Chương 22
Có thai đứa con thứ ba nầy tôi mong mỏi nó là con trai. Vì chúng tôi đã có hai công chúa, bây giờ muốn có thêm một thái tử, thì sẽ kiêng không sanh nữa. Ba đứa con đủ quá rồi. Mặc dù ba tôi, cô Hai, má chồng tôi muốn tôi mỗi năm sanh một đứa càng nhiều càng tốt. Má chồng tôi thường nói:
– Hai họ chúng ta ít con cái. Con sanh bao nhiêu cũng được, má sẽ nuôi hết cho. Mười đứa hay mười lăm đứa cũng không sao…
Mỗi lần trước mặt vợ chồng tôi nghe bà mẹ, và bà cô muốn có nhiều cháu như vậy. Đông nhìn tôi cười mím chi cọp, còn tôi thì quay mặt nơi khác cười thành tiếng bởi ý nghĩ chợt đến trong đầu: “Bộ tôi là heo nái hay sao đẻ nhiều dữ vậy?”.
Lẩm rẩm mà Xuân Hà rời nước hơn ba năm rồi. Hình cô gởi về, chúng tôi biết được mùa đông nơi cô ở có tuyết rơi trắng xóa, thời tiết giá rét lạnh lùng. Thư cô viết:
“… Vùng em ở một năm lạnh 9 tháng. Mùa xuân và mùa thu thì mặc áo lạnh mỏng. Mùa đông thì khỏi nói, mặc năm ba loại áo ngự hàn đặc biệt mà vẫn lạnh tê tái da thịt, xương gân. Trên hàn thử biểu, 30 độ F là 0 độC cũng là độ lạnh của nước đá. Ở đây có hôm âm độ xuống tới -20 hoặc -30 độ F là thường. Anh chị thử nghĩ coi cái lạnh cao độ đến dường nào? Hồi mới chân ướt chân ráo đến chốn lạnh lẽo nầy, mấy tháng đầu, em chỉ đi học và trở về nhà thôi. Em không dám đi đâu cả, nhưng ở riết rồi em cũng quen anh chị ạ.
Ờ, tháng trước em có gặp anh Nguyễn Hữu Nghiêm, người miền Tây mà có lần em kể chị nghe đó. Anh ta sang đây học về nông nghiệp, con của một nghiệp chủ Long Xuyên. Anh Nghiêm hiền lành, tốt bụng. Cuối năm nay anh ta xong bằng Cử nhân, định ở lại làm luận án cho xong bằng Cao học, ròi mới trở về nước. Có người tâm sự cùng ngôn ngữ với mình cũng vui, cũng đỡ cô đơn nhiều…”
Tôi về thăm ba tôi, thấy trên dĩa bàn lớn nào nho tím chín mọng, trái xá lị da mỏng vỏ nõn nà. Còn có bánh hộp nhập cảng, cạnh đó còn có hột gà, trà. Tôi chưa kịp lên tiếng thì ba tôi hỏi:
– Con không ẵm hai đứa nhỏ theo à? Chúng nó có khỏe không? Để chúng ở nhà thì ai giữ cháu?
Tôi biết ba nhớ hai đứa nhỏ nên mới hỏi dồn như vậy. Tôi trấn an:
– Hai đứa ở nhà với má chồng con, chúng nó có con Bé giữ. Hôm nay con đi chợ về ghé qua thăm ba nên hơi trễ. Ngày mai con sẽ ẵm cháu về thăm ba sớm hơn.
Ba tôi gật đầu, nói:
– Tối hôm qua Thái Vân về thăm. Nó có mua cho ba những thứ con thấy trên bàn đó. Nó còn chuộc mấy món nữ trang đem về trả lại cho con nữa. Những món nữ trang đó đã gói lại để trong hộp, con hãy đem về bên nhà cất đi. Con Thái Vân lạy ba, xin ba tha thứ. Nó còn cho ba biết, nó đã kết hôn rồi. Đáng lẽ ra, ngày kết hôn là ngày vui của đời nó, nó phải thưa với ba trước để ba hưởng chung rượu, tách trà ngày cưới. Coi như đó là nó trả ơn, báo hiếu cho ba. Nhưng nó không thưa với ba, vì nó không có tổ chức đám cưới đám hỏi gì hết, chúng nó chỉ đến ký tên trước tòa án, và được cấp giấy chứng hôn mà thôi. Nó cũng biết con còn giận nó, bởi nó đã làm điều sai quấy với mình nên không dám về báo tin. Nó khóc, mong được ba và con tha lỗi. Tội nghiệp con nhỏ! Đời nó luôn gặp những chuyện không vui. Mong rằng từ đây, nó qua cơn khổ nạn.
Nghe ba kể, tôi làm thinh nhưng giận ứa gan. Ba tôi hiểu tôi, nói tiếp:
– Thôi, bỏ đi con. Đừng giận hờn nó nữa. Đời người ai mà không có lỗi, bây giờ nó biết lỗi rồi, nó cũng đã chuộc đồ trả lại cho con, thì giận nó làm chi? Cổ nhân có nói “Phước đức của đời người là tha thứ”. Cái gì tha thứ được thì mình nên tha thứ đi con. Giận người mình cũng có vui gì đâu…
Tôi không trả lời ba, nhưng tôi tâm niệm sẽ không bao giờ dây dưa với nó nữa. Tôi đánh trống lãng, bắt qua chuyện khác:
– Hôm nay ba thấy thế nào? Khỏe không ba? Ba muốn ăn món gì thì cho con biết?
Ba tôi lúc nào cũng vậy, từ tốn chậm rãi, trả lời:
– Ba bịnh trầm kha mấy chục năm nay rồi, khi sình khi xọp vậy thôi. Miệng ba lạt nhách nên không muốn ăn gì cả.
Tôi rót ly nước cho ba tôi rồi nhanh miệng, nói:
– Con có mua xí-mụi, ba ngậm cho đỡ lạt miệng rồi ăn miếng cháo thịt nghen ba. Con đựng cháo trong bình thủy nên còn nóng hổi đây.
Năm đó, ba tôi qua đời vì bịnh gan tái phát. Đây là nỗi buồn lớn nhứt trong đời tôi! Tôi đau đớn đến tột cùng! Vì cơ thể yếu đuối, vì nỗi đau cắt ruột mất cha, tôi bị bịnh nằm vùi suốt mười mấy ngày, sau khi té xỉu trong ngày đưa ba tôi ra phần mộ. Ba tôi ra đi để lại cho tôi biết bao nhiêu đau đớn, tôi vật vã hồi tưởng thuở ngày xưa lúc còn học Tiểu học ở quận Sùng Hiếu, lúc học Trung học Phan Thanh Giản (Cần Thơ), lúc tôi đi làm… Bao nhiêu buồn vui cha con tôi hẩm hút có nhau… Tôi chán nản không màng chi cả. Tôi không ngó ngàng đến hai con, bỏ mặc cho má chồng và cô Hai săn sóc chúng.
Đám tang ba tôi, một mình Đông lo hết mọi thứ từ trong ra ngoài. Lúc tôi đau, chàng thức thâu canh bên cạnh, an ủi, khuyên lơn, chàng nói cho tôi nghe nhiều sự việc bất hạnh hàng ngày xảy ra trên thế gian nầy, mà chàng biết qua sách báo, hoặc đã nghe thấy. Chàng nhỏ giọng:
– Em nghĩ coi, ba hết sức kiên cường. Sau ngày má và chị Thể Vân tử nạn, ba cố gắng sống vui, sống khỏe để nuôi nấng em nên người. Em cũng nên theo gương ba, nghĩ đến hai con của chúng ta. Và lại nữa, em đang mang thai, rán ăn uống, phấn chấn lên cho mau khỏi bịnh. Nếu vong linh ba biết em buồn khổ như vầy chắc ba không vui đâu. Anh cần em, con cần mẹ… Cố gắng lên đi em, đừng để cơn đau buồn dầy vò em nữa. Anh cũng khổ lắm! Sinh lão bịnh tử thì kiếp con người không sao tránh khỏi. Gia đình chúng ta không thể thiếu em. Anh và các con cần có em…
Tôi khóc nhiều trong vòng tay chồng, và cố gượng đem tình thương yêu con mà vượt qua cơn đớn đau nầy. Con gái lớn tôi Thể Dao đến bên giường khóc đòi mẹ, Thể Quỳnh thấy tôi là ngã cả người khóc điếng đòi bồng. Vắng mẹ không lâu, có nội, có bà cô sãn sóc chu đáo, nhưng các con tôi vẫn ốm đi. Tôi thấy có lỗi với ba, có lỗi với chồng con tôi vì để cho bịnh dầy vò mình.
Càng thương nhớ ba tôi bao nhiêu, càng đau khổ vì mất cha bao nhiêu, thì tôi càng ghét cay ghét đắng con Thái Vân bấy nhiêu. Hôm đám tang ba tôi, không biết sao nó hay mà mò về khóc sướt mướt. Ai cần nó khóc, có ích lợi gì? Tôi chỉ thấy nước mắt cá sấu của nó thôi. Nó xin để tang cho ba tôi. Cô Hai không ưa nó từ lâu, nhưng không ghét bỏ chi nó, nên bà cũng xiêu lòng chấp nhận. Nhưng mọi người chờ nghe sự quyết định của tôi, mới phát tang cho nó. Tôi làm thinh không nói gì hết, quay mặt đi nơi khác. Nó sụp quỳ xuống lạy tôi. Tôi giật mình, bất nhẫn dịu lòng, nhưng vẫn cay đắng:
– Mầy muốn để tang thì cứ để, chỉ là miếng vải trắng thôi, nó sẽ không có nghĩa lý gì đâu, với những kẻ vô lương tâm và bội bạc như mầy!
Thái Vân ở lại suốt những ngày đám tang ba tôi. Nó phụ với những người trong nhà, lo đủ mọi việc nào mà nó có thể làm được. Khi rảnh việc, nó lại đốt nhang trước quan tài ba tôi khóc nỉ non. Những việc nó làm tôi biết rõ, nhưng tôi với nó vẫn còn khoảng cách quá xa. Tôi nghĩ rằng, đời nầy tôi sẽ không bao giờ hàn gắn lại được với nó.
Lúc tôi bịnh nó có đến thăm. Nhưng chỉ ở bên ngoài cửa sổ nhìn vào, hỏi thăm cô Hai, Đông, hoặc bà nội mấy đứa nhỏ, chớ không dám vào gặp tôi. Lần về dự đám ma, trước khi đi nó đưa cho cô Hai ba chục ngàn, nó nhờ cô Hai chuyển lại cho tôi và mảnh giấy viết: “Mười ngàn tao phụ đám ma ba, hai chuc ngàn trả mầv. Còn thiếu bao nhiêu lần sau, tao sẽ trả hết”. Tôi hờ hững nhìn bao thư tiền chẳng nói gì và đưa cho cô Hai giữ. Má chồng tôi cũng cho biết nó đến trả bà năm ngàn đã mượn, bà nói:
– Con Thái Vân dạo nầy có vẻ khá, đến trả tiền má mà nó còn mua nào bánh, nào trà cho cả nhà và mua cho hai đứa nhỏ hai con gấu vải, loại nhập cảng mắc tiền nữa. Nó ăn mặc đẹp, đeo cặp nhẫn xoàn chiếu lấp lánh. Má quên hỏi chừng nào sanh vì bụng nó lớn, trông cũng xấp xỉ bụng con vậy.
Tôi làm thinh, không hỏi han gì về Thái Vân nên má chồng tôi không nói nữa.
Hôm nay, chúng tôi nhận được thùng quà của Xuân Hà từ Mỹ gởi về, trong thùng có: quà cho má chồng tôi được chiếc khăn sạt bằng tơ, màu nâu có điểm hoa hồng vàng. Tôi được chai nước hoa, cái áo lạnh bằng loại len mỏng sợi, nhẹ mình màu hồng nhạt, có kết cườm hai bên ngực áo. Thể Dao, Thể Quỳnh mỗi cháu một cái áo đầm và con búp bê vải. Đông thì hai cái cà-vạt.
Xuân Hà lúc nào cũng vậy, cô rất chu đáo, tế nhị và thật lòng với mọi người. Anh chàng nào mà gặp Xuân Hà thì sẽ có phước. Tôi còn được những tấm ảnh mà cô ta chụp khi đi chơi công viên hoa lệ ở Nữu Ước. Xuân Hà mặc Âu phục rất đẹp, mặc áo mỏng vào mùa hè, áo ngự hàn vào mùa thu, mùa đông làm cô càng cao sang hơn. Nói gì mấy tấm hình cô chụp khi đi tắm biển Florida. Áo tắm nào cũng làm đẹp vóc mình cân đối của cô. Cô không sét-xy như Thái Vân, nhưng ở vóc dáng của cô không có điểm nào đáng chê trách. Đùi cô dài và săn chắc, bắp chân thon, vai tròn, cánh tay đẹp, cổ cô cao, ngực không đồ sộ, chỉ lớn vừa phải nhưng thật tròn xinh, bụng cô sát rạt. Má chồng tôi thường bảo tôi:
– Con Xuân Hà có tướng sang. Nó mặc áo dài, áo dài phải cảm ơn nó, vì vóc mình nó làm cho chiếc áo dài nổi bật. Nó mặc áo đầm, áo đầm như lây cái cốt cách quý phái của nó.
Cô Hai tôi bảo tôi:
– Cô Xuân Hà, qua mấy tấm ảnh chụp gởi về, cổ có dáng đứng và dáng ngồi giống má của con. Hồi nẳm, cỡ tuổi cô, tuổi má con ở thôn quê thường đeo nữ trang như bông tai, dây chuyền, vòng đeo tay, cà rá… bằng đồng, bằng vàng y. Ở thị thành mấy bà giàu sang thì đeo vàng có cẩn hột sa-phia, cẩm thạch, huyền, hoặc mã não. ít ai đeo hột xoàn, vì nó mắc quá, mua thì dễ, khó bán và nếu bán lại còn bị lỗ vốn nhiều nữa. Ấy vậy mà má con lại thích hột xoàn. Không có tiền thì thôi, miễn có tiền là nó mua hột xoàn. Hột xoàn không cần phải sạch 100%, có than, có bọt, khờn, mẻ, hoặc nước lài… chút ít gì cũng được. Miễn sao chiếu hào quang ngời ngời là má con chịu. Má con còn nói: “Nữ trang mà, mua hột xoàn vừa thôi, đeo trên tay mình có ai lấy kiếng soi bên trong hột ra sao đâu. Đừng thèm mua hột hảo hạng chi cho tốn nhiều tiền”
Má chồng tôi trầm trồ:
– Xuân Hà ít khi đeo nữ trang. Nhưng khi nó diện hột xoàn trông càng sang trọng và quý phái.
Theo thời gian mọi việc trên đời rồi cũng xóa nhòa. Má chồng tôi và Đông mời cô Hai về ở với chúng tôi để đùm bọc lẫn nhau. Vợ chồng tôi cũng đỡ lo cho cô sau khi ba tôi qua đời, nếu cô ở một mình vắng vẻ, bịnh hoạn sẽ không ai hay biết. Cô Hai tôi lúc đầu không chịu, nhưng bị tôi và Đông thuyết phục riết và má chồng tôi hối thúc. Và nhứt là vì thương mến mấy đứa nhỏ, nên cô mới bằng lòng về chung sống với chúng tôi. Nhà bên Trần Quý Cáp bỏ trống, nên cô cháu tôi quyết định bán lại cho người khác.
Đám làm tuần bốn mươi chín ngày, lễ làm tuần bách nhựt, ngày giỗ đầu của ba tôi… Thái Vân đều đến giúp cô Hai dọn cỗ bàn. Nó đặt con heo quay, bánh trái ê hề mang đến cúng. Mỗi khi cô Hai tôi lên nhang đèn khấn vái là nó khóc rũ bên vách, cạnh bàn thờ ba tôi. Bao nhiêu khúc mắc trong lòng cô Hai tôi không vì vậy mà tiêu tan. Cô chưa coi nó như con cháu trong nhà. Và tôi vẫn còn nhớ nó tới đâu thì giận nó tới đó, mặc dù bây giờ hai đứa gặp nhau không nặc mùi thuốc nổ như xưa. Nhưng nó ở nhà trên thì tôi xuống nhà dưới, nó ra phòng khách thì tôi vô nhà bếp. Bởi tôi không muốn đụng mặt nó, tôi không thích bắt chuyện với nó, hoặc nói cười đùa giỡn tự nhiên như hồi chúng tôi chưa xảy ra chuyện bất hòa.
Tôi phải công nhận rằng con Thái Vân thay đổi nhiều, dạo nầy nó đẹp quá, sét-xy hơn xưa. Cách trang điểm theo thời trang của nó đâu thua các minh tinh màn bạc đương thời. Nó chải tóc, bới sau ót như Vương phi Grace Kelly. Nó diện com-lê nữ trang toàn là loại đá quý. Nó mặc bộ tailleur bằng hàng ga-bạt-đinh màu xám pha trắng đục như màu ngà voi. Bộ tailleur gồm có cái áo veste và cái jupe. Loại hàng nhập cảng ga-bạt-đinh dầy, khó may, nên rất mắc tiền. Tôi biết mắc tiền, vì mấy tháng trước tôi đã may một bộ, trong dịp vợ chồng tôi đi ăn cơm khách, do ông chủ xuất nhập cảng xe Honda khoản đãi, mừng con trai ông du học ở Canada trở về.
Giặc giã trong nước càng ngày càng sôi động. Tin tức báo chí hàng ngày nghe não lòng. Giặc Cộng pháo kích vào trường học ở Cai Lậy vào giờ trẻ em ra chơi. Những đứa trẻ hồn nhiên, thơ ngây, phút chốc bị chết thảm. Những đứa sứt tay, mất chân mang thương tật suốt đời. Máu me trẻ vô tội thấm đỏ sân trường. Giặc chọi lựu đạn vào rạp hát, trạm xe lửa, chỗ đông người phá rối trị an, gây kinh hoàng và ác mộng cho dân lành. Hại biết bao nhiêu thương vong, tàn tật khốn khổ cho dân lành. Còn đắp mô đào lộ là chuyện xảy ra cơm bữa hàng ngày.
Đông đi làm về. Trong bữa cơm chiều, chàng cho cả nhà biết, hội đề cử chàng đi họp về thương nghiệp ở Đài Loan hai tuần. Má chồng tôi có vẻ không vui, vì Đông đi xa trong tháng tôi sanh. Cô Hai tôi trấn an, nói là có cô thì đừng ngại, cứ yên lòng mà đi. Trước mặt mọi người, Đông đến ôm vai tôi hỏi:
– Sao bà xã, em có muốn để anh đi hay không? Anh chỉ cần em lên tiếng thì quyết định cho chuyến đi nầy của anh. Vì bà xã là số một mà!
Má chồng tôi lắc đầu cười. Cô Hai tôi trề miệng:
– Thằng nầy học thói nịnh vợ hồi nào vậy cà?
Tôi chưa kịp trả lời thì Đông nói tiếp:
– Thật ra anh cũng không muốn đi, vì thấy em è ạch gần ngày sanh. Cho nên khi được họ đề cử, anh nói là ngày mai anh sẽ trả lời có đi hay không.
Tôi nắm tay chàng còn đặt trên vai, bùi ngùi:
– Em ở nhà có má, có cô Hai, anh nên đi đi, mấy thuở mới gặp dịp may hiếm hoi như vậy. Có người cầu muốn chết mà không được, mình được đề cử thì tội gì từ chối?
Trong khi tôi nói, Đông đến bàn rót ly nước, tôi liếc chồng cười trêu chọc:
– Nhưng với điều kiện.
Má Đông và cô Hai mở to mắt nhìn tôi như chờ đợi. Còn Đông đưa ly nước cho tôi, cười hỏi:
– Điều kiện gì đây bà xã?
Tôi nheo mắt:
– Chỉ đi Đài Loan thôi, chớ không phải đi Pháp tìm nàng!
Hai bà chưa kịp hiểu ý tôi muốn nói gì. Riêng Đông thì cười ha hả, hôn vội lên má tôi:
– Má và cô Hai thấy chưa? Vợ con lòi đuôi, đổ ghè ghen rồi đó.
Hai công chúa của tôi cứ quen tật chí cha chí chóe đòi bồng, đòi ăn, đòi ngủ… làm bân rộn cho bà nội và bà cô Hai, còn gặp mặt mẹ thì đeo dính không chịu rời ra. Nhưng khi Đông đi rồi, nhà trở nên vắng vẻ buồn tẻ lạ lùng. Bởi vì chồng tôi là rường cột, là niềm vui, là sự sống của gia đình bé nhỏ nầy.
Hai đứa nhỏ bị nóng sổ mũi hai hôm nay. Theo kinh nghiệm, tôi nhận thấy nếu trong nhà hai đứa nhỏ mỗi lần bịnh thì bịnh cùng một lúc, có khi đứa trước đứa sau chỉ cách nhau vài hôm thôi. Cô Hai cũng bị ho khúc khắc. Chị người làm lại về thăm quê. Má chồng tôi và con Bé hết sức vất vả. Còn tôi thì mang cái bụng bự, nặng nề, ột ệt lo cho mình chưa xong thì giúp được ai. Chiều đến, tôi thấy bụng lâm râm biết mình sắp sanh, nhưng sợ hai bà lo, nên nói:
– Con thấy hơi khó chịu, nên muốn vào nhà thương thăm coi thế nào.
Hai bà người nào cũng muốn đi, tôi trấn an họ:
– Con đi với con Bé được rồi, chắc đêm nay chưa sanh đâu. Hai đứa nhỏ bịnh, cô Hai không được khỏe, vậy cô Hai và má nên ở nhà. Có gì con cho con Bé về báo tin.
Hai bà có vẻ không bằng lòng, nhưng phải chịu chớ biết làm sao. Tôi và con Bé xách va-li vào nhà thương. Khám ngoài, khám trong cho tôi xong, bà y tá trưởng đỡ tôi ngồi dậy, nhỏ nhẹ:
– Bà có dấu sanh rồi. Ai đưa bà vào đây?
Tôi trả lời:
– Thưa, đứa cháu gái.
Bà y tá vừa hỏi, vừa dìu tôi ra khỏi phòng khám thai, đưa tôi đến ngồi trên ghế dựa kế bên chiếc giường phủ tấm vải trắng. Bà y tá đi vòng lại, rồi ngồi xuống chiếc ghế trước bàn, lật sổ sách, lấy viết. Bà bảo tôi:
– Vậy xin bà nói lý lịch để tôi điền vào hồ sơ. Làm xong lý lịch, xin bà nằm giường nầy, hoặc ngồi nghỉ ở đây, đừng đi xa, chừng bà đau thúc thì sẽ sanh, không lâu đâu.
Giấy tờ nầy lúc sanh hai đứa trước do Đông khai cho tôi. Giờ đây chàng vắng nhà, đi với con bé, tôi phải tự làm tờ khai, nên lọng cọng quá, cả số căn cước của mình tôi cũng quên. Xong thủ tục, bà y tá chào tôi đi vào trong. Tôi cảm ơn bà rồi cũng đứng lên, lấy tay đấm đấm vào phía sau, khoảng ngang lưng quần. Tôi đi đi, lại lại chớ không ngồi hay nằm được, vì cái bụng bự nặng nề, nằm xuống hay ngồi dậy một mình thật khó khăn quá.
Cửa phòng sanh bật mở, bà y công và cô y tá, đẩy chiếc băng-ca của một sản phụ vừa sanh xong, đi ngang qua tôi.
-Thể Hà! Thể Hà!
Nghe tiếng gọi, tôi quay lại thì ra Thái Vân. Bất chợt gặp nó, tôi làm thinh ngó chớ không có phản ứng gì. Cô y tá và bà y công vẫn đẩy chầm chậm chiếc băng-ca nó nằm trên đó dần khuất sau cánh cửa và rẽ qua hành lang.
Bụng tôi đau thốn mấy cái. Tôi gọi y tá. Họ đỡ tôi nằm lên giường lật đật đẩy tôi vào phòng sanh. Hơn một giờ sau, tôi vật vã với cơn đau thấu từng cơn. Đớn đau không sao diễn tả nổi được.
Nhớ má chồng tôi nói. Bà có đứa cháu gái con người chị họ. Còn nhỏ mà nó láo xược, cãi cha, mắng mẹ. Má chồng tôi chép miệng, thở dài: “Cái con đó không ra gì, thật là ngu không biết hưởng hạnh phúc bên cha mẹ. Bây giờ nó hỗn hào, bất hiếu. Đến khi có sanh đẻ rồi nó mới biết khổ mà thương cha, thương mẹ. Đến chừng đó thì nó sẽ hối hận, vì ổng bả chết cống hết rồi…”.
Thật sự như vậy. Ai ở trong cảnh ngộ sanh con mới thấu hiểu được thế nào là mang nặng đẻ đau của người đàn bà. Không biết sao, lần sanh nầy tôi cứ nửa thức, nửa ngủ, mê thiếp chập chờn. Bác sĩ, và y tá phải lay gọi tôi từng hồi. Người ta thường nói đó là: “vừa đẻ vừa ngủ, sanh như vậy sẽ chậm lắm”.
Tiếng trẻ khóc oa oa… Bà y tá kề mặt gần lỗ tai tôi nói:
– Con trai. Chúc mừng bà, bà sanh được con trai.
Tôi mệt lả người, nhưng nghe bà y tá cho biết là con trai, cơn mệt như tan biến hết. Niềm hạnh phúc tràn ngập tâm hồn tôi. Sau khi họ kiểm soát mọi thứ cho sản phụ và hài nhi được an toàn. Gần mười hai giờ khuya mẹ con tôi mới được đẩy đến phòng nằm. Cô y tá và bà y công giúp đỡ tôi lên giường, con tôi nằm vào nôi đàng hoàng rồi mới kéo băng-ca đi ra khỏi phòng.
Tôi gọi con Bé vào, vì nãy giờ nó đứng xớ rớ bên ngoài. Con Bé bước vào, tôi dặn dò vài thứ rồi bảo nó ra băng ghế trước cửa phòng dành cho người đến thăm, nằm ngủ đỡ ở đó, cần gì tôi sẽ gọi. Vì trong phòng có hai giường cho hai sản phụ. Giường kia đã có người và giường của tôi. Hai giường ngăn cách bởi lối đi hẹp và chiếc màn trắng kéo ngang. Phòng ở đây không có giường cho thân nhân nuôi sản phụ. Bởi vì giữa khuya, tôi ngại không dám cho con Bé về một mình, để báo tin mừng với người nhà là tôi sanh được cháu trai.
Con trai tôi nằm đó, khuôn mặt đều đặn, sáng sủa, an bình, hồn nhiên, thánh thiện của trẻ sơ sinh mới lọt lòng mẹ. Mai đây, mẹ chồng tôi, cô Hai hay tin chắc chắn sẽ vui mừng lắm. Còn Đông thì khỏi phải nói, có hai đứa con gái rồi chúng tôi đều mong được đứa con trai. Với niềm vui thỏa mãn, tôi đi vào giấc ngủ mệt mỏi chập chờn.
Tôi chợt thức giấc vì tiếng khóc o e của con. Tôi chồm lên nhìn thằng bé ngoa ngoe rồi yên trở lại. Thân thể rã rời yếu đuối, mệt nhừ, tôi nằm xuống, quay mặt vào trong ngủ tiếp.
Đông ôm chầm lấy tôi, mắt lệ rơi từng dòng. Tôi lấy làm ngạc nhiên, giọng yếu ớt, hỏi:
– Chuyện gì vậy? Sao anh lại khóc? Đây là chỗ nào?
Đông nói qua màn lệ:
– Trời ơi, cảm ơn Trời Phật! Em đã tỉnh rồi! Em đã tỉnh rồi.
Tôi ngơ ngác, không biết chuyện gì đã xảy ra? Tôi nhăn mặt:
– Buông em ra, anh ôm chặt quá làm em ngộp thở đây nè.
Tiếng cô Hai, gọi lớn:
– Y tá, bác sĩ ơi!… Cháu tôi tỉnh rồi, cháu tôi đã tỉnh rồi…
Mặt mọi người hiện rõ nét vui, nhưng yên lặng chờ đợi. Vị bác sĩ đứng tuổi, Mặt ông bình tĩnh, điềm đạm, chậm rãi cẩn thận khám bịnh cho tôi. Y tá thì đo máu, lấy nhiệt độ… Bác sĩ thở ra khoan khoái, miệng nở nụ cười hiền lành, như vừa trút được gánh nặng. Ông tươi vui, nói với Đông:
– Chúc mừng cháu, bà xã cháu thật sự đã qua thời kỳ nguy hiểm rồi. Phải chăm sóc chu đáo vợ cháu trong việc ăn uống. Và nhứt là phải tránh cho vợ cháu xúc động vì buồn phiền. Phải tạo cho vợ cháu trong hoàn cảnh vui tươi, hạnh phúc thì vợ cháu sẽ bình phục nhanh chóng.
Đông cảm ơn và đưa bác sĩ ra cửa. Cô Hai tôi mếu máo:
– Cháu nằm bất tỉnh nhân sự gần cả tháng rồi. Bác sĩ chuyền cho cháu hết mấy bịch máu, nước biển liên tục. Má chồng cháu và cô đi khắp các đền chùa cầu nguyện cho cháu được bình an. Chồng cháu bỏ cuộc hội họp trở về. Tôi nghiệp nó, công việc làm ăn bỏ hết, ở bên cháu suốt ngày đêm.
Tôi ngắt lời cô:
– Con của cháu có khỏe không? Chúng đâu rồi? Cháu muốn gặp.
Cô Hai chưa kịp trả lời thì Đông bước vào, chàng ngồi cạnh giường nám tay tôi âu yếm, hỏi:
– Em thấy trong người thế nào? Em muốn ăn gì để anh cho người nấu?
Tôi yếu ớt nắm tay Đông:
– Em muốn gặp con, em nhớ chúng lắm.
Đông trả lời nhanh:
– Được, được, anh sẽ về chở má và các con vào. Nhưng em phải cho anh biết em muốn ăn gì đã?
– Ăn gì cũng được, nhưng phải lỏng lỏng, dễ nuốt.
Cô Hai xen vào:
– Thôi, Đông ở lại với Thể Hà, để cô về cho má cháu hay, bả cùng con Bé ẵm mấy đứa nhỏ đi tắc-xi vào thăm mẹ tụi nó.
Đông nói với cô Hai:
– Cảm ơn cô Hai, cô bảo bà Bảy nấu cháo thịt cho vợ cháu và cả phần của cháu luôn.
Cô Hai vui tươi nét mặt quơ chiếc khăn sạt đội lên đầu rồi lẹ làng xách giỏ ra về. Đông hôn lên trán tôi, mắt long lanh ngấn lệ vui mừng, bảo nhỏ:
– Em ốm quá, từ rày phải ăn uống nhiều hơn cho mau lại sức nghe không.
Tôi nhìn chồng, thương cảm, ái ngại:
– Nuôi người bịnh nên anh cũng vất vả, cũng gầy quá! Bộ anh không ăn uống gì sao? Còn việc công tác ở Đài Loan thế nào? Có thuận lợi không? Em không biết mình đã ngủ một giấc quá dài như vậy. Có phải người chết giống như trong giấc ngủ không? Nếu thế thì chết thật êm đềm.
Đông bụm miệng, không để tôi nói tiếp. Chàng âu yếm:
– Em đừng có nghĩ và nói chữ chết nữa. Đời người, “sống thì không bao giờ chết, còn chết thì sống mãi”. Ờ, còn việc anh đi công tác thì tốt lắm. Đó là việc công, còn việc tư thì thất bại nặng nề!
Tôi ngạc nhiên, hỏi chồng:
– Việc tư gì của anh mà thất bại?
Chàng nheo mắt:
– Anh vừa mới đến Đài Loan thì họ rước đến phòng họp ngay. Phòng họp tại khách sạn anh ở. Họp liên tu bất tận, chỉ nghỉ vào giờ ăn và giờ ngủ, nhưng tối về phòng anh còn phải xem lại giấy tờ nên chẳng ra khỏi khách sạn nửa bước. Sau ngày họp cuối, trước khi rời Đài Loan sẽ có một ngày tự,do, phái đoàn được đưa đi thăm viếng thắng cảnh và mua quà kỷ niệm. Nhưng tối hôm đó được tin em bịnh, anh tức tốc thu dọn ra phi trường đổi chuyên bay về ngay.
Đông bỏ ghế, ngồi lên giường, vừa đỡ đầu tôi anh vừa nói:
– Em ngồi dựa vào ngực anh đi, đầu cao, máu chạy đều sẽ dễ chịu hơn nằm hoài một chỗ. Anh về sớm như vậy thì lỗ quá, bởi không được ngắm mấy nàng minh tinh Đài Bắc và mấy cô xẩm xèng.
Tôi cười, yếu ớt nhéo tay anh:
– Anh dám sao?
Đông làm bộ kêu đau, chớp chớp mắt:
– Không dám nên mới về sớm hơn những người đồng hành đó.
Tôi thều thào trêu lại:
– Thôi được rồi, hôm khác anh sẽ đi Pháp bù lại, thì có gì mà lỗ?
Đông cười ha hả làm cửa sổ kiếng muốn rung rinh. Tôi cũng cười nhẹ:
– Biết lắm mà, nhắc đến Pháp là anh khoái chí, mừng húm liền!
Đông cười xua tay, cảm động:
– Anh cười vui mừng thiệt, nhưng vui mừng được em chọc ghẹo lại anh. Như vậy chứng tỏ là em thật sự khỏe rồi. Cảm ơn Trời Phật.