← Quay lại trang sách

Chương 5

Dạo nầy con Thái Vân nghỉ học hoài. Trước khi nghỉ hè, nó ghé qua nhà tâm sự với tôi:

– Tao muốn đi học, mà thím tao nói bây giờ không phải như lúc ba má tao còn sống. Chú thím giữ gìn cái gia tài của ba tao là để cho tao sau nầy, thì tao phải ở nhà giữ con cho chú thím.

Tôi buồn phải xa con bạn thân nhứt nầy, nên ái ngại:

– Còn ba mầy thì sao Thái Vân? Mầy có thường đi thăm ổng không?

Nó rướm nước mắt:

– Hôm tháng rồi chú tao dắt tao xuống thăm ba tao ở dưỡng trí viện Mỹ Tho. Người canh gác không cho tao và chú tao vào phòng mà chỉ đứng ngoài cửa sổ ngó vào. Nhưng ba tao không ngó ngàng gì đến tao. Ông không biết tao và chú tao là ai. Đưa đồ ăn thì ổng ăn ngấu ăn nghiến như đói khát dữ lắm. Lúc cười lúc khóc, lúc hét la. Quần áo ổng xốc xếch hôi hám. Tao thương ba, nhớ má. Tao khổ lắm Thể Hà ơi! Tội nghiệp ba tao quá! Nhưng tao không biết làm sao bây giờ!

Nó ôm chầm lấy tôi khóc sướt mướt. Tôi cũng ôm lấy nó mà khóc. Tôi cho nó biết tôi sẽ theo ba tôi đi Cần Thơ. Và tôi cũng nói cho nó biết địa chỉ nhà mới của tôi, nơi ba tôi làm việc và tên trường tôi học như lời ba tôi nói khi ông đi qua Cần Thơ lo chỗ ăn ở trước khi đưa tôi về đó.

Cần Thơ là trung tâm, là thủ đô của miền Tây. Cần Thơ còn gọi là Tây Đô, có thành phố cổ kính trang nghiêm. Đường sá tráng nhựa rộng rãi. Có nhiều nhà lầu cao chót vót. Cần Thơ phồn thịnh. Nhà lồng chợ cao ráo, sạch sẽ. Chợ búa buôn bán sầm uất, nhờ đường sông ngòi thông thương, để các ghe thương hồ chở cá nước mặn từ các biển sang, chở cá đồng từ đồng Cà Mau, U Minh, Cờ Đỏ, Sóc Trăng, Bạc Liêu đến…

Cần Thơ có trường trung học Phan Thanh Giản, nơi đào tạo cho đời những nam nữ sinh ưu tú nối tiếp cha ông, góp sức cho quê hương đất nước ở mọi ngành nghề, mọi hoàn cảnh, mọi thời thế. Lúc nước nhà gặp thời biển lặng sông trong hay lâm vào cảnh dầu sôi lửa bỏng.

Cần Thơ có Tổng hành dinh Quân Đoàn IV và Quân Khu 4. Có dòng sông Bassac, có bến Ninh Kiều, có bến Nhị Kiều. Có nhiều thắng cảnh để du khách thăm viếng thưởng lãm. Có nhiều vườn cây ăn trái thanh lịch như: vườn ổi, vườn dừa, vườn chôm chôm… Những nơi nầy rất hợp cho những buổi hẹn hò của trai gái trong thành phố muốn tìm một nơi thanh lịch yên tịnh để truyện trò tâm sự. Cần Thơ còn sản xuất những văn nghệ sĩ tài danh như Sơn Nam, như Lê Xuyên, bác sĩ kiêm nhà văn Huỳnh Hữu Cửu. Lại còn có các nghệ sĩ, các ca sĩ từng đoạt giải huy chương vàng Thanh Tâm như ca kịch sĩ cải lương kiêm tài tử điện ảnh Kim Loan, sau đổi tên là Mộng Tuyền. Ca sĩ tân nhạc kim tài tử điện ảnh Băng Châu. Ca sĩ tân nhạc Túy Phượng, còn mệnh danh là nữ hoàng nhạc tuýt… Và Cần Thơ còn nổi tiếng có nhiều kiều nữ, giai nhân.

Thành phố Cần Thơ, miền Tây chi chít bao quanh sông lớn sông nhỏ. Ở Hậu Giang, Cần Thơ có nước ngọt muôn đời, mưa gió thuận hòa. Sông ngòi Cần Thơ dẫn đi khắp nơi: Cần Thơ đi Long Xuyên, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Cà Mau, Châu Đốc, Rạch Giá, Hà Tiên… rồi ra biển.

Ở vùng nước ngọt có cá sông, cá đồng, như: tép, cá duồng, cá lóc, cá bông, cá bông lau, cá mè vinh, cá chài, cá thác lác, cá bống tượng, cá rô mề, cá sặc rằn lớn bằng bàn tay xòe, tôm càng xanh vỏ, lươn, ốc bươu, ốc gạo, hến… Ở vùng biển hoặc vùng cận biển nước mặn, nước lợ thì có: cá cháy, tôm thẻ, tôm hùm, cua, ghẹ, mực, sò, ốc biển, cá đao, cá chim, cá thu… Huê lợi các tỉnh miền Tây chở đến chợ Cần Thơ ngoài đường thủy còn có đường xe, đường bộ… Cá tôm tươi dùng không hết người ta còn phơi khô, làm mắm. Nổi tiếng mắm lóc Châu Đốc, khô Rạch giá, lãnh Tân Châu… Dân chúng lương thiện làm ăn nhờ siêng năng cần mẫn ở đôi tay rắn chắc của mình. Người già từ thành thị đến thôn quê thảnh thơi nhàn hạ, trẻ con cắp sách đến trường… Họ theo Phật Giáo, Thiên Chúa Giáo, đạo Cao Đài, đạo Hòa Hảo… Ở Long Xuyên trên đường về Châu Đốc có Bến Năng Gù, đò đưa qua làng Hòa Hảo. Mấy mươi năm trước, làng Hòa Hảo đã là nơi thanh tu. Dân trong làng trường trai. Từ đầu làng đến cuối thôn kinh tụng sáng chiều. Dân làng không ỷ lại vào sự tiếp tế ở bên ngoài, họ tự làm rẫy nương để sống, trồng lúa để ăn. Đàn ông để tóc dài và bới cao. Trong làng, từ người lớn tuổi đến trẻ con trên nét mặt họ hiện sự hiền lành bao dung… Dân làng Hòa hảo luôn sẵn lòng gánh vác đùm bọc giúp đỡ lẫn nhau. Từ khi còn bé nhỏ cho đến bây giờ, lòng tôi luôn tôn kính sùng bái làng thôn hiền hòa tu học nầy.

Nhà tôi nằm trên đường Nguyễn An Ninh, người ta cũng gọi là đường Bã Đậu có lẽ hai bên lề đường trông nhiều cây bã đậu, gần trường tư thục Võ Văn. Trước nhà là bến xe đò đi Sàigòn, Lục Tỉnh. Nhà tôi lại gần trường tiểu học công lập. Gần hay không gì cũng vậy. Ngày hai buổi, vú đón đưa tôi đến trường. Càng lớn, tôi càng thấy tấm lòng thắm thiêt tình thương, đùm bọc, chở che của ba và vú nên cho dù đến chỗ lạ trường, lạ thầy, lạ bạn tôi vẫn không cô đơn. Nhà lại gần bịnh viện Thủ Khoa Nghĩa nên trưa nào ba tôi cũng chạy xe đạp nhôm đòn dông bóng láng, về nhà ăn cơm và nghỉ trưa từ mười hai giờ đến hai giờ mới trở lại sở.

Trong gia đình có ba, vú và tôi. Chúng tôi sống giữa thành phố phồn hoa nầy một cách êm đềm và xuôi chảy hiền hòa như dòng Bassac. Năm đó, tôi thi đậu vào trường trung học Phan Thanh Giản. Vú rất vui mừng, còn ba tôi thì trên mặt không giấu được niềm hân hoan hãnh diện với họ hàng hai bên về con gái quý yêu độc nhứt của mình.

Ông bà ngoại, mấy cậu mợ gởi thư chúc mừng, và tặng quà cáp cho tôi hậu hỉ. Cậu mợ Hai còn dặn, khi về thăm cậu mợ nhớ nhắn trước để cậu mợ sẽ đãi tôi một bữa cá lóc nướng trui, và bữa cơm phụng hoàng hí loan châu do chính tay mợ Hai tôi lần nào đó trổ tài, trong bữa giỗ ở nhà ngoại mà tôi được ăn. Về sau tôi cứ nhắc hoài.

Mợ Hai tôi khéo léo và tỉ mỉ ở món cơm phụng hoàng hí loan châu. Gạo nàng hương đem vút bằng rổ đan dầy cho sạch rồi để ráo nước. Rang gạo bằng chảo đất cho hột gạo săn đều. Chọn nấm rơm còn búp tròn vo như cục đạn bắn cu- li của trẻ con. Gỡ bỏ rơm rạ còn dính vào nấm đem rửa sạch và để cho ráo. Củ cải đỏ tiện hình như nấm rơm nhưng hơi mỏng hơn. Thịt gà mái dầu thái mỏng. Nấm, củ cải đỏ, thịt gà đem ướp với cà- ri cay của Ấn Độ thêm gia vị tỏi, hành, đường, muối…

Bắc chảo mở đợi mỡ sôi để khử tỏi rồi nhẹ tay để thịt gà, cải, nấm đã ướp chung vào. Dùng sạng đảo qua đảo lại cho miếng thịt gà săn và vừa chín tới. Lấy ra, cho vào rổ tre bên dưới dùng thau hứng nước gà nhỏ xuống. Lấy nước gà hòa chung với nước cốt dừa nấu sôi bùng lên. Cho gạo rang vào nấu. Bếp lửa chụm bằng củi trâm bầu (phải bằng củi trâm bầu cơm mới có mùi thơm đặc biệt). Cơm vừa chín tới để gà vào, trộn đều đậy nắp lại chờ cơm chín.

Cơm phụng hoàng hí loan châu không khó nấu. Nhưng lượng nước cốt dừa hòa nước gà xào thế nào mà khi chín hột cơm không bị bể, không nhão, không cứng… Cơm nầy được ăn bằng dĩa và dùng muỗng múc chớ không dùng đũa chén như cơm thường. Mợ Hai dùng cải xà- lách lá nhỏ, mỏng, có màu xanh như ngọc, mướt như lụa và nhẹ như tơ sắp theo hình dĩa tròn hay bầu dục. Rồi múc cơm để lên dĩa. Tém sửa cơm cho khéo cho đầy đặn không bị lồi lõm, lủng lỗ lủng hang.

Nhìn dĩa cơm: Hột cơm thuôn dài màu vàng kim óng ánh của dừa hòa với ca- ri thấm vào. Lẫn lộn trong cơm là màu mã não của nấm. Màu thắm tươi của củ cải đỏ. Màu vàng ca- ri của thịt gà. Màu xanh của hành lá xắt nhỏ. Trông dĩa cơm đẹp mắt vô cùng…

Khi muỗng cơm để vào miệng, hột cơm bời rời nhưng không khô cứng. Nó vừa mềm vừa béo vừa thơm của mỗi thứ kèm chung với cơm đều có mùi vị đặc biệt. Cơm không mặn, không ngọt, không lạt. Cho nên ăn loại cơm nầy không cần phải thêm một thứ nước sốt nào cả. Đó mới là cái khó và cái khéo của người nấu cơm phụng hoàng hí loan châu.

Cô Hai tôi qua thăm dắt ra nhà lồng chợ Cần Thơ mua hàng lụa may áo quần dài đồng phục cho tôi. Hai cô cháu ghé qua hàng bún tôm và nem nướng, mỗi người ăn một tô lớn: Dưới đáy tô đựng giá bóp bể hai bể ba, và rau sống xắt nhuyễn trộn chung với cải xà- lách. Bên trên là bún tươi trắng nuột nà dưới lớp màu đỏ của thịt con tôm càng xé tơi. Trên tôm được trải lớp đậu phộng cà nhỏ và chan mỡ hành. Nằm ngang trên tô bún còn có cây ghim chừng năm viên nem nướng vàng lửa than và được phết mở hành bóng lưởng. Tôi bắt chước cô lấy đũa vuốt mấy viên nem nướng rơi vào tô. Chén nước mắm chua ngọt có củ cải đỏ, củ cải tráng xắt chỉ và mấy lát ớt sừng trâu chín. Ăn xong tô bún cô tôi gọi thêm hai ly bông cỏ. Tôi nhìn ly bông cỏ cười, nói với cô:

– Chắc cháu ăn không nỗi nữa đâu, ăn tô bún đã no cành hông rồi chỗ đâu mà chứa ly bông cỏ.

Cô tôi cũng cười. Lấy muỗng quậy ly bông cỏ cho nước đường tan đều và đẩy về phía tôi, nói:

– Hai cô cháu đi mua đồ tới trưa lận. Ăn bún mau no, nhưng bún và rau cải sẽ tiêu mau lắm, bông cỏ có thấm gì đâu, đi một hồi cháu lại kêu đói cho coi.

Tôi mỉm cười gật đầu. Dời ly bông cỏ gần mình hơn, tôi cầm muỗng quậy nhẹ. Mùi bông cỏ thoảng lên, màu trong xanh của bông cỏ được ướp lạnh, những giọt nước nhỏ long lanh bám ngoài thành ly. Dù bụng có no cách chi đi nữa, nhưng sự hấp dẫn của ly bông cỏ nầy thúc đẩy, làm tôi nhẹ kê ly lên miệng ực một hơi, không còn giữ phong độ của người phụ nữ khi ăn, mà nhiều lần cô tôi đã dạy. Cô nhìn tôi lắc đầu cười rất có duyên. Tôi cũng nhìn cô cười cầu tài.

Hai cô cháu ra khỏi hàng ăn đi vào nhà lồng chợ lựa hàng. Cô chê hàng vải tạp nhạp trong sạp không chắc và không đẹp, nên cô dắt tôi qua dãy phố có mấy người chủ là người Bombay. Chúng tôi vào tiệm, cô lựa hàng may cho tôi hai bộ quần áo dài trắng bằng soa Pháp. Cô tôi hỏi:

– Thể Hà, cháu có chịu hàng nầy không?

Tôi cầm hàng xâm soi, cười trả lời cô:

– Cô mua thứ gì cháu mặc thứ ấy. Cháu có biết tốt xấu gì về hàng vải đâu. Nhưng cháu không thích hàng mỏng.

Cô tôi đưa mình hàng về phía ánh đèn điện nheo mắt nhìn, nói:

– Soa Pháp này được, có hơi mắc tiền một chút nhưng lại bền, may nguyên bộ đi. Mình hàng vừa mịn màng, vừa chắc, vừa dầy, mặc trông kín đáo chớ không như lộng kiếng thân hình. Thôi thì cắt may hai bộ đồ hàng trắng nầy đi nhen cháu. Và cháu qua coi tơ nhập cảng dảy bên kia lựa hai cái áo dài trắng có dệt ẩn bông trắng hay cành lá trúc trắng cho khác biệt, nếu không thì các bạn học cứ tưởng cháu gái cô có cái áo mặc hoài, và mua hai quần sa- teng đen nữa. Cháu thấy đủ không?

Tôi chưa kịp trả lời thì cô nói luôn:

– Ờ, còn may thêm cái áo dài màu thiên thanh và cái quần trắng để cháu mặc mỗi khi đi dự lễ của trường nữa chớ.

Tôi nhăn mặt:

– Thưa cô, may một bộ đồ dài trắng thôi. Hai áo dài trắng hai quần đen và một áo dài màu thiên thanh nữa thì quá đủ rồi. May nhiều làm chi? Ai nói con mặc hoài một cái áo cũng chẳng sao miễn người đứng gần mình không nghe mình hôi là được rồi vả lại biết đâu sang năm con mập ra sẽ mặc không vừa và phải đành bỏ thì tiếc lắm đó cô à.

Cô khoát tay như bác bỏ ý kiến của tôi:

– Đừng lo, cô hứa từ đây đến cháu học hết năm đệ nhứt, vào mỗi đầu năm học cô sẽ cho tiền cháu sắm áo quần, khăn nón giày dép… đâu phải sợ mặc quần áo cũ.

Tôi vẫn giữ ý mình nên nói:

– Cháu không ngại mặc quần áo cũ đâu. Cháu chỉ không thích phí phạm tiền của cô và ba cháu. Làm ra tiền cực khổ lắm.

Cô nhìn tôi, ánh mắt trìu mến:

– Cháu không phải lo. Cô và ba cháu chỉ có mình cháu thôi chớ phải năm ba đứa đâu mà sợ không lo nỗi. Vậy thì hãy nghe theo cô đi.

Mợ dược sĩ của tôi sanh ra ở nơi Hoàng Triều Cương Thổ. Mợ muốn và luôn hướng tôi sau nầy nối nghiệp mợ. Mợ thường gởi thơ cho cô cháu chồng côi cút mới vào đệ thất mà mợ làm tôi có cảm tưởng mợ viết cho thiếu nữ đã xong phần hai vậy: “Thể Hà nì! Chừng mô cháu lên thăm cậu mợ và chị cháu? Cháu nhớ nghen cứ theo nghề mợ thì “số zách”. Mình là đàn bà con gái nên làm những việc ở trong văn phòng, ở thành phố. Đừng học nhiều nghề mà mai tê khi ra trường phải đi vùng quê thì sẽ bị thiệt thòi lắm, sẽ không được nhàn nhã và sẽ cực nhọc. Ông trời sanh phụ nữ chúng ta ra không phải bắt chúng ta làm nặng nhọc như đàn ông mô. Khi mô xong tú tài hai, cháu lên cái đất Đàlạt ni, mợ lo giấy tờ mọi thứ cho cháu! Chớ có nghe lời ai đi học ngành khác… mà cực đổ mồ hôi sôi nước mắt lắm tê… “

Xem xong thư mợ, tôi mỉm cười một mình mà nghĩ rằng: Nhờ kiếp trước mợ có tu, nên kiếp nầy mợ được sanh vào gia đình quyền quý, được cắp sách đến trường, được nhứt hô bá ứng, được cuộc đời ưu đãi, mợ gặp ông chồng hiền lành như cậu, nên mợ mới vô tư hạnh phúc mà nghĩ và nói như vậy.

Bà vú vẫn được ba tôi trả tiền hàng tháng.

Mười mấy năm rồi lương bà vẫn như thế, dù ba tôi trả thêm bà cũng không lấy. Mỗi lần ba tôi lên lương thì bà nói:

– Nhờ thầy cho tôi ở đây chăm sóc cô Ba, nấu nướng giặt giũ làm việc lặt vặt trong nhà có gì nặng nhọc đâu. Tôi lại có được chỗ ăn chỗ ở tốt như vậy là tôi mừng và cảm ơn thầy không hết. Tôi cũng không cần tiêu xài nhiều. Có tiền cũng cất đó thôi. Thỉnh thoảng tôi chỉ về thăm bên nội cháu còn cúng giỗ ba cháu thì đã có bà nội và chú cháu lo hết rồi.

Ba tôi vui miệng hỏi thăm bà:

– Con trai chị tên gì? Năm nay cháu bao nhiêu tuổi rồi? Chắc là học giỏi lắm?

Niềm vui hiện rõ trên nét mặt vú, nét mặt của bà mẹ vô cùng thương yêu đứa con ở xa:

– Thưa thầy, cháu tên là Vũ Đông, cháu lớn hơn cô Ba bốn tuổi, cháu đang học lớp đệ tứ. Cuối năm học nầy, cháu thi bằng Trung học đệ nhất cấp. Mặc dù má chồng và bên chồng tôi không ưa tôi, vì họ nghĩ là tôi rù quến chồng tôi đi theo Thanh Niên Tiền Phong, để rồi bị Tây bắn chết. Nhưng với con trai tôi họ quý yêu nó vô cùng. Cũng bởi nghĩ đến tình nghĩa chồng tôi đối với tôi, và cháu lại là cháu nội đích tôn độc nhất của họ để sau nầy nối dòng nối dõi nhà họ Vũ, cho nên tôi nhượng bộ, để bên nội bắt, chớ không thì chết sống tôi cũng giành con về với tôi.

Nói đến đây, vú mủi lòng mắt đỏ hoe. Ba tôi trầm giọng hỏi:

– Nghe chị còn có người em chồng làm thương mại giàu có lắm mà. Bộ ổng không có con cái sao?

Vú lau nước mắt, chậm rãi trả lời:

– Thưa thầy, chú ấy làm nghề xuất nhập cảng giàu lắm.“Đặng hào của thì không đặng hào con “, sau khi vợ chú sanh đứa con gái đầu lòng, đâu bằng tuổi cô Ba thì bị mổ nên không sanh đẻ được nữa.

– Vậy con chị có biết cái khổ tâm của chị vì không được sống gần nó không?

– Thưa thầy có. Hai năm trước khi má chồng tôi qua đời, chú thím ấy bảo tôi về sống với chú thím để được gần con. Nhưng tôi tự ái và sau khi nhà tôi qua đời, tôi bị bên chồng hất hủi và cho cái thai trong bụng là của người khác chớ không phải của chồng tôi nên tôi thề với lòng: Dù có cạp đất ăn, tôi cũng không thèm về chung sống với những người ăn nói vô lương tâm ấy. Tôi cũng biết của cải chú đang gầy dựng thêm cũng là của chồng tôi giao cho chú để phụng dưỡng mẹ già trước khi ổng thoát ly gia đình. Còn cha chồng tôi chết trước khi ba mẹ con họ di cư vào Nam. Tôi chỉ về bên đó vào những ngày giỗ chồng tôi. Những ngày ấy thì mẹ con tôi gặp nhau. Giữa năm, lúc về quê giỗ ba má tôi, tiện dịp tôi cũng đến thăm cháu ở cổng trường. Mẹ con dẫn đi ăn, chuyện trò rồi tôi về trong ngày đó. Cháu là đứa trẻ biết chuyện, hiếu thảo, biết làm vừa lòng mọi người nên chú thím nó thương như con ruột. Nên tôi rất an lòng để cháu sống bên nội. Thật ra, nếu theo tôi, cháu chưa chắc có cuộc sống bảo đảm và học hành được như vậy đâu.

Tôi nghe đến đây thì buồn cho sự xa cách của mẹ con vú, nhưng cũng có hơi chút ganh tị, nên vọt miệng hỏi:

– Con với anh Đông của vú, vú thương ai nhiều?

Vú giật mình còn đang bối rối vì câu hỏi bất ngờ của tôi. Ba tôi đỡ lời, vội rầy nhẹ tôi:

– Con thiệt kỳ cục! Đã là học trò Trung học, lớn rồi mà như trẻ con vậy “Thiên hạ từ mẫu tâm”, dĩ nhiên là vú phải thương con vú hơn chớ.

Tôi không chịu, háy ba rồi ôm vú:

– Không được! Vú phải thương con hơn anh Đông. Vú phải sống với con suốt đời. Xa vú con sẽ buồn lắm đó vú ơi!

Vú nhẹ vuốt tóc tôi, đôi mắt buồn. Vú hiền lành trả lời:

– Vú sẽ thương cả hai như nhau, được chưa? Cô Ba lớn sẽ đi lấy chồng bỏ vú.

Tôi nhìn ba cười:

– Ba thấy chưa? Con là số một trong lòng vú mà! Vú à, con sẽ không lấy chồng. Nếu con lấy chồng vú cũng phải đi theo con.

Ba tôi không nỡ rầy tôi nữa. Ông biết rằng từ nhỏ đến lớn tôi chỉ biết có vú là người đàn bà gần gủi thương yêu tôi như con. Và tôi cũng thương bà như má ruột của mình.

Sáng ngày khai trường, tôi được vú gọi thức dậy thật sớm. Ăn sáng xong thì tôi đi tắm. Từ phòng tắm tôi bước ra thì vú đi theo tôi vào phòng phụ giúp tôi thay áo dài. Tôi phải cài hàng chục cái nút áo kết li chi từ trên cổ, theo vạt đi vòng qua nách rồi theo hông đến tận eo ở lưng quần. Tôi hết sức ngượng ngùng mắc cỡ trong bộ đồ dài mới, trắng tinh. Giầy săng- đan trắng. Tóc xõa ngang vai gọn gàng trong chiếc băng đô tím e ấp trong chiếc nón bài thơ cuả mợ dâu dược sĩ về thăm Huế mua cho. Tay tôi ôm chiếc cặp da màu nâu của cậu mợ Ba tặng. Tôi đứng trước mặt ba lí nhí:

– Thưa ba con đi học.

Ba nhẹ để tờ báo xuống, trễ kiếng lão nhìn tôi. Ông vừa ngạc nhiên vừa sung sướng, vui vẻ nói:

– Ô, con gái của ba mặc áo dài trông cao lớn xinh đẹp giống như cô thiếu nữ rồi. Không còn bé thơ nữa.

Tôi cười nhăn mặt với ba rồi đi ra cửa. Sáng nay nắng chói chang reo vui trên hàng cây hai bên lề đường. Nắng trải trên nóc nhà ngói đỏ san sát trong tường gạch, trong hàng rào bằng cây chuốt nhọn đầu, hay trong hàng rào bằng cây sơn trà hoặc cây bùm xụm được chủ nhà cắt xén bằng mặt ngay hàng, thẳng lối. Những hàng rào nầy vừa làm đẹp vừa phân biệt của riêng từng nhà, còn làm ranh nhà để tránh cảnh trẻ con chạy phá lung tung, vào ra lộn xộn và ngăn ngừa kẻ xấu, kẻ ăn cắp vặt.

Học sinh đi đơn độc hay từng nhóm năm ba người nói cười vui vẻ trên đường đến trường. Gió nhè nhẹ thổi qua làm vạt áo dài tôi tung bay rồi nhẹ nhàng hạ xuống. Nữ sinh chúng tôi như đàn bướm trắng bay lượn về hướng trường trung học Phan Thanh Giản. Chưa đến giờ, cổng trường hãy còn đóng kín. Nam sinh mặc đồng phục với áo trắng bỏ trong quần xanh ủi láng cón bảnh bao, thắt lưng, giày vớ. Tóc tai lại mới cắt trông sạch sẽ gọn gàng lịch sự.

Ngôi trường đơn sơ được bao bọc chung quanh bức tường rêu phong cao khỏi đầu. Ngôi trường đã tôi luyện đào tạo biết bao nhiêu người ưu tú vào đời để góp bàn tay giúp nước. Tôi sung sướng được vào học trường nầy. Tôi miên man trong niềm hạnh phúc của cô học trò nhỏ trước ngưỡng cửa trung học. Tôi quên vú đã đi sát bên tôi từ nhà đến đây. Đến khi vú trao chiếc cặp và thì thầm bên tai tôi thì tôi mới nhớ:

– Vú ở đây chờ trống đánh vào lớp thì về, chiều tan học vú sẽ đến đón cô Ba.

Tôi gật đầu. Hàng ngày vú đưa đón tôi hai buổi đến trường. Sang ngày thứ tư của niên học, trong buổi cơm chiều tôi nói:

– Ba, vú à, mai con đi học một mình, vú không phải đưa đón nữa.

Vú ngạc nhiên, hỏi:

– Sao vậy cô Ba? Bộ chiều nầy vú đến trễ cô Ba giận hả?

Ba tôi cũng ngạc nhiên ngừng ăn, hỏi dồn:

– Sao vậy con? Nếu không cho vú đưa thì ba gọi xe lôi đạp tháng chở con đi học nghen. Con phải đi bộ một mình từ nhà ra đại lộ Hòa Bình quẹo phải rồi đi đến gần dinh tỉnh trưởng mớii rẽ sang trái qua đường Phan Thanh Giản. Đi một đổi khỏi trại gia binh mới đến trường. Xa quá, ba không an lòng để con đi một mình như vậy đâu.

Tôi phụng phịu nói với vú và ba:

– Ba à, nay con đã lớn, con vào trung học trường tỉnh rồi. Phải để con đi học một mình. Vú đi theo, mấy đứa chung lớp thấy được sẽ cười con. Chúng sẽ nói con chưa dứt sữa nên vú theo tò tò để cho bú coi kỳ lắm. Vả lại ba biết không? Có mấy đứa lớp con nhà nó còn xa hơn nhà mình nữa kìa. Nhà tụi nó ở dưới nhà thờ lận, con sẽ về chung bọn với tụi nó, và đi học chúng nó sẽ ghé qua nhà mình để rủ con cùng đi. Vậy ba và vú yên tâm rồi phải không? Hôm nào mưa, con sẽ gọi xe lôi để về nhà.

Ba và vú có vẻ không bằng lòng, nhưng cũng chịu để tôi đi học chung với chúng bạn chung lớp cùng đường. Nhưng mấy bữa đầu ba không yên bụng dặn vú ngầm len lén theo sau tôi.

Cha con tôi và bà vú, sống yên ấm trong ngôi nhà cũ mua được mấy tuần, trước ngày ba tôi nhận nhiệm sở mới, và gia đình dọn đến đây. Nhà cửa ở thành phố lớn thì sang trọng, sạch sẽ, đầy đủ điện, nước, rất tiện nghi…

Ở thành phố xe cộ dập dìu, người người tới lui tấp nập. Bánh hàng đầy dẫy lúc nào muốn ăn cũng có. Muốn đi xem phim, xem hát cải lương lúc nào cũng được. Có rạp bình thường thì chiếu phim, khi có gánh nào mướn rạp, hoặc địa phương tổ chức đại nhạc hội thì chủ rạp cũng cho mướn. Có những gánh hát lớn về mướn như gánh: Thanh Minh Thanh Nga, Thành Đươc Út Bạch Lan, Kim Chưởng, Kim Chung… Những Đại nhạc hội bán vé chạy nhứt nhiều giới ưa thích nhứt là có cặp hát kích động Hùng Cường Mai Lệ Huyền, Yến Vĩ, nữ hoàng Tuýt Túy Phượng, Ba Con Mèo, Ba Con Chó Điên… ban kịch Sống… Thỉnh thoảng về trình diễn để thỏa mãn lòng của khán thính giả mến mộ… Rạp Tây Đô chiếu phim Âu Mỹ phụ đề Việt ngữ. Rạp Casino chiếu phim Ấn Độ và những phim đánh chưởng thích hợp với lớp bình dân. Rạp Trung Ương chiếu phim thường trực phim Tàu các loại phim xưa. Rạp Trung Quốc cho các gánh cải lương mướn trình diễn hoặc cho đại nhạc hội nhiều hơn. Khi nào không ai mướn họ mới cho chiếu những phim cũ xì.

Rạp Trung Quốc nằm ở góc đường Nguyễn An Ninh và Phan Đình Phùng, kế bên quán cơm xã hội. Quán cơm phát cho dân nghèo ăn tại chỗ hay xách về mà không phải trả tiền. Một việc làm bất vụ lợi do bà Phạm Bá Hoa đứng ra tổ chức. Trong tâm hồn trong trắng thơ ngây của cô học trò nhỏ là tôi đây hình ảnh của bà Phạm Bá Hoa và việc làm của bà đã cho tôi một ấn tượng đẹp vô cùng. Ấn tượng đó làm hành trang vào đời cho tôi sau nầy. Mặc dù tôi chưa ăn bữa cơm nào ở quán ăn của bà, và tôi cũng chưa nhận được ân huệ nào của bà cho. Nhưng tôi rất ngưỡng mộ người phụ nữ nầy! Tìm hiểu ra tôi mới biết bà là phu nhân của đương kiêm Đại tá Tỉnh Trưởng Phạm Bá Hoa.

Tôi đang sống ở thành phố phồn thịnh lớn nhứt ở miền Hậu Giang, nơi đó có bao đứa khoảng tuổi tôi ước mơ mà chưa được. May mắn hạnh phúc hơn nhiều người như vậy nhưng lòng tôi vẫn luôn nhớ về làng Mỹ Đức Đông, vùng quê ngoại thân thương. Nhớ quận Sùng Hiếu, nơi tôi được sanh ra và sống thuở ấu thời. Nơi đây có dòng sông nước trong và ngọt quanh năm. Xe cộ qua lại trên Quốc lộ Bốn và dân chúng trong châu thành quận bên kia sông muốn qua chợ, vào Chi y tế, trường học… đều phải dùng cây cầu đá lớn đúc bê- tông cốt sắt bắc ngang sông An Hữu, hoặc phải dùng đò ngang. Dân chúng sống với nghề ruộng rẫy nhứt là trồng cây ăn trái nổi tiếng: Cam, ổi xá lị, chôm chôm tróc, xoài cát đen, chuối cau… Các loại cá đồng từ Đồng Tháp Mười chở ra nào cá lóc, cá bông, cá rô mề, lươn, chim, chuột đồng… Và tôi nhớ lắm con bạn cùng trường Huỳnh Thị Thái Vân. Không biết bây giờ nó ra sao? Sau ngày gia đình nó lâm vào hoàn cảnh bi đát!