Chương 2
Một sự việc kinh thiên động địa, chưa hề có tự cổ chí kim vừa xảy ra làm chấn động vùng quê hiền hòa nhỏ bé của tôi. Trong vòng vài tiếng đồng hồ mà một gia đình ở thị trấn đã mất mạng hai người đàn bà. Họ chết không đạp phải mìn, hay bị Việt Cộng pháo kích như thường xảy ra.
Ngồi trên xe từ Sàigòn chạy về bắc Mỹ Thuận, qua khỏi cầu An Hữu, bên tay phải trên bờ sông có căn nhà lầu hai tầng đồ sộ. Trên mặt tiền cao chót vót có dựng bảng tên là NAM VÂN. Đó là tiệm Nam Vân chuyên bán xi-măng, sắt, cát, gạch… những vật dụng khác dùng xây cất nhà cửa. Ngoài ra tiệm còn là đại lý bán các loại máy bơm nước, máy đuôi tôm (loại máy gắn ở đuôi xuồng, ghe tam bản để chạy trên sông, rạch). Ở vùng sông ngòi dân cư trù phú nầy mà kinh doanh những thứ đó, phải nói chủ nhân là người biết thời thế, sành sỏi về thương mại và có nhiều vốn liếng.
Chủ tiệm là vợ chồng ông Sáu Nam. Ông Sáu năm đó ngoài năm mươi tuổi. Thời còn trai trẻ ông đi lính Pháp và lấy bà Sáu là người miền Trung. Trải qua mười mấy năm rồi không ai nghe ông bà nhắc đến dòng họ bên vợ ông. Và ở đây ai cũng biết ông Sáu chỉ có gia đình người em cùng cha khác mẹ là vợ chồng chú Bảy Đáng. Chú Bảy Đáng là người nhanh nhẹn bặt thiệp trong việc buôn bán, khách hàng tới lui nơi đây biết chú Bảy Đáng nhiều hơn biết ông chủ. Chú làm quản lý cho anh trong tiệm Nam Vân lâu rồi, được ông Nam Vân hoàn toàn tín nhiệm giao hết mọi việc làm ăn lớn nhỏ sổ sách cho chú.
Ông Sáu lúc vui qua chén trà chung rượu, thường kể cho những người bạn thương gia với ông về cuộc đời lưu lạc, khi ông còn đi lính Pháp vào thời chống Đức, Phát-xít. Ông đi khắp các xứ từ Á sang Âu… Nơi nào là thuộc địa của Pháp. Ông qua cả Phi Châu, viếng những vùng đảo do Pháp cai trị ở vùng biển gần nước Úc, gần nước Anh. Ông kể say sưa, nhưng không bao giờ đi tới kết cuộc. Ai cũng ngờ ngợ ông nói quá lố, có ít xích ra nhiều. Sau cùng ông kết luận:
– Mấy ông biết không? Người xưa đã nói: “Không nơi nào đẹp bằng quê hương ta cả”. Thật đúng quá chừng. Vì thế nên khi được giải ngũ, bằng bất cứ giá nào tôi cũng đem gia đình về đây. Có đi xa mới thấy nhớ nhung, mới thấy quê hương mình hơn cả mọi nơi.
Bạn bè thường hỏi ông:
– Ông ở Pháp lâu vậy sao không kiếm một bà đầm để có con trai nối dòng nối dõi.
Ông Sáu cười hề hề:
– Tôi cũng có thử chớ. Nhưng mà vợ tôi hiền quá nên tôi không đành bỏ bả. Vả lại “Ta về ta tắm ao ta, dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn “ mà.
Mỗi lần nghe chồng khen ngầm mình, bà Sáu mỉm cười tủm tỉm, nguýt chồng con mắt có đuôi. Hai vợ chồng đi hành hương cầu tự năm non bảy núi vậy mà không có con, mãi gần năm mươi tuổi bà mới sanh được cho ông đứa con gái mà hàng xóm thường nói rằng “Con bé đó là con cầu con khẩn”. Khỏi phải nói, ông bà Nam Vân cưng đứa con gái nầy như vàng như ngọc, thương yêu chiều chuộng hết mực, nâng như nâng trứng, hứng như hứng hoa. “Nhà giàu đứt tay bằng ăn mày đổ ruột”. Con bé chỉ ấm đầu một chút, hoặc ho hen chi đó vì mọc răng sữa, vì biết lật, biết trườn… thôi thì vợ chồng lật đật bao xe đem con lên Sàigòn trị bịnh. Bảng tên tiệm của ông cũng là ghép lại từ tên ông và tên của cô con gái.
Từ ngày vợ chồng ông về thị trấn nầy mở tiệm làm ăn, được thời rất giàu có. Tiệm Nam Vân lúc nào cũng rần rộ người đến mua hàng. Nhà ông có mướn hai người đàn ông lực lưỡng để khuân vác hàng cho khách.
Bà Sáu sau khi sanh đẻ, mướn thêm một người giúp việc nhà. Chị người làm nầy tên Tốt, góa chồng. Mặt mày chị sáng sủa, ăn nói bặt thiệp, vui vẻ. Chị khoảng gần bốn mươi. Chồng chị người cùng xóm với chị. Hai vợ chồng lấy nhau bảy tám năm, nhưng chưa có con. Một hôm anh đi giăng câu bị rắn cắn chết. Chị Tốt buồn mất chồng, lại chán cảnh chân lấm tay bùn nên nhờ người quen ở chợ giới thiệu cho chị đi làm công. Chị may mắn đương lúc bà Sáu cần người nên được vào làm việc nhà cho vợ chồng ông Sáu tiệm Nam Vân. Bà Sáu hiền lành dễ chịu. Bà coi người ăn kẻ ở như em cháu trong nhà, không câu nệ, quát tháo ầm ỉ khi họ vô tình gây lỗi, lại nữa bà không keo kiết “đi ị rồi còn gối để đầu nằm” như những người chủ khác. Cho nên những người giúp việc rất quý mến ông bà. Riêng đối với chị Tốt thì bà rất thương mến hơn, nên ngoài tiền lương trả chị hàng tháng, vào dịp Tết nhứt thì bà mua quà cáp, gởi về cho cha mẹ chị trong Ngã Sáu thuộc Đồng Tháp Mười. Lâu lâu đi chợ, bà mua cho chị khúc hàng, cái quần sa teng, cái nón lá hoặc đôi dép. Bà chủ không có người thân thuộc, thấy chị khôn ngoan, thật lòng giúp việc cho bà không ngại thức khuya, dậy sớm lúc bà hoặc chồng con bà đau ốm, nên bà thương mến chị lắm, coi chị như em cháu. Không có lòng nghi kỵ chủ tớ.
Hai năm sau, kể từ ngày đến giúp việc nhà cho ông bà chủ tiệm Nam Vân, chị Tốt hôm nay đã khác xưa rồi. Gót chân chị không còn nứt nẻ. Phèn đã nhả không còn đóng vàng mấy móng chân. Bây giờ chị Tốt đã sạch nước cản. Chân giầy chân dép, áo đỏ, áo hường. Tóc chị cắt uốn quăn. Chị còn điệu đà thoa lên chút son môi, chút phấn. Chị còn biết khiêu khích bằng liếc mắt đưa tình, điệu bộ õng ẹo với những người đàn ông có máu dê xồm làm họ chăm bẳm nhìn chị.
Ấy vậy nên chị được lòng ông chủ. Hai người lén lúc tằng tịu thế nào mà bụng chị Tốt càng ngày càng phình lớn. Bà chủ vì thương chồng, ngậm đắng nuốt cay đem lễ vật đến nhà ba má chị, xin cưới chị làm vợ hai cho chồng bà!
Bây giờ, đến lượt bà chủ dâng cơm hầu nước cho chị Tốt. Chị viện cớ thai nghén yếu đuối trong người, không làm việc năng nhọc được. Bà mụ lại nói chị Tốt sẽ sanh được con trai. Nên ông bà chủ cưng chiều chị đủ mọi thứ. Chị được mợi tha hồ làm mưa, làm gió, lấn chiếm luôn phòng bà chủ. Còn bà chủ thì ra ngủ ở bộ ván ngoài với con gái bà.
Chín tháng mười ngày, chị Tốt sanh cho ông bà chủ một bé trai thật kháu khỉnh. Đầy tháng thằng bé, ông chủ cho mua heo quay, thết tiệc linh đình, mời khách khứa gần hết cả châu thành quận. Địa vị chị Tốt trong nhà càng lớn hơn. Dựa hơi đứa con trai, và có ông chủ chống lưng, chị xem bà chủ chẳng ra gì cả. Bà chủ không một lời oán than, vì biết phận mình không sanh được con trai để nối dòng nối dõi cho chồng, nên đành cam phận, chỉ khóc thầm nửa đêm mà thôi. Trời bất dung kẻ ác. Thằng bé được ba tháng thì chết vì bị kinh phong. Từ ngày con chết, chị Tốt buồn ủ rủ, đòi chết theo con. Ông bà chủ khuyên bảo năn nỉ hết lời. Và cũng từ đó, sự hục hặc xảy ra liên tục giữa ba người nầy. Chị Tốt chứng nào tật ấy, luôn ngầm hiếp đáp và ghen ngược với vợ lớn. Chị nuôi mộng là ông chủ phải bỏ vợ, để chị lên ngôi chánh thất. Chị sẽ nắm hết quyền hành trong nhà. Ông chủ yêu chị, nhưng không vì thế mà nhu nhược, ông dằn mặt chị rằng:
– Qua thương em, lo cho em cái ăn cái mặc. Vợ qua tốt bụng, nó cũng chiều chuộng em đủ mọi điều. Em xem có người vợ lớn nào mà lo cho vợ bé của chồng như bả lo cho em không? Em phải biết thân phận mình nhỏ mà đối đãi đàng hoàng với bả. Nhà nầy bả là lớn, em là nhỏ. Em nếu không muốn ở với anh nữa thì đi đâu tùy ý em, anh không cản. Nhưng biểu anh bỏ vợ anh thì không được. Và từ rày trở đi, nếu anh còn nghe câu nói nầy từ cửa miệng em xúi biểu anh bỏ bả một làn nữa thì anh sẽ bỏ em ngay. Em đừng có trèo đèo hỗn láo.
Chị Tốt tức tối căm gan, nhưng giả bộ đổi giận làm vui xin lỗi ông Sáu Nam. Nhưng có ai biết được trong lòng chị ta đang toan tính gì? Chuyện gia đình ông Sáu Nam cứ cơm không lành, canh không ngọt, bởi trong nhà có hai người đàn bà đang tranh giành quyền hạn. Ông Sáu Nam thấy chán nản và hối hân, nhưng việc đã lỡ rồi cứ ậm ừ để ngày tháng trôi qua.
Ba tôi trán lấm tấm mồ hôi, mặt mày có vẽ bải hoải vì bận rôn cả ngày nay ở bịnh xá. Vú châm cho ba bình trà nóng bưng lên. Tôi rót cho ba một tách, rồi lấy hai tay đấm đấm vào vai ba tôi, tươi cười hỏi:
– Ba à, hôm nay ba mệt lắm phải không? Con cố gắng đi học sau nầy lớn lên con sẽ học nghề rồi đi làm có tiền con sẽ không để ba đi làm nữa. Tội nghiệp ba quá, con thương ba lắm!
Vừa nói tôi ôm chặt ba và hun vào vai vào tay ba tôi. Với trí óc non nớt của tôi lúc bấy giờ, ba tôi là những gì cao cả và tối thượng trên cõi đời nầy. Ai mà làm gì ba tôi, tôi sẽ chết sống để bảo vệ. Vú bưng mâm cơm từ nhà dưới lên. Tươi nét mặt, vú so đũa, bới cơm ra chén. Tôi vội buông ba ra đến bên vú giành:
– Để con bới cơm cho ba. Chén của vú đâu? Sao chỉ có chén của ba và của con vậy?
Ba tôi trìu mến nhìn tôi, cười hỏi:
– Con bới có được không đó? Hãy để vú làm cho.
Tôi vừa lấy chén trên tay vú, vừa nói với ba:
– Thưa ba được chớ. Ba quên con đã lớn rồi sao? Năm tới, còn ba tháng nữa thôi, sau mùa hè con học lớp nhì rồi đó ba.
Thật tôi chẳng vén khéo chút nào, bới cơm vào chén miệng to như vậy mà đổ lợt đợt. Bà vú cười vội kề chén kia hứng. Ba tôi mặt tươi hơn lúc nãy, nói với tôi và hỏi vú:
– Đó, con thấy chưa? Thôi, hãy đưa cho vú bới đi. Chị vú không cùng ăn cơm với cha con tôi sao?
Bà vú trả lời:
– Dạ không, thầy với cô Ba dùng cơm đi, tôi chưa thấy đói.Tối tối chút nữa, tôi ăn cũng được.
Trên mâm cơm có tô cá mè vinh trắng kho mẵn. Nước canh màu cà-phê lợt trong vắt. Con cá mè vinh đầu không bị gãy nằm trọn trong tô. Trên cá có mấy miếng gừng xắt chỉ, hành lá xanh cắt dài, mấy miếng ớt sừng trâu chín đỏ, cùng ngò rí và tiêu cà. Trong dĩa nhỏ cạnh tô canh có hai miếng chanh. Tô canh còn bốc hơi nghi ngút. Chưa ăn mà tôi đã cảm giác được hương vị canh cá mẵn của vú nấu rồi. Dĩa tôm càng xanh lột vỏ ram mặn, màu tôm pha màu gạch sền sệt, hòa trong mùi tiêu cay, mùi hành bay phưng phức. Bên cạnh còn dĩa đậu móng chim xào thịt nữa. Chu choa ơi, sao mà hấp dẫn quá chừng! Ba gắp cho tôi miếng cá kho mẵn:
– Con ăn cẩn thận coi chừng bị mắc xương. Thật không cá nào nấu ngót ngon bằng cá mè vinh, nhưng ngại là nó nhiều xương quá. Chị vú lần sau mua cá leo nấu cũng được, vì tôi sợ Thể Hà bị mắc xương.
Tôi nheo mắt tỏ ý cảm ơn ba:
– Con biết rồi ba. Vú đừng đổi cá leo, ba thích cá mè vinh thì nấu cá mè vinh cho ba. Con thích ăn tôm kho tàu của vú kho. Tôm thì chẳng bao giờ có xương cả. Đúng không ba?
Vú vừa xới cơm cho không dính thành cục, vừa hỏi ba tôi:
– Thưa thầy, tôi nghe người ta nói tiệm Nam Vân vừa xảy ra án mạng gì đó, có thiệt không thầy?
Ba tôi và vội miếng cơm rồi trả lời vú. Tôi cũng lắng tai nghe:
– Chẳng những có thiệt mà còn long trời lỡ đất nữa kìa. Bà vợ nhỏ ông Nam Vân thuốc bà vợ lớn. Xe tải thương chở đến bịnh xá. Chúng tôi làm đủ cách để cứu sống bà. Nhưng đã quá trễ!
Tôi trợn mắt, há hốc miệng chận lời ba, hỏi:
– Vậy má của con Thái Vân chết rồi sao ba?
Ba tôi gật đầu. Bà vú thảng thốt kêu khẽ:
– Trời đất ơi! Sao mà khiếp đảm như vậy? Bà vợ nhỏ nầy thật không phải là con người mà! Đồ cái thứ voi dầy ngựa xé.
Bà vú vừa dứt lời thì ba tôi nói:
– Thôi chị đừng rủa sả bà nhỏ nữa mà mang tội. Bà ấy cũng đã chết rồi. Người chết thì kể như hết, tội vạ chi nữa!
Bà vú mở to mắt há hốc mồm trợn trắng nhìn ba tôi, rồi bà cà lăm hỏi:
– Hả? Thầy nói sao? Bà… bà… bà nhỏ…nhỏ… nhỏ… Hay bà lớn…. lớn… lớn… đã chết… chết… chết?
Ba tôi trả lời rõ ràng từng tiếng:
– Cả hai bà đều chết!
Bà vú đánh rơi muỗng xúc cơm xuống đất văng cơm tung tóe, bà hỏi lại lần nữa:
– Thầy nói sao? cả hai bà cùng chết là làm sao tôi không hiểu?
Ba tôi giọng buồn buồn:
– Chị bình tĩnh nghe đây. Bà vợ nhỏ ông chủ tiệm Nam Vân thuốc bà lớn. Người nhà lo chở bà lớn lên bịnh xá độ hai giờ thì bả tắt thở chết. Bà nhỏ ở nhà có lẽ hối hận và sợ quá vội uống thuốc độc chết luôn. Bà nhỏ còn viết thư tuyệt mạng và lên giường trùm mền như đang nằm ngủ. Bây giờ tiệm Nam Vân đang có hai cái quan tài nằm song song với nhau. Ba má bà vợ nhỏ xin đem thi thể con mình về chôn cất. Còn bà vợ lớn thì chôn cất gần phần mộ ba má chồng, cả ngày nay ở Chi y tế thật bận rộn. Cả bên hành chánh quận cũng bận rộn với hai án mạng nầy. Chị cũng biết tiệm Nam Vân thuộc về tiệm có danh tiếng trong thị trấn, và ông Nam Vân cũng là ông chủ lớn mà.
Bà vú chẳng nói chẳng rằng, bà ngồi qụy xuống ghế. Nét mặt vẫn chưa trở lại bình thường trước một sự việc quá đột ngột đớn đau. Mặc dù bà không có họ hàng dính dáng chi đến gia đình ông Nam Vân, nhưng cũng chạnh lòng bất nhẫn thương tâm. Ba tôi ăn xong, buông đũa bước sang bàn lấy nước uống. Tôi không hiểu và biết gì nhiều trong việc ân oán để xảy ra chết chóc của người lớn. Tôi vói tay lấy ly nước bà vú rót sẵn để cuối bàn nói:
– Ba à, vú à, chôn hai người xa nhau vậy thì tốt lắm! Vì con nghĩ ở xa họ không còn chửi lộn với nhau nữa phải không ba, phải không vú?
Ba vuốt tóc tôi rồi đi lại lấy báo ngồi xuống xem. Vú thì ờ ờ qua loa vội dọn chén bát chúng tỏi vừa ăn xong bưng xuống bếp. Gia đình tiệm Nam Vân đề huề kẻ ăn người làm rần rộ như vậy, trong một ngày thôi bỗng dưng trở thành tang thương xáo trộn mọi bề.
Nửa tháng sau tôi gặp Thái Vân ở trường. Nó không còn nô đùa chạy nhảy líu lo như dạo trước. Gần như nó biến thành một đứa trẻ khác. Ít nói ít cười mặt hằn nét ảm đạm thê lương. Tôi và nó học cùng cấp nhưng khác lớp. Từ dạo má nó qua đời tôi thấy thương mến và thân thiện nó nhiều hơn. Vì bây giờ nó cùng hoàn cảnh không còn mẹ như tôi.
Má tôi qua đời tôi vừa tròn tháng.
Ba tôi kể lại rằng:
– Năm đó chị Hai con hơn một tuổi. Má con ẵm nó đi chợ Cổ Cò cho ông thầy thuốc Nam xem cái chân bị trật. Bởi chị con té từ trên giường ngủ xuống đất. Chợ Cổ Cò chỉ cách đây hai cây số. Xe “lam” chạy được một đổi thôi thì cán phải mìn của bọn ác ôn đó chết hết cả xe vừa tài xế vừa hành khách trên dưới mười người.
Ba tôi thở dài, đôi mắt u buồn đăm chiêu nhìn qua cửa sổ. Tôi nắm tay ba, tiếp lời:
– Nên ba mướn vú thay má cho con bú và nuôi con khôn lớn phải không ba? Sao ba không cưới vợ khác để thay má?
Ba vò đầu tôi cười buồn:
– Cưới vợ khác? Để con gái ba lại bỏ ba mà đi nữa phải không?
Tôi choàng tay ôm cổ ba nũng nịu:
– Xìn lỗi nhen ba, tại lúc xưa con còn nhỏ không biết chuyện. Bây giờ ba cưới vợ đi, con không cản đâu.
Ba tôi cười:
– Bây giờ ba đã già! Cha con chúng ta sống như vầy cũng hạnh phúc quá rồi. Ba không muốn phiền lụy trong gia đình.
Con không thấy gương của gia đình cháu Thái Vân sao? Con nghe lời ba chăm chỉ học hành được rồi. Ba đã không muốn cưới vợ khác sau khi má con qua đời. Vì không ai có thể thế được má con trong lòng ba. TÌnh cảm mà gượng ép thì sẽ phiền lắm! Giờ thì con chưa hiểu đâu, khi lớn khôn con sẽ biết.
Tôi cảm thấy thương ba và hạnh phúc vô cùng. Khi lớn, tôi chỉ thấy có vú là người kề cận hàng ngày để săn sóc từng miếng ăn, giấc ngủ, cái quần cái áo cho tôi. Vú còn che chở, quý yêu tôi như là con ruột của bà. Vú luôn giữ gìn bổn phận người vú nuôi con ông chủ. Vú luôn gọi ba tôi bằng thầy và luôn có hai chữ dạ thưa ở trước chữ thầy. Bà gọi tôi là cô Ba và xưng với tôi là vú. Cô Hai tôi kể rằng:
– Thể Hà, cháu có biết không? Bà vú của cháu ngày xưa là con ông Hương Cả giàu có ở đâu làng Mỹ Lương cũng gần đây thôi. Bả học chung lớp với cô. Còn má con học dưới bả nhiều lớp. Bả có chồng và theo chồng đi kháng chiến chống Pháp. Nghe nói chồng bả người Bắc, hai người học cùng trường. Gia đình bả không chấp nhận nên bả bỏ học theo ông ấy luôn. Gia đình bên chồng buôn bán lớn ở Sàigòn khá giả lắm. Bà có đứa con trai, vì theo chồng vào bưng biền nên gởi con để bà nội và chú nó nuôi. Năm đó chồng bả bị Pháp bắt nhốt trong khám lớn ở Mỹ Tho với mấy đồng chí của ổng. Nửa đêm họ vượt ngục được hai người, còn những người khác bị lính giặc bắn chết trong đó có chồng bả. Bả đau khổ vô cùng, tìm đủ mọi cách cũng không xin được xác chồng về chôn. Bên nhà chồng bả sợ ảnh hưởng đến việc làm ăn nên không giúp bả việc nầy.
Tôi chăm bẳm lắng tai nghe cô kể chuyện như chuyện đời xưa. Nhưng tôi thương xót vú vô cùng. Cô tôi thở dài, nói tiếp:
– Tội nghiệp bả quá! Sau khi lén lút tai mắt của giặc để làm ma chay cho chồng, vì lúc bấy giờ những người theo Tây như chồng vú, họ cho là nhóm phản động. Vú lên Sàigòn xin lại đứa con trai về nuôi, để an ủi cho cuộc đời mình sau nầy. Nhưng má chồng và em chồng vú không trả lại đứa bé. Họ nói là hoàn cảnh của vú không đảm bảo để lo tương lai cho cháu họ. Và họ cũng đã làm giấy tờ hợp pháp đứa con trai nầy là con ruột người em trai của chồng vú. Vú đau khổ vô cùng, thất thểu trở về quê cũ với số tiền em chồng cho rất khiêm nhường. Ông em chồng bảo: “Chúng tôi nghĩ đến đến tình của anh Hai nên cho chị, nhưng chỉ một lần thôi không có lần thứ hai”.
Tội nghiệp vú bị mất chồng và không được gần con! Tôi muốn khóc. Cô tôi nói:
– Cháu biết không? Khi chán nản tột cùng thì vú khám phá ra mình đã mang thai với chồng mà không hay biết. Vú vui mừng như được uống thuốc hồi sinh. Tâm trí đặt hết vào đứa con sắp chào đời. Nó là nguồn vui và hy vọng để vú sống bình thường như bao nhiêu người đàn bà bất hạnh khác. Vú từ giã bên chồng trở về quê sống nương náu với cha, sửa sang lại vườn tược. Cuộc sống hàng ngày của cha con là nhờ vào cây trái và huê lợi trong vườn. Sau ngày má của vú bị lac đạn chết, nhà cửa của cha vú trở nên sa sút bởi không ai quán xuyến chăm nom. Vú cũng có anh em trai chớ! Nhưng họ còn có gia đình riêng và con cái nữa. Bấy giờ nông thôn không còn an ổn, giặc Tây ruồng bố hà rầm. Chúng nó cướp của, giết người như cỏ rác… Vú sanh được bé gái thiếu tháng. Nó ra đời mới mấy ngày bị bịnh mà chết. Và lúc đó con cũng vừa tròn tháng thì má con bị tai nạn mà qua đời. Cho nên cô mới ngõ ý nhờ vú về ở nhà nầy và nuôi con cho đến ngày nay.
Tôi ứa nước mắt. Cô tôi cũng buồn hiu:
– Mỗi người đều có số cả cháu à. Thượng Đế đã an bài. Chuyện gì đến thì nó sẽ đến mình không chấp nhận cũng không được.
Cô tôi lau nhẹ giọt nước mắt, bẽn lẽn cười trở giọng nhỏ nhẹ:
– Vú nuôi con đâu được hai tuổi. Một hôm về thăm, cô gạ vú gả cho ba con. Cô nghĩ rằng hai người cùng hoàn cảnh góa bụa. Vú và ba con suýt soát tuổi nhau lại còn trẻ. Nhưng cô không ngờ vú thẳng thắn trả lời cô ràng: “Thưa cô Hai, cảm ơn cô đã nghĩ cho tôi. Nhưng thưa cô, trên đời này ngoài người chồng đã qua đời của tôi ra, tôi không thương người đàn ông nào khác nữa. Tôi biết thầy Nhàn là người đàn ông tốt. Nhưng tôi chỉ coi thầy như ông em ruột của tôi vậy. Nếu thầy Nhàn và cô bằng lòng cho tôi ở đây như người giúp việc nhà săn sóc cô Thể Hà thì tôi sẽ tiếp tục ở lại, cho đến khi nào thầy Nhàn có người để săn sóc cho cô Ba thì tôi sẽ nghỉ việc”. Thật cô rất thán phục tấm lòng chung thủy của vú.
Tôi vọt miệng:
– Nhưng con vẫn xem vú là má con, thì có khác biệt gì đâu?
Cô tôi cười định nói gì về vú, nhưng lại thôi, bắt qua chuyện khác:
– Đến năm cháu được ba tuổi. Bà ngoại cháu khuyên ba cháu nên lấy người cháu họ của bà. Cô nầy cũng duyên dáng dễ nhìn, luống tuổi, đang dạy học ở xã Phú Đức thuộc Bến Tre. Ba cháu dùng dằng chưa chịu thì bỗng dưng một hôm cháu mất tích! Bình thường cháu là đứa bé ngoan ngoản không bao giờ đi đâu một mình, thậm chí chạy giỡn với trẻ con hàng xóm cũng chỉ ở trong khuôn viên nhà mà thôi. Cả thị trấn tá hỏa. Từ dòng họ cho đến người thân quen đều đổ xô đi tìm, các ghe chài lưới cũng tìm kiếm trên sông. Nhưng vô hiệu. Nhà cháu như phủ màu tang. Bà vú khóc sướt mướt, ba cháu ủ rủ không ăn, không uống. Ông bà ngoại cháu đến ở luôn đêm. Cô bỏ sở chạy về.
Tôi đã nghe chuyện mình đi tìm vú lạc đường về nhà bao nhiêu lần rồi. Khi thì ba kể, khi thì vú, khi thì ông bà ngoại kể… Nhưng hôm nay tôi vẫn thích nghe cô kể lại. Tôi hỏi cô:
– Lúc đó cô làm việc ở đâu cô Hai?
– Cô về nhận nhiệm sở ở bảo sanh viện Mỹ Tho mới có ba tuần. Lần đó cô tướng mình sẽ bị đuổi rồi chớ. Nhưng may mắn được bác sĩ bịnh viện trưởng bỏ qua vì cô là nhân viên mới.
Tôi hỏi:
– Chuyện cháu mất tích rồi sao nữa cô?
Cô tôi hơi ngạc nhiên hỏi:
– Bộ không ai kể cho cháu nghe chuyện nầy sao?
– Thưa cô, cháu có được nghe nhiều lần lắm rồi. Nhưng cháu vẫn thích nghe cô kể hơn.
Cô tôi có vẻ hài lòng về câu trả lời của cô cháu gái mà cô thương mến. Cô tôi say sưa kể tiếp:
– Cho đến khoảng mười giờ sáng hôm sau. Ai nấy trong nhà cũng đang ủ rủ, hết sức tuyệt vọng thì có người lơ xe đò chạy đường An Hữu đi Mỹ Tho, Mỹ Tho đi An Hữu dắt cháu về. Mọi người mừng vui hơn ngày Tết. Mặt mũi cháu lem luốc, quần áo bèo nhèo dính dơ quằn quện những vết đồ ăn nước uống đã khô. Bà vú vừa khóc vừa ẵm cháu đi tắm. Chú lơ xe kể lại cho cả nhà và lối xóm nghe rằng: “Thưa quý vị, xe chạy gần đến bến ở thị xã Mỹ Tho, tôi đi thu tiền hành khách. Đến ghế bà hành khách ngồi kế ghế cháu để lấy tiền. Bà khách hỏi bao nhiêu? Tôi trả lời là ba chục đồng. Bà khách cự nự hỏi: Một chỗ ngồi là bao nhiêu? Tôi nói: Mỗi chỗ mười lăm đồng. Bà khách hỏi: Tôi ngồi có một chỗ, thì sao chú đòi ba chục đồng? Tôi mới chỉ cháu đang ngủ: Vậy cái ghế con bà ngồi đây nữa chi? Bà hành khách há hốc mồm: “Nó không phải con tôi”. Nghe tiếng cãi cọ, em bé thức dậy la khóc đòi vú, đòi ba. Anh tài xế và tôi không biết tính sao, định giao đứa bé nầy cho phòng cảnh sát ở bến xe Mỹ Tho. Em khóc nói với chúng tôi: “Em đau bụng muốn ăn cơm”. Chúng tôi biết em đói, nên mua cơm cho em ăn xong mới hỏi: “Em tên gì?”. Em trả lời: “Ba gọi em Thể Hà, vú gọi em là cô Ba”. Tôi hỏi: “Em là cô Ba Thể Hà?”. Em bảo: “Không phải! Em tên cô Ba là cô Ba, Thể Hà là Thể Hà không phải cô Ba Thể Hà”. Ai đứng gần nghe thấy cũng mắc tức cười. Chúng tôi thấy em nín khóc, ngoan ngoãn nghe lời nên bàn với nhau chở em về lại An Hữu có thể người nhà lật đật xuống xe bỏ quên em”.
Tôi được vú tắm rửa thay áo quần sạch sẽ thơm tho. Tôi chạy ra ôm chầm lấy ba. Ba tôi mừng nghẹn ngào rơi nước mắt. Bà vú nấu nước trà bưng lên và trở xuống bếp nấu cơm cho mọi người ăn trước khi trở về nhà. Bởi hôm qua đến nay, chẳng ai có hột cơm nào trong bụng. Cô tôi bưng lại mời chú lơ xe uống nước. Chú cảm ơn rồi kể tiếp: “Hôm qua xe chở nhiều hàng hóa cho các tiệm ở chợ Hòa Khánh. Chúng tôi phải ghé xuống hàng cho họ về đến đây đã hơn tám giờ tối. Em bé lai ngủ khò. Tôi ẵm em vào nhà cho ngủ với má tôi. Sáng nay, tôi định dắt em lại phòng thông tin nhờ gọi phóng thanh, coi có ai mất em bé thì đến rước em về. Trước khi dẫn em tới phòng thông tin, tôi hỏi em phải nhà em ở đây không? Em nói: “Nhà em ở chuồng heo”. Tôi nghĩ chắc nhà em ở gần lò heo nên dẫn em đến đó. Đến nơi em nói: “Không phải, nhà em ở chuồng bò”. Tôi nghĩ em ở gần trại nuôi bò nên dắt em qua đó. Hỏi thăm, có người biết em là con bác sĩ Nhàn đi lạc hôm qua nên họ chỉ nhà tôi dắt em đến đây”.
Ông bà ngoại, cô, cậu, mợ tôi đêu rối rít cảm ơn chú lơ xe. Ba tôi bắt tay chú giữ thật lâu tỏ lòng tri ơn. Và ba đưa cho chú bao thơ để đền ơn chú đã chăm sóc cho tôi, và đưa tôi về nhà. Chú lơ trả bao thơ lại ba tôi, và nói rằng:
– Có chi đâu bác sĩ. Tôi không biết em là con bác sĩ, nếu biết thì tôi đã ẵm em lại khi xe về tới đây tối hôm qua rồi.
Hôm đó ba tôi ngồi đút từng muỗng cơm cho tôi ăn đến hết và tôi được ngủ chung với ba. Ba tôi không rời tôi nửa bước. Vì việc đi lạc của tôi vừa rồi làm ba lo sợ. Mấy hôm sau, không khí ở nhà mới trở lại bình thường. Trong buổi cơm chiều, ba tôi hỏi:
– Thể Hà, hãy nói cho ba biết, con lên xe đi đâu vậy? Con đi một mình hay ai dắt con đi?
Tôi vô tư vui vẻ trả lời ba tôi:
– Con lên xe đi một mình tìm vú. Sáng hôm qua, khi ngủ thức dậy, con không thấy ai ở nhà con tưởng vú bỏ đi rồi. Vì con nghe cô Hai nói rằng chừng nào ba đi cưới vợ, con có má săn sóc thì vú sẽ không ở đây với con nữa. Con muốn ở với vú. nếu vú đi thì con sẽ đi theo.
Ba tôi giật mình về việc làm và ý nghĩ thơ dại vừa qua của tôi. Ba tôi tằng hắng rồi nói:
– Con đừng có dại bỏ đi như vậy nữa, ba đâu có nói đi cưới vợ, và vú cũng không có ý định thôi việc. Từ rày sắp tới không được đi đâu một mình nữa nghe chưa? Coi chừng gặp kẻ xấu bắt cóc thì họ sẽ đánh con và không cho con ăn cơm như chú lơ xe vừa rồi đâu.
Tôi vừa xúc cơm ăn vừa nói với ba và vú:
– Vậy ba đừng cưới vợ nghen ba. Không ai săn sóc con thì vú sẽ ở đây hoài. Nếu có người săn sóc con, vú sẽ nghỉ làm ở đây mà đi thì con sẽ đi kiếm vú nữa. Con sẽ đi theo vú, con muốn ở với vú hoài. Vú đã hứa nếu con không có ai săn sóc thì vú sẽ ở đây săn sóc con vú nhớ nghen vú.
Ba tôi hoảng hồn, nói nhanh:
– Con không được bỏ nhà đi tìm vú. Vú sẽ săn sóc con. Ba hứa với con sẽ không cưới vợ. Vậy được chưa?
Tôi gật đầu cười, quay sang vú:
– Ba bằng lòng không cưới vợ. Con sẽ không có ai săn sóc. Vậy giữ lời hứa là phải ở với con suốt đời nghen vú.
Tôi đưa ngón tay út cho ba ngồi bên phải, ngón tay út cho vú ngồi bên trái và nói:
– Ba ngoéo tay con đi. Vú ngoéo tay con đi. Vậy là không ai được nói gạt con hết nghen.