← Quay lại trang sách

Chương 4

Bên phải nhà ngoại tôi thì có gia đình bà Bảy Lấc. Chồng bà đi lính Tây chết lâu rồi, chết lúc tôi chưa ra đời. Nhưng ai cũng gọi bà qua tên chồng như lúc ông còn sanh thời. Chồng bà chết để lại cho bà thằng con trai và ba công vườn hương hỏa của ông cha mấy đời để lại. Miếng vườn nằm dọc theo vàm rạch Ông Hưng bẻ cong ra dòng sông Mỹ Đông. Mặc dù ngày xưa ông Bảy Lấc đi lính Tây, nhưng dân làng vẫn còn mến mộ ông. Vì ông là một cựu quân nhân.

Sau nhà bà Bảy Lấc có đìa ấu. Dây ấu đan chằng chịt. Lá ấu xanh mượt mà tươi tốt, dầy đặc cả mặt đìa sâu, không còn một khoảng nhỏ để có thể nhìn thấy cá lội, cá ăn móng trong nước. Sát mé đìa có đám rau cần nước xanh um, tươi tốt nhờ những con nước lớn tràn bờ. Ông ngoại tôi nói, rau cần nước xào với thịt bò, có vị thuốc ăn vào sẽ được bổ huyết.

Gia đình ngoại tôi với bà Bảy Lấc không có họ hàng dây mơ rể má chi cả. Nhưng hai nhà ở sát bên nhau. Xóm giềng qua lại thành gần gũi như người thân. Đôi khi tôi về thăm ngoại, gặp mùa ấu, bà Bảy đem cho cả rổ. Củ ấu nhìn xấu xí, da đen thủi đen thui, có ngạnh có góc như cái sừng trâu. Ấy vậy mà đem nấu chín bẻ làm đôi, mở vỏ ra thì bột trong ruột trắng phau phau ăn bùi và béo hơn hột mít nhiều. Mặc dù ông bà ngoại tôi không họ hàng thân quyến gì với bà Bảy, nhưng ngoại dạy tôi gọi con bà Bảy là cậu Ba Thơ.

Cậu Ba Thơ mình dây, hiền lành và ít nói. Cậu không đi làm ruộng ngoài đồng, không tát mương bắt cá, không chẻ củi, làm rẫy nương hay bán buôn kiếm tiền để nuôi nấng gia đình như những người đàn ông khác sống trong vùng.

Cậu mợ Ba Thơ sanh cho bà Bảy bốn đứa cháu nội, trai có gái có thật là kháu khỉnh. Vợ con đầy đàn như vậy mà đầu cậu cạo trọc lóc và lúc nào cũng đội chiếc nón bằng len đan màu nâu cũ xì. Quanh năm suốt tháng cậu chỉ có đôi dép da, ba bộ đồ để mặc. Đó là bộ quần áo vạt hò màu vàng sậm, màu nâu già, hoặc màu lam nhạt, cổ cậu Ba Thơ luôn đeo xâu chuỗi không biết bằng gì mà màu như mã não, trong vắt, hột to bằng trái mù u nhỏ, dài thòng tới rún.

Người trong thôn xóm ai cũng gọi cậu là thầy Ba Thơ. Trong gia đình cậu, từ trên xuống dưới đều ăn chay một tháng mười ngày, còn những ngày khác thì ăn mặn. Khi vui cậu thường bảo rằng: “Phật ở trong tâm. Phật dạy người đời làm lành lánh dữ. Đọc kinh niệm Phật, ăn chay trường mà lòng không ngay thẳng, không tích thiện thì chẳng nên chi… Trong tâm tôi, trong tim mọi người tin tưởng có Phật thì có Phật! Tôi giúp cho người, người trả công để tôi có mà sống mà tiếp nối công việc của mình. Tôi không xưng danh, không kêu gọi, không gạt gẫm bá tánh lập chùa lập miễu lập am, để dựa vào đó mà làm lợi cho cá nhân mình…”

Nếp sinh hoạt của gia đình cậu Ba Thơ đều đặn, không sai chạy một bữa: Vào canh ba nhà cậu vang hồi chuông mõ cúng công phu sáng. Vào cuối ngày thì cúng công phu chiều. Những ngày rằm hay mùng một hay những ngày làm lễ cho người ta thì nơi thờ cúng của cậu khói hương nghi ngút. Cậu Ba Thơ làm thầy tại gia ở căn nhà trên có vách ván được dừng ngang riêng biệt. Nhà dưới dành cho má cậu, vợ con ở, và phía sau nhà bếp có vựa củi lớn cùng cái bồ lúa cao quá đầu người.

Dưới mé sông nhà cậu có mấy cây me keo già cao nghệu, da mốc trắng, thân cây nghiêng nghiêng lồng bóng nước. Nhiều chùm trái me keo chín, vỏ ngã màu trắng bạc chen màu hồng, dính đeo treo lơ lửng trên các nhánh cao khẳng khiu gie ra sông, khêu gợi sự thèm thuồng cho trẻ con, trong đó có tôi. Dưới sông là bãi sình có đống chà chôm cho tôm cá ẩn náu. Mỗi khi con nước rong tràn sông, ở gần đống chà mợ ba Thơ thường có treo thả dưới nước một chùm lá cứt quạ nhử cá chài, cá mè vinh đến ăn để chúng dễ dàng bị mắc câu hoặc lọt vào rọ đã được đặt ngầm sẵn dưới nước kế chùm lá cứt quạ kia.

Cổng nhà cậu Ba Thơ bằng cây huỳnh anh bốn mùa bông nở vàng. Cậu còn trồng mấy bụi bông trang, bông điệp bên trong hàng rào gần bàn thờ Ông Thiên. Lúc nào cây bông trang cũng có những chùm bông đỏ thắm tươi. Đôi khi bà Bảy má cậu, cắt bông này vào để cúng ở các bàn thờ.

Trước bàn thờ Ông Thiên trong sân nhà là ao đào theo hình bán nguyệt. Dưới ao được trồng loại bông súng tía. Loại bông súng nầy vào thuở đó rất hiếm. Đi qua năm bảy làng mới thấy có ao trồng được vài bụi. Lá bông súng tía tròn như lá sen nhưng không vươn lên cao như lá sen, mà lá nằm trải trên mặt nước. Trong ao có nuôi loại cá có nhiều màu. Chúng trồi lên đầy mặt nước khi rải thức ăn. Chúng nhàn hạ nhởn nhơ bơi lội. Hoa bông súng mọc cao hơn mặt nước và to hơn bông súng hoang dại mọc ở đìa, ở ruộng. Có nơi người ta gọi là bông súng Đà- Lạt. Hoa có nhiều cánh thon và dài hơn ngón tay giữa, giống như lá trúc và ở chót cánh hoa bầu tròn chớ không nhọn như lá trúc.

Dưới ánh nắng chan hòa của buổi bình minh lấp lánh chiếu những hạt sương còn đọng làm cho hoa thêm tinh khiết thắm tươi. Vào buổi hoàng hôn còn vương vấn những tơ nắng mong manh màu hoa trở tím làm bông súng có vẻ đẹp u buồn để rồi mờ dần, mờ dần theo màn đêm buông xuống.

Dân trong thôn xóm, có khi ở các làng lân cận rước cậu Ba Thơ đến nhà tụng kinh khi có ma chay, cúng giỗ, cầu an, cầu con, cầu siêu… Nhưng thường thì họ đến nơi thờ phượng của cậu để cúng nhiều hơn. Cậu Ba Thơ còn xem ngày dời mồ mả, cưới, hỏi, cất nhà, làm đường, xuống ghe, xuất hành, buôn bán, khai trương vv… Ngôi nhà của cậu phía trước làm nơi thờ phượng, có thờ nhiều tượng và hình vẽ Ông Thiện, Ông Ác, bà Chúa Sứ.

Ghe xuồng khách thập phương đến đậu dưới bến nhà cậu, tuy không đông bằng bịnh nhân đến khám bịnh ở nhà ông ngoại tôi như thuở ông còn hành nghề, nhưng cũng có lác đác tới lui để cầu, xin, cúng, bái…

Mợ Ba Thơ là người đàn bà quán xuyến. Mợ thay chồng canh tác mẫu ruộng của cha mẹ ruột cho làm của hồi môn, lúc cậu Ba cưới mợ. Tới lứa thì mợ hái trái cây vườn và huê lợi của mấy liếp rẫy mợ trồng trọt đem ra bán ở chợ làng, cộng thêm vào tiền bá tánh trả công cho cậu Ba mà gia đình cậu mợ được sung túc. Mấy đứa con cậu mợ đến trường học đàng hoàng. Mợ dạy dỗ con cái nghiêm khắc nên chúng hết sức lễ phép, khác với những đứa trẻ nghịch ngợm phá phách ở trong xóm trong làng. Con cậu mợ có đứa lớn tuổi hơn tôi, có đứa bằng tôi và có đứa nhỏ hơn. Đứa nào cũng cạo đầu nhưng ngay ở mõ ác có chừa chùm tóc để dài và luôn vén chùm tóc nầy ở một bên lỗ tai. Còn mấy đứa nhỏ thì cạo đầu, chừa ba chòm tóc, để cạo thành ba vá bánh bèo, như các tiên đồng trong tranh Tàu rất ngộ nghĩnh dễ thương.

Sau nhà ngoại tôi, ngoài những liếp đất rộng trồng cây trái cách nhau bởi cái mương đào có nhiều rau mác, lục bình. Liếp vườn cuối rộng rãi hơn những liếp kia mà người trong nhà thường gọi là côi vườn. Côi vườn được lớp tre gai bao bọc bên ngoài, bên trong trồng một lớp xương rồng dầy. Ngoại tôi thường nói trồng tre gai để ngăn chặn được trâu chạy loạn vào húc cây trái và làm vỡ đất, vỡ mương trong vườn, nhưng thật ra một phần thì để ngăn chặn những trẻ chăn trâu ăn cắp vặt hoặc phá phách trái cây trong vườn. Liếp đất ở côi vườn có mồ mả ông bà cố, người thân trong gia đình, có luôn mộ má tôi và mộ chị tôi nằm sát bên nhau nơi góc trái mà ba tôi trồng bông mười giờ để lúc nào quanh nấm mộ cũng có hoa nở thắm tươi. Trong phần đất làm nghĩa trang của gia đình nầy, ngoại tôi cho trồng nhiều loại mai mà lúc còn sanh thời má tôi rất thích, như: huỳnh mai, bạch mai, mai chiếu thủy, mai tứ quí. Mỗi khi vào cuối đông, ngoại cho người lãy lá huỳnh mai, bạch mai.

Tôi thương bầu trời trong xanh không gợn một chút mây. Gió xuân nhè nhẹ thổi. Tiếng lá tre reo lào xào lùa trong gió. Tiếng chim chích chòe, tiếng chim trao trảo, tiếng chim chìa vôi… trên cành cây đâu đây líu lo giữa thôn trang tĩnh mịch hòa với tiếng náo nức của tu hú mừng đón Tết về.

Những ngày đầu năm, bạch mai xôn xao khoe sắc trong màu nắng thủy tinh. Huỳnh mai vàng vương giả ngạo nghễ với hoa vàng ối cả khu vườn. Hương thơm của mai chiếu thủy nhè nhẹ thoang thoảng… Trước cảnh êm đềm như thoát tục nầy, có lần tôi buột miệng nói với bà ngoại:

– Nơi đây thật giống cảnh tiên! Lúc con chết, ngoại chôn gần mộ má con kế cội mai vàng!

Bà ngoại tin dị đoan lính quýnh chấp hai tay trước ngực, nhắm nghiền đôi mắt, đầu cúi thấp, miệng thành khẩn lâm râm:

– Lạy tạ Trời Phật, cháu còn nhỏ dại, xin được bỏ qua, xin được bỏ qua. Không chấp nhứt, không chấp nhứt. Chúng con xin kết cỏ ngậm vành để cảm tạ ơn Trời Phật, cảm tạ ơn Trời Phật.

Vái xong, nhưng nét mặt ngoại vẫn còn gợn nỗi âu lo. Bà xoay qua tôi gắt nhẹ:

– Năm mới năm mủng cháu không được nói xui xẻo như vậy nữa nghen. Ông ngoại mà nghe được những lời xui xẻo đó thì ông sẽ giận, cháu sẽ bị đòn và sẽ bị rầy nhiều hơn nữa.

Ở dưới bến sông nhà ngoại tôi có trồng một hàng sáu cây dừa Tam Quan. Buổi trưa hè, hái trái dừa tươi xuống, vạt vỏ, chặt ngang miệng uống nước. Nước dừa đi vào bụng tới đâu thì nghe mát ruột mát gan tới đó. Năm nào cũng vậy, khi dừa đến lứa ngoại luôn để dành tôi về ăn, hoặc hái xuống sai người đem lên cho. Con sông Mỹ Đông khúc nhà ngoại tôi ờ hơi hẹp nhưng đi lần ra chợ Cái Thia thì sông càng lúc càng rộng và nhập vào nhánh sông cái Cối xuôi theo sông Tiền Giang chảy ra biển Tân Thành. Sông nhà ngoại tôi nhỏ nên bên nầy sông, nếu có ai nói lớn thì bên kia sông nghe. Dân trong xóm thường thăm, hỏi nhau những chuyện thông thường thì hay ngồi bờ sông bên nầy nói chuyện với người ngồi bên kia sông.

Những lúc về thăm ngoại, cái thích thú nhứt của tôi là mỗi buổi sáng, tôi thường thức dậy sớm khi trời còn tờ mờ, khi bà Tám phụ giúp việc nhà thả heo gà vịt ra khỏi chuồng và cho chúng ăn, tôi lẽn xuống ngồi ở bờ sông nhìn những xuồng chài cá và mặt trời lên ở phương đông, bên kia ruộng lúa, lúc sương mù chưa tan.

Trời sáng dần, ửng phía trời xa mây pha những tia sáng màu vàng, xanh, đỏ, tím…rõ rệt. Nhưng mặt trời thì vẫn còn nằm sau những rặng cây xanh. Bầu trời xanh cao thăm thẳm, lác đác điểm vài cụm mây trắng mỏng.

Dòng sông Mỹ Đông lững lờ, nước ròng nhè nhẹ chảy ra. Mặt sông phẳng lặng. Sương mù màu trắng đục mờ tỏa trên mặt nước, tạo thành những cuộn mây trắng lung linh khi ẩn khi hiện, chỗ dầy chỗ mỏng rồi vương vấn trên những đám rau mác, những cụm lục bình xanh biếc có điểm những hoa tím.

Tôi cảm thấy tâm hồn nhẹ nhàng lâng lâng, như hòa nhập vào làn khói sương mù tỏa bay tản mạn trên ruộng đồng, sông rạch.

Vào buổi sáng tinh sương trong lành đó, người thợ chài, thợ lưới thật vô tư, không cùng quằng, không nghĩ ngợi viễn vông. Họ nhịp nhàng làm việc, nhanh nhẹn thoăn thoắt tung lưới vãi chài trên xuồng, hay trên ghe tam bản. Người vãi chài đứng trước mũi: nhúng mình quăng miệng chài tròn vo dang rộng chụp cả một vùng nước. Người chèo hoặc bơi sau lái, nghe theo sự điều khiển của thợ chài, bơi qua phải, móc qua trái, bơi lui, hay chèo tới… Khi chài đã chìm hẳn xuống nước, người thợ chài từ từ kéo chài lên. Tôm, cá đen, cá trắng, tép… dính vào lưới chài. Người thợ chài lanh lẹ gỡ ra, thẩy xuống khoang ghe. Còn tôm càng thì thả vào cái rọng được cột chặt ở mạng ghe, thòng dưới nước. Rồi họ lại bơi đến chỗ khác, gần đó tiếp tục vãi chài. Thủy sản trời cho, ai siêng năng cần cù thì bắt được nhiều để ăn hoặc đem bán.

Bầy vịt tìm mồi trong những giề rau mác. Hoặc chúng rỉa lia ria lịa trên mé nước sình. Có con no bụng hả hê, vỗ cánh bành bạch, ngóng cổ kêu oang oác. Có con lặn sâu xuống nước rồi trồi lên đằng xa. Con nầy rượt con kia. Con vỗ cánh bay lên đáp xuống kêu ỏm tỏi. Nơi bãi sú gần bờ sông kế đám đưng, đám lác, bầy chuồn chuồn màu cánh ve hoặc màu đỏ bay qua lượn lại săn mồi. Con chim thằng chài xẹt ngang đậu trên nhánh cây gáo, cây vông đồng bên kia sông kêu lớn trả chẹt, trả chẹt… Mặt nước sông đổi chiều. Vầng thái dương ngạo nghễ lên khỏi rặng cây, chiếu ánh sáng lung linh trên cành so đũa nở đầy hoa trắng như tuyết… Tôi ngây ngất trước cảnh sắc thiên nhiên của buổi hừng đông ở thôn quê, có hoa đồng cỏ nội thoang thoảng hương thơm.

Tiếng vú xuýt xoa sau lưng làm tôi trở về thực tế:

– Cô Ba làm gì ở đây? Sáng sớm còn sương. Hãy choàng áo lạnh lên đi kẻo bị cảm đó. Cô làm gì ngồi thừ người ra như vậy? Sáng mai có đi ra bờ sông phải gọi vú cùng đi với nghen. Để ông bà ngoại biết được cô ngồi đây một mình, cô sẽ bị rầy mà vú cũng bị rầy nữa.

Thay vì trả lời vú, tay tôi chỉ dòng sông và hỏi:

– Vú có thấy buổi sáng ở trên sông nầy đẹp lắm không?

Vú chưng hửng ngạc nhiên nhìn tôi, trả lời:

– Vú có thấy đẹp gì đâu? Bù mắc cắn tay cô Ba đỏ rồi. Mau theo vú lên nhà lấy dầu xức kẻo vết đốt bị làm độc. Thầy sẽ rầy vú không cẩn thận trông chừng cô Ba.

Tôi cười nhìn vú, lắc đầu:

– Con đã lớn rồi, vú à. Ba có rầy con sẽ đỡ lời cho vú. Thật tình, vú không thấy chỗ nào đẹp sao vú? Nếu cảnh nầy quay thành phim, thì sẽ sống động và đẹp lắm đó vú.

Vú ôm vai tôi xiết nhẹ, cười:

– Cảm hứng cô Ba phong phú quá! Thôi, vô nhà đi, kẻo ông bà ngoại đi kiếm cô tưng bừng tở bở bây giờ. Vú không thấy gì cả. Vú chỉ nghe cái bụng cô Ba đang lầm bầm lụp bụp kêu gào đói vì chưa ăn sáng kìa.

Tôi cười, nắm tay vú đi vào nhà.