con ông Huỳnh Thanh Nhàn và bà Cao Thị Hồng Mai. Từ đó ba tôi mua nhà ờ đây sống với vợ con. Cuộc sống đơn sơ, thanh bạch nhưng hạnh phúc ngập tràn.
“Đứa thôi nôi đứa lôi đầy tháng”, ông bà ta nói không sai chạy. Mười một tháng sau, bà Hồng Mai hạ sanh thêm con bé Huỳnh Thị Thể Hà. Tinh yêu giữa hai vợ chồng càng sâu đậm hơn, hạnh phúc càng nhiều hơn trong căn nhà bé nhỏ sau khi sanh cô con gái thứ hai nầy. Ba tôi mắt mơ màng nhìn xa xôi rồi nói:
– Má con là người phụ nữ dễ được cảm tình với mọi người, bả có tâm hồn trong sáng, không gút mắt quanh co sâu hiểm. Bả không rực rỡ lộng lẫy, bả có nét hồn nhiên thanh khiết của loài hoa đồng cỏ nội. Ai nói chuyện với má con vài lần thì sẽ có nhiều thiện cảm với bả.
Tôi ôm tay ba, hỏi:
– Vậy ba thương má lắm phải không ba?
Ba tôi cười buồn:
– Thương nhứt trên đời! Cái dí dỏm, cái ghẹo ngầm người khác của bả làm cho đối phương luôn có thiện cảm với má con.
Tôi chợt hỏi:
– Ba thí dụ đi.
Ba tôi chép miệng, mắt ngời sáng khi nhắc chuyện yêu dấu ngày xưa, nhắc về má tôi:
– Nhớ năm xưa, sau ngày đám hỏi, chờ thời gian đám cưới, nhà trai cho chú rể tương lai về bên nhà vợ tương lai làm rể. Thường là như vậy, ba cũng không tránh khỏi ngoại lệ. Bên nhà ngoại con tốt lắm, không bắt ba làm chuyện nầy chuyện kia. Mỗi lần ba đến thăm thì bà ngoại luôn nấu món ngon vật lạ cho ba ăn. Khi đám hỏi rồi thì chú rể tương lai gọi ba má cô dâu bằng ba má, ngược lại cô dâu tương lai cũng xưng hô với cha mẹ chú rể như cha mẹ mình. Má con lí lắc lắm, ba nói chuyện và gọi bà ngoại con bằng má, khi bà ngoại đi rồi, má con núp khuất sau tấm vách, bả nói đủ cho ba nghe: “Thật mắc cỡ quá đi! Má người ta mà cũng bắt chước gọi bằng má…” Cho đến bây giờ những lời nói của má con như câu hát vẫn còn mãi trong lòng ba.
Ba tôi cũng thường nhắc lại những chuyện xưa. Chuyện giữa cô Hai và má tôi tức là mối giao tình của chị chồng, em dâu:
– Cô Hai con năm nay hơn bốn mươi tuổi rồi. Từ nhỏ đến giờ bả chưa có chồng nên bả khó tánh lắm! Má con lúc sanh thời ngán bả hơn ngán bà nội con. Vì cô Hai luôn rầy la tánh hời hợt con nít của má con: nói cười tự do, cởi mở, không thẹn thùng, khép nép, không để ý, đắn đo sau trước như những người đàn bà khác. Má con chỉ cười e thẹn mỗi lần bị cô Hai càm ràm chuyện gì đó, chớ bả không tỏ sắc giận dỗi. Ba nhớ nhà mình dạo đó má con có nuôi mấy con gà giò của bà ngoại cho. Gà có chuồng phía sau nhà. Một hôm chúng quên đường, thay vì về chuồng chúng lại chạy vào trong nhà. Thấy gà chạy lộn như vậy, thay vì má con phải nhẹ nhàng đuổi chúng ra khỏi nhà và lùa vào chuồng, thì bả lại lấy chuổi quơ múa hò hét lung tung. Mấy con gà hoảng sợ vừa kêu la oang oác, vừa nhảy tán loạn lên bàn ghế làm ly tách, đèn dầu lửa rớt xuống nền nhà bể lảng cảng tung tóe. Tuy vậy mấy con gà cũng chẳng chạy ra khỏi nhà. Gặp lúc cô Hai lên chơi. Thấy thế, cô lấy chổi đuổi nhè nhẹ phía sau lưng bầy gà, chúng nó ngoan ngoãn chí chòe đi vào chuồng. Thế là má con bị cô Hai rầy cho một trận. Nhưng má con không hề giận, lấy cái tách ông tiên rót nước trà đem lại chị chồng, giọng thiệt nhu mì êm ái: “Chị Hai hay thiệt đó nghen! Mấy con gà nầy là đồ phản chủ, chúng nghe lời chị chớ không nghe lời em. Lớn chút nữa em sẽ làm thịt xé phai, kho sả ớt hết để đãi chị, đền công chị…”. Má con nheo mắt. Vậy là nhịn không được, cô Hai con bật cười thành tiếng. Má con lại ôm cô Hai và hai chị em cười chảy cả nước mắt. Cô Hai thương má con lắm, tuy tánh bả khó, hay cằn nhằn rồi thôi. Chớ nhà mình, Tết nhứt, đám tiệc gì cô Hai con cũng lo cho hết. Bởi vì ba chỉ có hai chị em là ba và cô Hai con thôi. Đám cưới ba cũng một tay cô Hai lo cho đủ mọi thứ. Con cũng thấy đó, áo quần, giầy dép của con đa số cũng của cô Hai con mua cho hết.
Tôi hỏi ba:
– Ba à, bộ người nào lớn tuổi mà không có chồng hoặc không có vợ thì cũng đều khó tánh hết sao? Tại sao kỳ vậy ba?
– Tâm lý con người mà. Trai lớn cưới vợ, gái lớn lấy chồng là thiên kinh địa nghĩa. Nếu không như vậy thì ngược lại lẽ Tạo hóa sẽ không bình thường, không tốt.
Tôi khờ ịch, nghệch mặt ra không hiểu tường tận thế nào. Ba tôi đã quên con gái mình chưa tròn mười tuổi thì làm sao mà hiểu được hàm ý của người lớn. Nhưng tôi biết chắc chắn rằng ba nhận xét đúng. Bởi trong thâm tâm trí óc non dại của tôi, trên cõi đời nầy chỉ có ba, bà vú, cô Hai, ông bà Ngoại, là thương yêu chiều chuộng tôi. Và họ nói chuyện gì với tôi cũng đều đúng cả.
Theo lời ông bà ngoại tôi dặn dò thì mỗi kỳ vào ngày mồng năm tháng năm (Tết Đoan Ngọ), vú phải nấu nước thơm cho tôi tắm. Hôm nay đúng là Tết Đoan Ngọ. Từ mấy ngày trước vú nói với bà bán rau nhà ở tận rạch Ông Mẻ tìm kiếm bán cho vú những thứ cần thiết như là: lá ổi, lá sả, lá bưởi, lá ngũ trảo, lá é tía, để trưa nay nấu nồi nước cho tôi tắm. Tóc tôi hãy còn cắt ngắn nên chưa cần gội bằng nước nấu với trái bồ kết.
Tết Đoan Ngọ cũng là tiết hàn thực, nhà mấy người khách trú có tục ăn đồ nguội. Họ ăn bánh đúc, bánh ướt Triều Châu, bánh bò bông. Gia đình tôi không theo tục lệ đó. Nhưng hôm nay tình cờ vú cho cha con tôi ăn bánh đúc. Đến bữa cơm chiều dọn lên thế nào cũng có món canh chua cá bông lau nấu với dưa măng, món sườn non ram mặn, mướp xào lòng gà, món nào cũng phải nóng hổi và thơm nồng nàn mùi tiêu, tỏi, hành, ngò, ớt xắt khoanh mỏng.
Vú còn tìm mua được một bó ngải cứu, lá thơm hăng hắc để cắm vào chiếc độc bình tráng men trắng vẽ hình bát tiên. Theo truyền thuyết, lá ngải cứu có công dụng trừ tà. Ông ngoại tôi thường dặn con cháu hễ gặp tiết trời nắng chói, hơi đất xông lên rất độc, tà ma yêu mị thường lảng vảng theo lũ con nít để khuấy phá. Chỉ có mùi ngải cứu mới xua đuổi chúng đi.
Ông ngoại tôi là thầy thuốc Bắc trong xã Mỹ Đức Đông. Nghe nói thời niên thiếu ông cố tôi gởi ông theo học chữ nho và học thí công nghề thuốc của ông thầy ở tận xã Phong Điền thuộc tỉnh Cần Thơ. Gần mười năm học nghề, ông ngoại tôi trở về nhà thì đã mười chín tuổi. Ông bà cố tôi cưới bà ngoại cho ông. Ông chẩn mạch, ra toa thường cho những bịnh nhân trong làng xã. Có lẽ ông mát tay, tay nghề ngày càng vững, nên bịnh nhân đến với ông mỗi lúc thêm đông. “Tiếng hiền, tiếng tốt đồn xa”, dần dần có những bịnh nhân các huyện làng kế cận, rồi ở tỉnh khác cũng đến nhờ ông chữa trị. Khi tôi khôn lớn thì ông ngoại tôi cũng đã ngoài năm mươi. Ông nghỉ làm nghề thầy thuốc lâu rồi. Họ hàng và những bịnh nhân thường hỏi ông tại sao? Đương làm ăn có thời phát đạt mà lại nghỉ? Hoặc họ cũng thường khuyên ngoại, nên tiếp tục hành nghề như trước. Ông ngoại tôi hiền lành, trả lời với dòng họ và bịnh nhân của mình rằng:
– Tôi đã hành nghề bao nhiêu năm rồi, bây giờ cũng cần phải nghỉ ngơi. “Hậu sanh khả úy”, mấy đứa học trò tôi giỏi hơn thầy nhiều. Quý vị đến với chúng cũng như đến chẩn mạch với tôi chớ không có gì khác hơn đâu.
Ông ngoại tôi thường nói với bà ngoại, các con và thân quyến những lời như nhắc nhở, khuyên răn:
– Đời người ngắn ngủi! Mọi việc trên đời rồi cũng trở về dưới ba thước đất: “tiền tài như phấn thổ”. Tiền bạc bao nhiêu cũng không đủ. Nó không tự dưng bay đến cho ta, và khi ta nằm xuống cũng không đem theo được. Cho nên phải quý sanh mạng của mình. Đừng có coi nặng về tiền bạc quá nhiều mà làm khổ cho cái thân.
Ngoại tôi bỏ bảng hành nghề thầy thuốc, khi ông chưa tròn năm mươi tuổi. Ở cái tuổi hái ra tiền, với kinh nghiệm và uy tín nghề nghiệp của ông. Mặc dù ông ngoại tôi nghỉ hành nghề, nhưng lai rai vẫn có người đến nhờ xem mạch, cho toa. Ông vui vẻ giúp họ, và không bao giờ nhận thù lao. Có những người hết bịnh, nhớ ơn cứ Tết nhứt thì hay mang biếu quà cáp rất hậu hỉ như: Gà, vịt, rượu, trà, bánh, trái…
Bà ngoại sanh cho ông bốn người con. Cậu Hai Thương, cậu Ba Thanh, cậu Tư Tân. Má tôi là con út lại là đứa con gái độc nhứt, nên ông bà thương yêu như vàng như ngọc. Ngoài cái tên thanh nhã ở khai sanh, má tôi còn có cái tên mà ở trong nhà và dòng họ ai cũng biết và thường gọi là: “út Đèo”. Ông bà ngoại tôi có óc cầu tiến nên cả bốn người con đều cho đi học ở tỉnh thành. Má tôi là con gái mà cũng có bằng Trung học Phổ thông. Cậu hai Thương có bằng Thành Chung, nhưng cậu không thích ở thành thị, nên ngoại cưới vợ, mua vườn đất làm ruộng trồng trọt như những người nông dân bình thường. Họ hàng thường hỏi: “Với sức học của cháu bấy giờ tìm một chân thầy giáo dạy học, làm gì đó về hành chánh trong tòa bố… hay cơ quan chánh quyền thì đâu có khó. Sao không làm cho sướng cuộc đời? Về sống ở thôn quê tay lấm chân bùn chi cho cực nhọc?”.
Cậu Hai tôi cười hiền mà trả lời với họ hàng rằng: “Cảm ơn quý vị có lòng thương mến, mà khuyên bảo. Nhưng làm ruộng làm vườn có gì không tốt? Vùng quê nầy yên ổn hiền hòa. Người dân quê hiền lành chất phác. Không ai tranh giành hoặc hiềm khích với ai trong việc lớn cũng như việc nhỏ. Mọi người thương yêu đùm bọc lẫn nhau. Dù không phải là ruột thịt, nhưng trong làng, nếu nhà nào gặp chuyên không vui thì cả làng khuyên nhủ đỡ đần. Cảnh sắc ở thôn quê gần gũi với thiên nhiên, trong sạch từ sông rạch, không khí, cho đến hoa lá, cỏ cây, củ khoai, ngọn rau, con cá… Chỉ ngần ấy thôi, đừng nói chi đến lòng thành chí tình chí nghĩa của người dân quê… Như vậy tội gì mà rời bỏ thực tại tốt lành để rồi phải khổ sở cực nhọc bươn chải đi tìm những việc xa vời khác?”.
Ông bà ngoại tôi luôn tôn trọng sở thích, và chí hướng sống của các con. Nên ông bà không bao giờ đòi hỏi, ở ba cậu quý tử, phải làm theo ý nầy ý nọ của mình. Ông bà chỉ đem những sự trả vay trong sách vở, những sự việc cụ thể xảy ra hàng ngày, ở chung quanh mà dạy bảo các con. Mặc dù gia đình không ai quy y theo đạo Phật, nhưng ông bà ngoại tôi rất nghiêm khắc, và luôn đòi hỏi ở con cái phải tích phước và lái tâm tình của họ phải hiểu biết rằng: “Làm ác gặp ác, ở hiền gặp lành…” Theo như thuyết của nhà Phật.
Cậu Ba Thanh tôi xong đại học Sư phạm về làm giáo sư dạy học ở Châu Đốc. Ít lâu sau, cậu lấy vợ cùng nghề quê ở Hồng Ngự cũng thuộc tỉnh Châu Đốc. Mợ Ba tôi là con của một gia đình nhà nông hiền lành chân thật theo đạo Hòa Hảo.
Cậu Tư Tân của tôi thích ngành Dược Khoa. Đậu bằng Dược sĩ, cậu phải vào quân đội theo tiếng gọi của quê hương thuở đầu mùa chinh chiến. Khi học quân sự xong, cậu ra làm ớ Quân y viện, Quân đoàn II tận ngoài miền Trung. Sau khi giải ngũ, cậu lấy vợ vốn là cô bạn học chung trường Dược với cậu ngày xưa. Mợ Tân người đất Thần Kinh, con vua cháu chúa, dòng dõi Công Tằng Tôn Nữ Thiên Hoàng Nga. Mợ Tân đẹp lắm, và có giọng nói ngọt, êm đềm, dễ thương. Mợ rất mực hiếu thảo với ông bà ngoại và rất lễ phép lịch sự với dòng họ nhà chồng nên ai ai cũng quý mến mợ. Nhưng bà ngoại hay nói nhỏ với cô cháu gái nầy về mợ út Tân:
– Mợ Út Tân của con cái gì cũng được, cũng tốt nhưng giọng nói của nó đến bây giờ bà vẫn nghe không rõ. Thật khó nghe làm sao!…
Tôi ôm bà, chẩu mỏ:
– Bà ơi, bà khó tánh quá chời đi! Ai cũng nghe được hết, sao bà không nghe được? Con chịu giọng nói của mợ Tân lắm. Con ước gì ngày xưa phải ba mẹ con sanh con và ở ngoài Huế lâu thì con sẽ có giọng nói dễ thương êm ả như giọng mợ út, rồi thêm mấy tiếng; mô, răng, chi, rứa, nì, hỉ, tề, nớ, chừ….
Vừa nói đến đó, tôi ngâm nho nhỏ hai câu thơ, không nhớ của ai: “Hương Giang nước chảy lờ đờ. Em chờ bờ nọ, anh chờ bến kia”. Rồi cao hứng, vừa nói đến đó tôi bỗng dưng trổi giọng phơi phới bắt qua hát luôn: “Dòng An Giang sông xanh nước biếc. Dòng An Giang cây xanh muôn lá thắm. Lả lướt về qua Thất Sơn. Châu Đốc dòng sông uốn quanh. Lơ lửng dòng sông Cửu Long…” Mấy câu hát tôi thuộc ba rọi trong bài Dòng An Giang của Anh Việt Thu. Bà ngoại tôi cười ngất, mắng yêu: “Cháu thiệt là đứa biết nịnh bợ. Mợ Tân cháu mà nghe được thì cháu sẽ có thêm chiếc nón lá bài thơ của Huế cùng mấy gói kẹo mè xửng mà cháu ưa thích…”.