Chương 17
Ngoại tôi nay đã già yếu. Bà ở với gia đình anh chị Cương là đứa cháu nội đích tôn, con trai lớn của cậu Hai tôi trong ngôi nhà hương hỏa của bà. Anh Cương đưa bà lên Sài Gòn dự ngày lễ đính hôn của tôi và Đông. Lễ hỏi của chúng tôi được tổ chức trong vòng thân mật của gia đình. Bên gái có bà ngoại, anh Cương, cậu mợ Hai, cậu mợ Ba, cậu mợ Út, cô Hai, ba tôi và Thái Vân. Bên họ nhà trai qua dự đám có vú, Xuân Hà và hôn phu là anh Hưng, ba má anh Hưng, vợ chồng chị của anh Hưng. Bên ngoại anh Đông ở làng Mỹ Lương gần quê ngoại tôi. Ruột thịt của vú đã qua đời chỉ còn dòng họ thôi. Họ hẹn đám cưới mới lên dự.
Gia đình tôi từ hồi nào đến giờ, chưa có tổ chức đám tiệc nào mà được họp đủ mặt họ hàng thân thuộc hai bên nội ngoại, như ngày đính hôn của tôi. Từ tháng trước, ba tôi đã mướn thợ sơn vách tường bên ngoài và trong nhà lại bằng màu tơ tằm. Nên trông sáng sủa hơn vách tường màu măng cụt khi xưa. Các cửa sổ sơn màu xanh da trời, cửa cái và cửa sau sơn màu gỗ sậm. Tranh ảnh trong nhà được thay đổi bằng những màu sắc và hình tượng tươi vui đẹp mắt. Các vật dụng khác, cái nào dùng thì để lại, cái nào không dùng thì cho hoặc bỏ đi. Chúng tôi làm tổng vệ sinh khắp nơi trong nhà. Cô tôi còn thay hết màn các cửa sổ bằng voan màu thiên thanh. Nhà chúng tôi bây giờ trông gọn gàng, trang nhã khác hẳn xưa. Trong nhà ngoài ngõ, ngập tràn không khí ấm nồng hạnh phúc. Ba tôi và cô Hai lúc nào cũng tươi vui ra mặt. Tôi đính hôn mà họ có vẻ còn vui hơn tôi nữa.
Tôi vì thiếu thốn tình ấp ủ yêu thương săn sóc từ thơ ấu của mẹ, nên ba tôi càng cảm thấy có trách nhiệm, và bổn phận với tôi nhiều hơn. Cái gì cho tôi thì ông dốc tận đáy lòng, không nề hà đường tơ kẻ tóc. Cô Hai cũng thương yêu chiều chuộng tôi đủ điều. Tôi thật sự là đứa con gái, được rất nhiều diễm phúc hơn những bạn đồng lứa còn đủ mẹ cha. Đó là tôi không kể ông bà ngoại, và các cậu các mợ tôi, đều nâng niu cô cháu gái mồ côi nầy.
Có được sự giáo dục của đại gia đình của hai bên nội ngoại, còn ở học đường thì tôi được thầy cô giảng dạy, theo trong sách vở giáo dục tốt từ ngàn xưa để lại. Ba tôi cũng thường nói với con gái của ông rằng: “Cuộc đời nhiều dối gian hiểm độc, tranh giành giết chóc lẫn nhau chỉ vì miếng đĩnh chung. Đôi lúc chuyện cỏn con không đáng cũng làm ra lớn chuyện chỉ vì tị hiềm, vì lời khích bác mà sanh gấu ó lẫn nhau… Nước ta, thật là tội nghiệp, hết giặc Tàu, giặc Tây, sau đó lại chiến tranh Quốc Cộng kéo dài mấy mươi năm rồi vẫn chưa xong. Đã chia đôi cho nửa lãnh thổ rồi mà họ vẫn còn tham vọng quá! Chỉ tội nghiệp dân chúng khổ sở lầm than. Con thấy đó, hàng ngày chúng ta cứ nghe những chuyện giặc giã, hận thù, chém giết, tham nhũng, dối gian… Cho nên con phải đọc sách của Thánh Hiền, đọc những sách vở lành mạnh, đạo đức, để mà giữ lòng yêu thương, ngay thẳng…”.
Tôi không phải gỗ đá mà không biết cảm nhận, cái liếc mắt êm đềm của những anh nam sinh trên lớp. Tôi cũng thấy nhịp tim trong lồng ngực mình rối loạn, khi có người huýt sáo, nở miệng cười với mình. Tôi cũng có những giây phút để hồn đi hoang, để thương mây khóc gió. Và tôi thích đọc những bài thơ tình chứa đựng vòm trời thơ mộng, trữ tình của những văn, thi sĩ thời đại. Tôi để tâm hồn bay bổng theo lời ca, điệu nhạc truyền cảm được lồng trong những khung cảnh mưa, gió, trăng, nước, ruộng đồng bao la, biển rộng, sông dài… Tâm tư tôi hướng về tình anh lính chiến… Nhưng tôi sớm biết bổn phận, và trách nhiệm làm con ở tuổi học trò của mình, bỏ qua hết mọi thứ mà cuộc đời con người cần có cho thêm hương, thêm vị ngọt, bùi, chua, cay. Tôi cho đó là những hoa lá cành không quan trọng hơn sự trau giồi học hành của mình, để khỏi phụ lòng hy sinh của ba tôi, và của họ hàng đã từng quý yêu thương mến tôi.
Thái Vân, cách đây hai tuần đến thăm tôi, có gặp Xuân Hà. Lúc nói chuyện, con nhỏ cười và dí dõm thiệt dễ thương:
– Làm con gái, mà mình cứ giữ cái khuê danh, cái nhũ danh như là Nguyễn Thị Mỹ Hương, hay Bùi Thị Thu Hồng, hoặc Cao Thi Tuyết Hoa… hoài thì buồn quá! Thật chán mớ đời. Thể Hà, mầy sắp là bà Vũ Đông Nhựt. Vậy là hạnh phúc lắm rồi. Làm bà ấm áp hơn làm cô. Tao ghét mấy tiếng cô như là: Mademoiselle, hay Miss… Tao mơ cái tiếng bà: Mrs, hay Madame… hơn mầy à.
Tôi cười:
– Có chồng, người ta thường hay để chữ bà trước họ tên chồng, chữ cô trước tên mình đương nhiên bị khai tử, coi như để cái họ của mình qua một bên. Con cái mình phải theo họ cha, nối dòng nối dõi cho dòng họ nhà chồng. Tao thấy hơi bất công. Mầy coi, như ba tao không có con trai, vậy đến đời tao thì dòng họ Huỳnh của ba tao coi như xong rồi. Nhưng người đời nói con theo họ cha là cái phước của người đàn bà, cái thơm cho gia tộc họ hàng, và con cái không tủi thân, và mặc cảm phải lấy họ mẹ. Cho nên cái họ của mình mất, mầy nghĩ coi có đúng là bất công không? Nhưng đừng lo, mầy cũng sẽ được mà Thái Vân à.
Xuân Hà cũng góp chuyện:
– Mình cùng ý với Thể Hà, cũng thấy hơi bất công. Nam nữ bình quyền, tại sao đàn ông không theo họ vợ? Con cái không theo họ mẹ? Tội nghiệp đàn bà thì lúc nào cũng cam phận thấp thỏi hơn, luôn đứng ở sau chồng, ở dưới chồng, chớ ai dám nghênh ngang trèo lên đầu lên cổ chồng đâu. Chỉ khi ghen, nhiều mụ mới nổi khùng thôi.
Thái Vân bắt đầu trổ giọng quỷ quái, trây trúa:
– Bởi vậy đàn bà thường nằm dưới chồng, như vậy thì khỏe hơn chớ bộ!
Cả ba đứa cười đỏ mặt, tía tai. Xuân Hà vừa cười, vừa móc moi tôi:
– Chị Thái Vân coi, chưa chi mà Thể Hà lim dim mắt phụng, mơ màng rồi kìa.
Tôi vừa cười vừa thuận tay lấy cây quạt giấy, rượt đánh hai con yêu lồi nầy. Lúc nào đầu óc chúng cũng tối tăm, đen thủi, đen thui hết. Xuân Hà cười ha hả vừa né, vừa ngâm:
“Một ngày ba bữa cơm đèn.
Còn gì má phấn răng đen hỡi chàng?
Một ngày ba bận treo cồn.
Còn gì mà đẹp mà giòn hỡi anh? “
Nhỏ Thái Vân cười ngất ngất, cũng rống họng phụ theo:
“Một ngày ba bận trèo đèo.
Vì ai vú xếch lưng eo hỡi chàng?”
Tôi chịu thua, lắc đầu cười theo chúng.
Ba và cô Hai tôi không đòi hỏi gì ở nhà trai nhưng họ đi quà lễ rất tươm tất. Mặc dù ở thành phố, có tiền thì mua sắm lúc nào chẳng được. Nhưng tội nghiệp vú đã lo lường từ ba bốn tháng trước. Vú thường nói: “Thằng Đông là con độc nhứt của vú. Phải duyên nợ trời định cho các con kết hôn với nhau. Thật vú hết sức mãn nguyện. Vú phải lo đầy đủ tươm tất mọi thứ vú mới vừa ý, đẹp lòng…”. Nhà trai đi qua mười mâm quà lễ: Mâm trầu cau, mâm nữ trang. Hai mâm trà, hai mâm rượu, hai mâm bánh, hai mâm trái cây.
Sau khi giới thiệu từng người của hai họ trong buổi lễ đính hôn nầy, đại diện họ nhà trai là ông bác họ của Đông xin được cầu hôn cho tôi và Đông. Đại diện họ nhà gái chấp nhận. Chúng tôi lạy bàn thờ ông bà nội và má tôi. Bàn thờ được sửa soạn lại tươm tất. Từ tuần trước, Đông đến phụ ba tôi lau chùi sạch sẽ ngăn nắp. Tấm ảnh bán thân của má, tấm ảnh của ông bà nội tôi được thay bỏ giấy lót ngả màu vàng sậm bên trong lâu ngày, mặt kiếng được lau bụi sạch sẽ. Giấy trải bàn, cũng được thay bằng hàng lụa bóng màu đỏ thắm.
Vách trên bàn thờ treo ba tấm liễn. Chiều dài ba tấm liễn này bằng nhau. Hai tấm hai bên chiều ngang hẹp hơn tấm ở giữa. Cả ba được thêu bằng chữ Nho màu đen đệm kim tuyến trên nền nhung đỏ tượng trưng cho gia đạo ấm êm, hạnh phúc lâu bên.
Tấm bên trái: ĐA TỬ, ĐA TÔN, ĐA PHÚ QUÝ.
Tấm bên phải: TAN TÀI, TÂN LỘC, TẨN BÌNH AN.
Tấm ở giữa là chữ: THỌ (thật to, thật lớn và nét chữ đậm).
Sau đó, họ nhà trai trình lễ vật, trình nữ trang. Lúc đeo nhẫn đính hôn cho nhau thuận đà Đông hôn vào trán tôi trước mặt hai họ. Tiếng vỗ tay nói cười vui vẻ làm tôi mắc cỡ đỏ mặt tía tai muốn độn thổ còn Đông bẽn lẽn cười trừ. Dòng họ bên Đông và bên tôi ai cũng khen hai đứa xứng đôi. Khi ăn uống ở nhà hàng, mợ Út dược sĩ bảo với chúng tôi:
– Thật là duyên nợ trời ban. Cháu Đông có phước mới cưới được Thể Hà nhà nầy. Hai đứa thật xứng đôi. Các cậu mợ đã đồng ý với nhau rồi. Sau ngày cưới, các cháu đi hưởng tuần trăng mật bất cứ ở đâu, thời gian bao lâu cũng được, các cậu mợ sẽ đài thọ tất cả mọi chi phí từ vé máy bay cho đến di chuyển, ăn, ở khách sạn… cho hai cháu.
Chúng tôi cảm ơn các cậu mợ. Bà ngoại ngồi cả ngày hôm nay, coi bộ mệt. Nhưng bà vui lòng mãn nguyện lắm, bởi trước kia bà lo khi bà qua đời rồi mà tôi còn chưa thành gia thất. Bà cảm động nắm tay tôi để lên tay vú, nói rằng:
– Số bà vú là phải lo cho con nhỏ nầy… Từ nó còn bé thơ bà bế, bà bồng, bà thương yêu chiều chuộng, bây giờ nó là dâu bà. Rồi đây nó sẽ sanh con đẻ cái, bà lại phải cực với nó nữa. Còn Thể Hà từ rày về sau cháu phải đổi lại, gọi vú là má nghe chưa?
Tôi e thẹn dạ nhỏ. Vú cười hiền trả lời ngoại tôi:
– Thưa bác, không cực đâu. Cháu vui mừng lắm. Cháu muốn sau khi thành hôn rồi, Thể Hà cứ mỗi năm sanh một đứa cho vui cửa vui nhà… Gọi bằng vú cũng được, vú nghe thân mật hơn.
Hôm nay, mợ Ba và mợ Út tôi còn trẻ, cả hai là công chức lại ở thị thành nên ăn diện đẹp không nói gì. Mợ Hai tôi cũng diện áo dài nhung, quần lãnh Tân Châu. Tóc mợ bới kiểu lèo có giắt cây trâm bằng vàng mười tám gắn hột sa-phia trong như mắt mèo. Mợ đeo bông cẩm thạch mù u xanh biếc. Cổ đeo dây chuyền vàng mặt Phật Bà Quan Âm có cẩn hột xoàn chiếu lấp lánh. Hai cổ tay mợ đeo hai chiếc neo vấn bằng vàng y. Mợ xách bóp đầm màu đen, mang hài nhung đen có thêm cườm tấm. Dáng mợ vừa tầm, không mập cũng không ốm teo. Sanh ra và lớn lên ở thôn quê mà nước da mợ mịn màng trắng trẻo chẳng thua gì các bà ở thị thành. Trông mợ Hai tôi diện hôm nay như các bà chủ tiệm vàng, hoặc là bà chủ tiệm vải lớn ở chợ thành, chợ tỉnh.
Cô Hai tôi cũng ngon lành không thua ai. Tóc cô đi tiệm quấn thành lọn dài úp xấp sau ót như múi bưởi. Cô mặc áo gấm màu vàng, có in hoa cúc nổi trên nền gấm, quần sa teng trắng. Đôi bông tai bằng ngọc thạch tiền điếu xanh màu lý, nhận hột xoàn ở giữa, lớn như cắc bạc áp sát gọn nằm trên trái tai dầy là tướng sống thọ của cô. Cổ cô đeo xâu ngọc thạch nhỏ hột từ cái khóa và hột càng lớn dần cho đến giữa, xâu chuỗi có ba hột to bằng nhau, mỗi hột cách nhau bằng khâu vàng mười tám có cẩn hột xoàn tấm, sau ba hột lớn nầy, hột bắt đầu nhỏ dần cho đến cái khóa bên đầu dây kia. Chiếc nhẫn ngọc thạch hạt dưa cũng được nhận trong vỏ xoàn. Hai chiếc vòng tay, mỗi vòng cẩn ba khúc ngọc thạch trên vàng mười tám được chạm trỗ lá lan rất tinh xảo. Cô mang giầy, xách bóp da trắng. Cô Hai tôi còn đánh nhẹ lớp phấn và dậm chút phấn hồng lên má nên trông cô sang, đẹp và trẻ hơn tuổi nhiều.
Ba tôi có vẻ xúc động. Ông vốn ít nói, hiền lành, chuyện vui buồn hay giấu kín trong lòng, ít lộ ra nét mặt. Thế mà hôm nay ông vui mừng vì con gái mình có người hỏi cưới, chẳng gặp cảnh lỡ thời quá lứa nên ba nói nhiều với mấy cậu, mấy mợ và luôn miệng cười vui. Kể từ bịnh gan tái phát, ba tôi không hề nếm một giọt rượu. Ngày con gái đính hôn, hứng chí ông cụng ly với mấy ông anh vợ. Cả mấy cậu tôi đêm nay cũng phá lệ. Cho nên khi tàn tiệc, Đông và anh Cương phải kè từ người một đưa ra xe. Đến nơi, kè đưa họ vào nhà.
Riêng con cà cuống Thái Vân, vừa gặp Xuân Hà và tôi thì eo éo tía lia:
– Mấy người nhìn xem tui đây nè: áo so Thái Lan màu thiên thanh của tui có lộng lẫy như nền trời bình minh không? Coi xâu chuỗi ngọc trai màu ngà voi nầy đi. Thứ nầy là thứ thiệt chớ không phải thứ ngọc trai dõm đâu nghen. Còn đôi bông tai nữa, chạm theo kiểu bông của bà nữ hoàng nước Anh đó. Nhưng bông tai của bả cẩn hột xoàn thiệt, còn bông tai của tui cẩn hột xoàn xiêm. Quần áo nào có phước mới được cô Thái Vân nầy mặc. Nữ trang nào có tu tám kiếp mới được con nầy đeo. Bà con coi tôi có thanh lịch như tài tử Lâm Đại không? Có lộng lẫy như nữ hoàng nhạc tuýt Túy Phượng của mình không? Có thơ mộng như cô sinh viên ca sĩ Sơn Ca không? Chắc tui phải lấy biệt danh là Sơn Thái Vân mới không uổng cái nhan sắc của tui.
Xuân Hà tế nhị:
– Chị Thái Vân dù có đeo nữ trang giả, ai cũng tưởng thiệt. Chị vốn có tướng sang.
Nghe Thái Vân ỏn ẻn thấy ghét, tôi nguýt cả hai:
– Thôi đi bà, bà có tướng tướng sang, tướng mệnh phụ, đẹp thiệt. Nhưng cái miệng bà đía quá, hễ mở miệng ra thì vun vải toàn là khoe khoang. Bà vừa khoe lại vừa chảnh, bộ không sợ giảm phước sao?
Thái Vân cự nự liền:
– Mầy có phước nên mầy sợ giảm phước. Còn tao có phước đâu mà sợ giảm?
Xuân Hà xoay qua đề tài khác:
– Hai người coi, mấy ông say lúy túy rồi kia, có thấy ớn không?
Mỗi ông say một cách khác: Ba tôi và cậu Ba say thì ngủ gà ngủ gật không biết trời trăng mây gió chi hết. Cậu Hai thì kể chuyện Tam Quốc, kể truyện Lưu Kim Đính Giải Giá Thọ Châu. Cậu Út thì ca tân nhạc bài nầy bắt quàng qua bài kia câu nầy bắt quàng qua câu nọ: ”Em ơi nếu mộng không thành thì sao? Mua chai thuốc chuột uống cho rồi đời… Đường còn xa ông Tá không cho về nhà…. Tía em hừng đông đi cày bừa má em hừng đông đi cày bừa… Tía em là một người nông dân má em cũng là người nông dân…” Cậu hát hò om sòm lại còn khoa tay đá chân làm cho mợ Út, Thái Vân và tôi vừa sợ trúng vừa ôm bụng cười muốn chết.
Anh Hưng thì say không biết đường đi, đến ôm vai Xuân Hà lè nhè: “Ta say mà ta tỉnh, mi tỉnh mà mi say…”. Xuân Hà vừa cười vừa càm ràm: “Thật mất mặt quá đi! Phong độ gì cũng bị anh làm mất hết rồi… Còn ta tỉnh ta say con khỉ khô gì nữa?”. Anh Cương con cậu Hai, và Đông cũng uống nhiều lắm. Anh Cương ở quê thường uống rượu đế nên các rượu bình thường nào có hề hấn nhằm nhò gì với anh. Anh Đông thì thường uống rượu xã giao trong việc làm ăn, tôi nghĩ anh không dễ bị rượu hành hạ. Nhưng hai ông nầy mặt mày xanh lè, trắng bệt, lầm lì, đi ngang qua nực mùi rượu. Chắc họ cũng bị say chín người rồi không chừng?
Thừa dịp không có ai, Thái Vân dụ khị tôi:
– Thể Hà à, cái mốt bây giờ, các cô thường uốn, và hay chải tóc theo kiểu tóc của cô đào Brigitte Bardot. Mầy có thích kiểu tóc đó không? Để tao tỉa và uốn cho mầy. Ngày cưới mà mầy chải tóc theo kiểu cô đào BB thì chú rể Đông sẽ ngất ngư con tàu đi đó.
Tôi dẩy nẩy, la nó:
– Thôi đi con chằn hiu, mầy sét-xy sét-xiết, có thân hình Vệ Nữ nếu chải kiểu tóc của cô BB thì ai cũng khen. Còn tao mỏng như lá lúa, mảnh khảnh như vầy mà diện kiểu tóc như cô ta sẽ bị thiên hạ quở. Thôi thì tao cứ giữ mái tóc dài quá vai nầy được rồi. Đừng có nhiều chuyện! Còn nếu muốn cắt ngắn, thì tao sẽ cắt theo kiểu cô Chân Trân, tóc rẽ bảy ba, vén ở hai bên tai, phía sau cắt cao tới chớn tóc và ót. Chớ tao không có chải kiểu: ổ én, ổ diều, ổ nhạn, ổ ó, ổ quạ, hay ổ ong, mấy kiểu rườm rà đó đâu. Uốn tóc như cô Chân Trân rồi đeo vòng ngọc trai trắng ôm vòng cổ, đôi bông ngọc trai nhỏ như hột tiêu, nằm gọn trong trái tai trông vừa sang, lại vừa nhã!
Thái Vân nhìn tôi lom lom, phun nọc chọc quê:
– Úy mẻ mẹt, nồi đồng, nồi đất ơi! Con Thể Hà dạo nầy sao giống cô Chân Trân như chị em song sanh vậy cà? Mầy mà đi đóng phim, thì nên lấy nghệ danh là: Chân Trần, Chân Đất, Chân Trụi, hay Chân Đen, hoặc Chân Trâu.
Rồi nó ỏn ẻn cất tiếng hát:
”Em xinh, em bé tên là Hương Giang
Đêm đêm nhìn ánh trăng vầng mà tru… “
Tôi phản pháo liền:
– Đồ con quỷ độc miệng ác mồm! Mầy ưa ăn chanh giấy, ăn khế tàu, ăn me sống, ăn xoài thanh ca non, nên giọng nói chua lè chua lét. Tao còn lạ gì mầy nữa. Mầy bắt chước bà Thái Thanh hát dân ca Huế đó chớ gì? Mầy mà Thái Thanh hả? Còn khuya, mầy có cái giọng the thé nên lấy nghệ danh là Thái Thịt thay vì Thái Vân.
Hai đứa tôi nhìn nhau ôm bụng cười rũ rượi. Thỉnh thoảng dự đám tiệc nào quan trọng, tôi cũng đi làm tóc ở tiệm gần nhà. Hoặc Thái Vân rảnh thì về làm tóc cho tôi. Tóc tôi được chải từng nếp, phun keo giữ cho tóc nằm yên…Người ta nói “Phật đẹp nhờ kim trang, người đẹp nhờ y trang”. Mái tóc cũng rất quan trọng trong việc làm đẹp nhứt là đối với phụ nữ. Chải kiểu tóc lạ là thấy khác hẳn liền. Nhưng tôi thì khác, có lẽ chưn của mình vẫn còn bám đất sình, còn là con gái nhà quê, nên khi chải tóc làm đẹp đi đám tiệc, lúc nào tôi cũng cảm thấy đầu mình như đang đội cái rổ rửa rau, hay cái rá để vút nếp nấu xôi vậy. Cho nên, xong tiệc về đến nhà là tôi tắm gội ngay. Nếu không gội, thì da đầu tôi sẽ bị ngứa, và tôi không tài nào ngủ được.
Thái Vân thường hay mua trái bồ kết cho tôi để dành nấu nước gội đầu. Tôi ưa mùi hương miệt vườn nầy. Mỗi lần dùng nước bồ kết gội đầu, là tôi luôn nhớ mợ Hai, nhớ ngoại, nhớ về quê ngoại.
Không có thời gian nào đẹp và hạnh phúc bằng sau ngày đính hôn. Sáng sáng, anh Hưng đưa Xuân Hà đi làm, trưa đón đi ăn, chiều rước về. Cứ hàng ngày như mọi ngày không sai chạy. Họ quấn quít bên nhau như hình với bóng. Họ tíu tít líu lo như đôi chim, như cặp bướm vờn hoa trong vườn hoa nở rộ hương sắc. Ai trông thấy cũng tấm tắc thầm khen: “Thật là một đôi nam tài nữ mạo, một đôi bích hợp hảo thành”. Anh Hưng và Xuân Hà sẽ kết hôn vào mùa đông năm nay. Lễ và tiệc cưới sẽ tổ chức ở Vũng Tàu. Lúc đầu ba má anh Hưng không bằng lòng vì Vũng Tàu xa xôi, dòng họ sẽ ít người ra tham dự. Nhưng sau cùng họ phải chiều theo ý muốn đôi uyên ương ưa thích vùng biển cả mênh mông hùng vĩ, ưa tắm biển nầy nên họ nhà trai bằng lòng.
Từ dạo đính hôn đến giờ, tôi ít hay gặp mặt Xuân Hà. Bởi chúng tôi ai cũng lu bu. Tôi bận rộn vướng vít vì lúc nào anh Đông cũng theo kè kè bên mình. Còn Xuân Hà với anh Hưng thì như hình với bóng, lại còn lo chuẩn bị hôn lễ. Trừ khi nào hai cặp chúng tôi hẹn đi ăn, hoặc đi xem hát chung.
Chiều thứ sáu hôm đó. Trước giờ tan sở, Xuân Hà điện thoại tôi nơi sở làm. Cô ta cho biết sáng thứ bảy đi Vũng Tàu với anh Hưng, để đến nhà hàng đặt tiệc cưới và tiện dịp sẽ ở chơi ngoài đó mấy bữa đến chiều thứ năm tuần tới mới trở về. Nhỏ còn hỏi tôi có cần mua gì không? Tôi chúc nó và anh Hưng đi chơi vui vẻ và nhắc chiều thứ sáu tới, hai người nhớ đến nhà anh Đông ăn cơm do vú và cô Hai tôi trổ tài làm tổng khậu. Nó cười hí hí, hẹn sẽ đến và sẽ mang về cho tôi mãng cầu dai ở Rạch Dừa.
Sáng nay vào sở, tôi ngồi xem giấy tờ báo cáo, lơ đãng nhìn tờ lịch treo trên tường. Bỗng tôi nhớ dến Hưng và Hà, lật bật mà hôm nay thứ ba, mai thứ tư, ngày mốt bọn họ sẽ về.
Chuông điện thoại reo vang. Cô thư ký mỉm cười, nheo mắt với tôi:
– Cô Thể Hà, hôn phu cô gọi.
Tôi cầm lấy điện thoại, cười nhẹ, khẽ cảm ơn cô thư ký. Bên kia đầu giây, giọng nói của Đông trũng xuống! Tôi hốt hoảng, đánh rơi điện thoại! Cô thư ký bước sang lượm lên, mở to mắt hỏi:
– Chuyện gì cô, chuyện gì cô Thể Hà? Sao mặt mày cô tái mét vậy?
Tôi hụt hẩng lời nói:
– Hôn phu cô Xuân Hà gặp tai nạn! Cô lấy cho tôi tờ đơn xin nghỉ phép.
Cô thư ký dạ rồi đi lấy tờ đơn cho tôi. Tôi điền xong đưa cho cô thư ký:
– Bây giờ tôi phải đi ngay. Trưa, ông phó Giám Đốc về, cô trình tờ đơn xin nghỉ đột xuất nầy dùm tôi. Cảm ơn cô.
Đông đã chờ sẵn tôi ngoài sân ở cửa hậu sở làm. Chàng đưa tôi về nhà, tôi quơ vội mấy cái áo, quần. Tôi kể sơ cho ba và cô Hai biết. Sau đó Đông chở tôi qua bên vú, để cho bà biết chuyện đã xảy ra, rồi chúng tôi đi Vũng Tàu ngay.
Thi hài của anh Hưng được toán cấp cứu vớt lên, khi chúng tôi vừa đến. Ở đây đã có mặt ba má anh Hưng, vợ chồng người chị, mấy người bạn và một số người thuộc dòng họ của gia đình ba má anh Hưng. Sáng hôm sau chúng theo đoàn xe đưa quan tài anh về nhà ở Sài Gòn. Và hai hôm sau đó, thi thể anh Hưng được chôn tại nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi.
Có lời nào để an ủi Xuân Hà đây? Ở Vũng Tàu, tôi và anh Đông ngồi kề bên cô sáng đêm. Ngoài nhà còn có bốn người bảo vệ do Thị xã đưa tới canh giữ, bởi đã hai lần cô định nhảy xuống biển!
Sự ra đi quá sớm của một người trai trẻ, có tài, có chức vụ trong một Bộ có tầm vóc ở Sài Gòn, lại là con trai độc nhứt của một gia đình tai mắt thời bấy giờ. Các cột báo ngày, báo tháng ở mục chia buồn, cáo phó đăng tải những tít lớn trang đầu, làm cho nhiều người không quen biết cũng ngậm ngùi, thương tiếc!
Nỗi bi thương đau khổ trùm phủ lên tâm hồn hôn thê của người quá cố. Sau một tháng lo ma chay cho hôn phu, Xuân Hà trở lại sở làm việc. Cô lấy công việc để trốn chạy nỗi buồn gậm nhấm tâm hồn. Cô biếng cười, biếng nói, sống cô đơn âm thầm như một chiếc bóng. Nước da cô trắng xanh. Hàng ngày đi làm cô chỉ mặc hai màu đen, hoặc trắng. Dáng cô héo hắt, mắt cô buồn não nuột.
Có những đêm tôi và vú, có khi là Đông thay phiên ngủ lại với cô ở nhà đường Pasteur. Từ dạo anh Hưng qua đời, cô như biến thành người khác. Cô nói những chuyện gì cần nói và đáng nói chớ không hồn nhiên hoạt bát vồn vã như xưa. Bao lần Xuân Hà bày tỏ không muốn vì cô mà chúng tôi phải lo lắng, ở lại đêm. Cô nói với má chồng tôi:
– Bác à, con hiểu thấu rồi, con không làm chuyện dại dột nữa đâu. Cho con một thời gian, con sẽ sống vui sống khỏe lại như xưa. Đừng bận lòng quá vì con. Con biết bác và anh Đông, chị Thể Hà rất thương lo cho con nhiều lắm. Nhưng các người hãy yên tâm đi con không sao đâu.
Thấy hoàn cảnh của Xuân Hà tôi thương cảm cô ấy nhiều hơn. Nếu cô khuân vác nặng nề, chèo ghe, bơi xuồng, gánh nước, chẻ củi, nấu cơm… thì chúng tôi chia xẻ, để cô đỡ một tay cho bớt nhọc nhằn, cho mau xong việc, thời gian lao lực, lao tâm sẽ thu ngắn lại. Còn nỗi buồn trong lòng? Chỉ chờ thời gian xóa nhòa, chớ chúng tôi không ai có thể làm sao gánh vác cho được. Cô như cành liễu rũ, càng ngày càng khẳng khiu, mỏng mảnh, sau cơn dông tố dập dồn không biết lúc nào sẽ gãy cành xa cội. Bây giờ chỉ có vú, tôi và Đông là những người thân thuộc để an ủi và để cô giải bày tâm sự đắng cay. Nhưng cô không nói ra lấy nửa lời, không than khóc rên rỉ như những phụ nữ lâm vào cảnh tan nát cõi lòng như cô. Chúng tôi lo ngại nỗi đau buồn không nói ra đó âm ỉ mòn dũa, sẽ giết chết cô.
Thời gian qua mau, anh Hưng, hôn phu của Xuân Hà qua đời đã hai năm rồi. Nỗi đau khổ dài đăng đẳng xâu xé nát ruột tan lòng đó, sôi sục trong cô đã nguôi ngoai, nhưng vẫn còn leo lét cháy trong tim cô. Cô trở nên ít nói, lặng lẽ như chiếc bóng. Gặp chuyện gì vui lắm cô chỉ nhếch mép cười nhẹ thôi. Sáng hôm qua trong giờ làm việc, bất ngờ cô gọi điện thoại, hẹn tôi tan sở sẽ cùng tôi đi ăn chiều ở Đồng Khánh, và sau đó đi uống cà-phê ở La Pagode. Tôi vừa vui mừng, vừa hơi lo vì từ khi anh Hưng qua đời đến nay, cô chỉ biết cái nhà ở đường Pasteur và sở làm mà thôi, chớ ít khi đi ra ngoài.
Xuân Hà đợi tôi ở bãi đậu xe bên hông sở làm. Tôi bước lên chiếc xe nhà hiệu Mazda màu xám tro nhẹ nhàng lướt. Chiếc xe mà Hà và Hưng còm-măng trước ngày hôn phu cô tử nạn. Từ đó, chiếc xe nầy làm phương tiện di chuyển cho cô. Hôm nay Xuân Hà mặc áo dài màu tím than, quần đen, giầy đen, xách tay đen, mang kính đen lớn rộng. Tóc cô để dài quá vai, da cô trắng xanh không dậm chút phấn hồng. Toàn màu đen làm cô lộ vẻ buồn áo não lạnh lùng. Một Xuân Hà lạc quan yêu đời đã chết rồi từ khi hôn phu cô liệm vào huyệt mộ. Sau lần tai nạn trong lúc bọn cô tắm biển, rồi kể từ đó Xuân Hà không ra vùng biển cả nữa. Có lẽ cô sợ, cô trốn chạy những hình ảnh quen thuộc xưa. Xuân Hà trầm giọng, hỏi tôi:
– Chị đợi lâu không? Xe của chị đâu?
Tôi làm vẻ tự nhiên tươi cười chào Xuân Hà, trả lời:
– Hàng ngày, mình được anh Đông đưa đón nên dạo nầy mình ít hay dùng xe riêng. Hôm nay, sao bỗng dưng Xuân Hà rủ mình đi ăn vậy?
Xuân Hà giọng buồn:
– Ở nhà riết em muốn bịnh quá! Anh Hưng vĩnh viễn là của riêng em. Bây giờ em hiểu thấu rồi, phải chấp nhận thực tế chị ạ. Và phải sống cho quãng đời còn lại… bằng con người thật chớ không phải bằng xác ướp nữa.
Tôi ngại Xuân Hà nói thêm sẽ buồn sẽ khóc, nên vội ngắt lời cô:
– Mình rất vui mừng Xuân Hà đã trở lại bình thường. Anh Đông biết được, chắc sẽ vui lắm. Ảnh thường nói với mình rằng cô là người con gái kiên cường. Việc tình cảm giữa cô và anh Hưng đẹp quá, rất xứng đáng với tấm lòng tôn thờ mãi mãi trong lòng cô. Nhưng việc ra đi của anh Hưng sẽ không đánh ngã nỗi cô đâu. Phải cho cô thời gian để khôi phục lại tinh thần.
Xuân Hà nhếch mép cười buồn:
– Nửa năm trước em có gởi đơn xin học môn Xã Hội Học trường Loyola ở miền Trung Tây Hoa Kỳ. Em đã được họ trả lời chấp thuận cho học bổng toàn thời, trong vòng bốn năm. Nếu không gì trở ngại, mùa xuân năm tới, em sẽ du học. Hôm nay theo lẽ em rủ anh Đông cùng đi với chúng mình để anh chị cùng chung niềm vui với em, nhưng em nghĩ để hôm khác em sẽ mời ảnh. Hôm nay dành riêng cho hai đứa mình.
Trên đường về nhà, lòng tôi chứa chan niềm thương yêu một kẻ vừa là bạn tâm đầu vừa là cô em chồng tử tế dễ thương. Tôi nghĩ thầm: nơi phương trời xứ lạ sẽ tạo cho Xuân Hà niềm vui bất ngờ, niềm hạnh phúc vững bền.
Hí hửng xách bóp vào nhà, tôi thấy nhỏ Thái Vân đang lúi húi giúp cô Hai dọn thức ăn lên bàn cho bữa cơm chiều. Thấy nó tôi vui ngay, bởi con nhỏ nầy lóng rày ít tới lui tôi. Không biết nó có vô nhóm thợ nhái hay sao mà lặn kỹ quá? Sao mà nó mê say lú lẫn tên bác sĩ y khoa tương lai kia dữ vậy cà? Chiếc áo ngắn, tay phùng, cổ hở, bằng xuyến, màu tím than làm nhỏ trơn mát lạ lùng. Bởi dạo nầy nhỏ trắng, mập đẹp, nõn nà hơn trước. Ủa, mà sao hôm nay mặt nhỏ có vẻ bất an?
Có lần tôi nói với Xuân Hà: “Con Thái Vân bảo với cô Hai mình là, lúc rày con Thể Hà mướt rượt như bún, như bánh tằm thoa mỡ hành vậy đó cô”. Cô Hai mình nói với nó: “Ờ, nhờ nó ăn được, ngủ được”.
Tôi chìa tay khoe với Xuân Hà, cập vòng ngọc thạch ôm tròn cườm tay no nường của mình. Xuân Hà cười, bóp tay tôi xăm xoi đôi vòng nhìn tôi mỉm cười: “Thật, cườm tay chị tròn lẳn, vóc mình cũng đầy đặn hơn. Trông chị tươi mát. Chị Thái Vân khen không lố đâu”. Tôi cười: “Thái Vân thường phàn nàn với mình: Tao hơi sổ sữa. Dẫu mỗi bữa ăn, tao chỉ ăn một hột cơm, hay một sợi bún, cũng không gầy ốm được một gờ ram nào”. Xuân Hà nói: “Chị Thái Vân sét-xy chớ đâu có mập. Nếu nói là mập, thì cũng là mập đẹp, mập sang, khó kiếm lắm đó. Còn chị tròn hơn dạo trước, nhưng vẫn còn mảnh mai lắm”. Tôi cười nói: “Xuân Hà biết không? Cô Hai mình nhận xét ba đứa: Thái Vân, Thể Hà đều đẹp. Mỗi đứa một vẻ. Chỉ có Xuân Hà thì đặc biệt lắm, vừa đẹp lại vừa cao sang, quí phái. Đẹp sáu, nhưng sang thì tới mười…”
Tiếng cô Hai, đưa tôi về thực tế:
– Ủa, thằng Đông đâu mà cháu về có một mình vậy?
Ba tôi đang săm soi mấy con cá lia thia tàu trong bồn, cũng hỏi:
– Thằng Đông không cùng về với con à? Sao hôm nay con về trễ quá vậy? Thái Vân đến từ lúc xế chiều.
Tôi tươi cười trả lời mọi người:
– Bộ anh Đông là cái rờ-mọt của con sao mà theo con tò tò hoài? Con phải có thời gian tự do của riêng con chớ. Con đã ăn chiều với Xuân Hà rồi. Ngày hôm qua, con có nói với cô Hai đừng chờ cơm, bộ cô quên rồi sao?
Cô Hai tôi vỗ trán, cười ngất:
– Rõ lẩn thẩn, thật không nhận mình già không được. Cô quên mất lời dặn của cháu rồi, giờ cháu nhắc mới nhớ.
Thái Vân bưng tô canh chua cá lóc bốc khói để lên bàn, xen vào:
– Nhắc Tào Tháo thì Tào Tháo tới. Cái rờ-mọt của mầy không ai kéo mà cũng tới cửa rồi kìa.
Anh Đông vào nhà đưa cho ba tôi tờ nguyệt san. Chàng chào cô Hai, chào Thái Vân rồi nhìn tôi, cười cười:
– Em nói hôm nay đi ăn với Xuân Hà, có đi không mà về sớm vậy?
Thái Vân hỏi:
– Anh Đông ăn cơm nhen, em lấy thêm chén đũa? Thể Hà có ăn thêm không?
Anh Đông trả lời Thái Vân:
– Cảm ơn chị, tôi ăn bên nhà rồi.
Tôi vừa rót hai ly nước lọc vừa trả lời Thái Vân:
– Không ăn đâu, tao còn no lắm.
Anh Đông theo tôi ra ngồi ngoài chiếc xích đu bằng cây, dài và có dựa đặt kế bên mấy chậu kiểng, và cây ổi mới có trái chiếng còn non, sai quằn nhánh. Cây lệ liễu nhà hàng xóm nhánh to, rũ chồm xa qua hàng rào, sang nhà tôi. Ánh nắng chiều vàng sáng trải nhẹ trên lá liễu ngát xanh, mướt rượt. Bóng nhánh liểu lao chao, nhảy múa trên mặt đường lởm chớm những viên đá trứng trải dọc theo lối vào nhà. Tôi ngẩng đầu lên, hỏi Đông:
– Hôm nay anh đi làm, sao về sớm vậy?
– Ờ, anh thấy trong người khó chịu.
Tôi lo lắng:
– Anh có uống thuốc uống men gì chưa?
Đông cười:
– Anh nói là lúc chiều kìa, còn bây giờ gặp em thì hết rồi.
– Xì, chỉ nói xạo không hà. Anh có biết là Xuân Hà được trường đại học Loyola bên Mỹ nhận đơn và cấp học bổng không?
Mắt Đông sáng lên:
-Thiệt hả? Chắc nó mừng lắm phải không? Con nhỏ từ ngày chúng mình đính hôn đến giờ, chuyện gì nó cũng nói cho em nghe hết, nó có nói với anh đâu. Nó đã quên ông anh nầy rồi.
Tôi binh Xuân Hà:
– Anh ganh tị hả? Cổ không quên anh đâu, nhưng đàn bà con gái dễ thích hợp tâm sự với nhau hơn. Và bây giờ không phải anh đã biết rồi sao? Cổ còn bảo vào mùa xuân năm tới cổ sẽ đi.
Đông nhìn trời xa, thở dài rồi nói:
– Tội nghiệp con nhỏ. Khi Hưng qua đời đến nay nó đau khổ triền miên. Biết nó khổ mà mình không giúp gì được, nên anh cũng áy náy lắm. Bây giờ nhờ vào niềm vui nầy, anh mong nó được yêu đời trở lại. Hay em hẹn hôm nào chúng mình dùng cơm với nó, tùy em với nó quyết định ở đâu cũng được, về bên nhà má là tốt nhứt vì chúng ta có nhiều thời gian nói chuyện hơn đi ăn bên ngoài. Má mà biết được tin nầy chắc cũng vui lắm. Thứ hai tuần sau, anh đi một chuyến về Hậu Giang. Ở ba thành phố có kẻ nhờ anh giúp là: Long Xuyên, Cần Thơ, Bạc Liêu.
Tôi nhìn Đông cười cười chớ không nói cũng không hỏi chi. Đông xua tay phân trần:
– Chuyến đi nầy rất bận rộn, anh sẽ đi với chú Trình. Em có gặp qua chú rồi mà? Con người nầy rất đàng hoàng nên em đừng có nghĩ bậy nghen.
Tỏi lém lĩnh, hỏi Đông:
– Em nghĩ bậy gì đâu? Không đánh mà khai. Anh có tịch rục rịch giật mình. Vậy là anh có tà tâm, sắp làm chuyện bậy phải không?
Đông bẹo má tôi, lắc đầu cười:
– Anh có nghĩ sẽ làm gì đâu? Anh chỉ sợ em nghi ngờ rồi ghen ẩu thôi.
– Xời ơi, còn lâu bổn cô nương mới ghen. Anh không toan tính làm chuyện bậy thì thôi, đính chánh làm gì? Còn nếu có làm gì bậy thì đừng để em biết. Em mà bắt được thì phiền lắm đó nghen! Ờ, anh định mời Xuân Hà ăn cơm trước khi anh đi, hay đợi anh về rồi mới mời cô ấy?
Đông trả lời tôi:
– Em nghĩ sao? Tùy ý em chừng nào cũng được.
– Vậy thì để anh đi về rồi hãy mời Xuân Hà. Mời về bên nhà ăn nghen. Ăn cơm gia đình vui và thân mật hơn. Em sẽ giúp vú nấu ăn, anh thấy sao?
Đông đồng ý, cười nói:
– Tốt lắm! Nhưng phải gọi bằng má chớ không được gọi bằng vú nữa nghe không.
Tôi liếc anh:
– Thì gọi bằng má. Lại quên nữa rồi. Tại em quen miệng em sẽ sửa cách xưng hô lại.
Tôi đưa Đông ra cửa trở vào nhà thì hơn 8 giờ tối. Thái Vân chế thêm nước nóng vào ly trà, nhìn đồng hồ, rồi liếc mắt tìm kiếm như đang chờ tôi. Nó ngồi ở bàn ăn cơm vừa dọn dẹp và lau sạch sẽ. Trong khi ba tôi vào phòng xem báo và cô Hai đã đi ngủ sớm, tôi bước vào phòng khách, Thái Vân hỏi:
– Bọn bây chừng nào đám cưới? Mầy có phước quá, anh ta thật yêu thương chiều chuộng mầy.
Tôi long lanh đôi mắt của kẻ đang được yêu, nhìn nó, vui vẻ bảo:
– Có lẽ năm tới. Mầy cũng được anh Bá yêu vậy, ông Trời đã lấy sinh mạng mẹ tao ra khỏi đời tao quá sớm nên ổng thương tình ban cho tao những thứ khác để đền bù. Đức Phật có nói: “Ở hiền gặp lành. Làm ác sẽ gặp quả báo” Vả lai, “ác lai, ác báo” mà mậy! Cứ theo lời từ bi Phật dạy mà áp dụng trong đời sống hàng ngày không biết có được hồi đáp tốt trong tương lai không? Nhưng ít ra thì cuộc sống hiện tại sẽ tạo cho mình rất nhiều thoải mái. Nhờ tránh được những tị hiềm, ganh ghét, trả thù nhỏ nhoi luôn dằn vặt lòng mình. Đêm nay mầy ở lại đây ngủ nhen. Tao có nhiều chuyện kể cho mầy nghe.
Giọng buồn buồn, Thái Vân nói:
– Tao có làm ác bao giờ đâu, nhưng luôn gặp điều bất hạnh. Tối nay tao phải về,vì có nhiều việc bề bề phải làm. Thôi, để hôm khác đi.
Nó chép miệng thở dài, nói tiếp:
– Số mạng cả! Trách ai bây giờ?
Tôi ái ngại, nhìn nó dò hỏi:
– Chuyện gì mà trông mầy có vẻ thiểu não, buồn bực quá vậy?
Thái Vân nói mau:
– Tao định hỏi mượn mầy hai chục ngàn đồng (20.000$ ) để mua cái nhà chúng tao đang ở, vì chủ nhà muốn bán. Nếu tao không mua, thì trong vòng ba tháng phải dọn đi, để họ sửa sang mà bán cho người khác.
Giật mình khi nghe nó mượn tiền, tôi hỏi:
– Tao đâu có tiền nhiều dữ vậy? Anh Bá sắp ra trường, khi đó sẽ rời khỏi nơi đó. Mầy mua nhà làm chi, đến khi đi lại vướng víu?
Vẫn trầm giọng nói:
– Anh Bá sẽ về thành phố ở tỉnh gần quê ảnh. Xa quá chắc tao không theo. Hơn nữa ảnh chỉ về ngoài đó làm việc độ một năm thôi thì trở vào đây mở phòng mạch. Nên tao cần có cái nhà nầy để ở. Tới khi nào ảnh vào Sài Gòn, tao bán cũng không lỗ, để mua nhà đẹp hơn. Mầy có giúp tao được không? Tao sẽ chia ra mà trả tiền hàng tháng lại cho mầy.
Tôi thật tình:
– Mầy biết tao không có tiền dư nhiều như vậy, nhưng để tao tính lại coi. Nếu mầy không ngủ đêm thì về sớm đi. Thứ sáu, tao cho mầy biết việc tiền nong có được hay không?
Trước khi về nó nói:
– Theo lẽ tao không nên làm phiền mầy, nhưng ở đây tao không biết mượn ai? Tao hy vọng mầy sẽ giúp tao. Thứ sáu tới, tao sẽ tìm mầy nhận tin tốt. Thôi tao về nghen.