Chương 23
Tôi về nhà trưa hôm nay, trước sự vui mừng của những người trong gia đình, nhứt là các con tôi. Tôi được mọi người săn sóc chiều chuộng như công nương không bằng. Vì tôi vừa qua cơn bịnh thập tử nhứt sanh tưởng tàn đời rồi chớ bộ! Ở nhà dĩ nhiên là khỏe hơn, giường chõng rộng rãi, không khí ấm cúng, yên tịnh.
Rằm tháng đó, cô Hai rủ má chồng tôi đi chùa Hoa Nghiêm gần Bà Chiểu để dưng hương, trả lễ khấn nguyện lúc tôi lâm trọng bịnh. Có ai bấm chuông cửa. Tiếng chân con Bé chạy sầm sập xuống lầu. Con Bé xăng xái trở lên, nhưng rụt rè bước vào phòng. Tôi hỏi:
– Ai bấm chuông vậy Bé?
Con Bé nhìn tôi e dè, thấp giọng:
– Thưa mợ Hai, cô Thái Vân.
Tôi hỏi nó:
– Hai bà, và cậu Hai còn ở nhà không? Cô Thái Vân đến đây làm gì?
– Dạ, cậu Hai đi làm rồi, còn hai bà thì đi cúng chùa hồi nãy. Con không biết cô Thái Vân lại đây để làm gì nữa?
Tôi châu mày, hỏi nó:
– Cô Thái Vân đi rồi hả?
Thái Vân đứng bên ngoài phóng nhanh vào, giọng mừng rỡ:
– Tao còn đây nè. Mầy có khỏe không? Thằng nhỏ thế nào?
Tôi quay vô vách, xụ mặt, không thèm trả lời nó. Thái Vân khựng lại, thấp giọng tha thiết:
– Mầy còn giận tao sao Thể Hà? Tao thành thật xin lỗi mầy. Lúc cãi vã với mầy, tao đang rối trí quá vì bị lường gạt, vì bị phản bội, lại có chửa hoang nữa. Nên tao đã thốt ra những lời ngông cuồng, bất nhơn, vô liêm sĩ… Xin mầy hãy tha thứ cho tao. Nếu mầy không tha thứ, tao sẽ mang tội lỗi suốt cả đời. Ba đã tha thứ cho tao rồi, mầy không tha thứ cho tao sao Thể Hà?
Nó rướm nước mắt, thút thít nói tiếp:
– Xin mầy đừng giận nữa, tao cũng sắp xa nơi đây rồi. Không biết kiếp nầy chúng mình còn gặp lại nữa không?
Cầm lòng không đặng, nước mắt tôi giọt ngắn, giọt dài. Thế là hai đứa tôi ôm nhau khóc. Từ đó, Thái Vân và tôi nối lại thâm giao. Chúng tôi nghe chừng như thương yêu khắng khít nhau còn hơn thuở ngày xưa. Hai đứa khóc đã đời, tôi buông nó ra, hỏi:
– Thái Vân à, trước lúc sanh Thái Dương, tao nhớ hình như mầy cũng sanh phải không? Cháu bé khoẻ chớ? Sao mầy không ẵm đến đây chơi?
Nó ngờ ngợ, ngập ngừng trả lời:
– Ờ, tao có sanh được đứa con gái, nhưng nó đã chết ngày hôm sau.
Tôi thở dài, nhìn Thái Vân thương xót, hỏi tiếp:
– Nghe nói mầy sắp rời quê hương. Chừng nào đi vậy?
Thái Vân trầm giọng:
– Phải, tao sắp xa nơi nầy, nơi tao được sanh ra và lớn lên. Nơi từng làm tao xót xa đau khổ! Ngày tao lên đường cũng gần đến rồi.
Tôi nhẹ giọng:
– Bây giờ cuộc sống mầy thế nào?
Nhìn nó ngần ngừ, tôi giải thích:
– Tao muốn hỏi, mầy có hạnh phúc không?
Nó thở dài, mắt xa xôi nhìn ra cửa sổ:
– Vật chất thì sung túc lắm. Cái ăn, cái mặc… mọi thứ linh tinh, tao không phải lo chi cả. Một Mỹ kim, sáu chục đồng tiền Việt Nam. Mỗi hai tuần lãnh về, anh ta đưa cho tao hai trăm Mỹ kim, có khi nhiều hơn, bảo tao muốn xài gì xài. Nhiều quá, làm sao tiêu xài cho hết? Tao đã trả hết những món nợ nần vay mượn của người ta từ mấy năm nay rồi. Như vậy tao mới được an lòng trước khi xa chốn nầy. Tiền là vạn năng mà, có tiền có tất cả! Tao nghĩ như thế! Tao không đòi hỏi gì thêm. Đời tao đã gặp quá nhiều muộn phiền nên tao không cần suy đoán để biết trước những chuyện gì ở ngày mai cho mệt. Hãy để cho con Tạo xoay vần, vì Trời đã định phần số cho mỗi con người rồi, thây kệ, tới đâu hay tới đó.
Nói đến đây, nó trở giọng buồn buồn:
– Tao không cần biết cái gì và chuyện gì sẽ xảy ra ở bên kia bờ đại dương tao sắp đến? Nhưng tao cũng không giấu giếm chi mầy. Người chồng dị chủng ngoại nhân của tao yêu thương tao lắm. Anh ta lo cho tao đủ mọi thứ. Như vậy tao cảm thấy mãn nguyện và hạnh phúc lắm rồi. Vì trên cõi đời nầy, ngoài ba và mầy tình như ruột thịt, còn có người yêu thương tao, mặc dù trước đó tao chưa yêu thương anh ta gì cả. Nhưng ở lâu sanh tình, rồi kết chặt nghĩa keo sơn. Người xưa đã nói như vậy. Tao cũng chỉ mong có thế, cho hết kiếp đời còn lại của tao nơi phương trời xa xứ lạ!
Lòng tôi chùng lại! Tôi không nói được lời nào để an ủi nó. Tôi nghẹn lời, nghe lòng mình xót xa và thương nó hơn bao giờ hết. Mắt nó mơ màng như đang hồi tưởng những chuyện đã qua. Nó đưa tay vuốt mấy sợi tóc lòa xòa trên trán, chép miệng thở dài. Bỗng xoay qua cười nói:
– Tao lẩn thẩn quá phải không? Những chuyện xa xưa đó còn nhắc lại làm chi nữa, có ích lợi gì đâu? Người ta thường nói, những ông chồng dị tộc không thể tin tưởng họ được,.Họ đa số là những con bướm khi vui nó đậu, khi buồn nó bay. Nhưng tao bất cần. Sao thì sao! chuyện gì đến sẽ đến, hơi sức đâu mà lo cho mệt. Hắn là con bướm đực hào hoa, thì tao cũng là con bướm đẹp của cõi Giao Châu. Sau mùa đông giá rét bị đóng băng, nay được thoát xác vỗ cánh bay lượn trong mùa xuân ấm áp đầy hoa thơm cỏ lạ.
Con nhỏ dạo nầy có vẻ tiến bộ quá. Nói đến đó nó cười ha hả, coi trên thế gian nầy không chuyện gì để nó có thể phiền muộn nữa cả. Nó không còn đăm chiêu hay u sầu rũ rượi như dạo trước. Cuộc đời dài được bao lâu? Nó nghĩ và định hướng cho cuộc đời còn lại của mình như vậy cũng tốt. Phần số cả! Phải phần số cả. Miễn sống sao vui vẻ, hạnh phúc, đừng hại người phiền mình là đủ lắm rồi. Nó đến đứng gần bên nôi nhìn thằng bé. Rồi nói với tôi:
– Hôm nay đến thăm mầy, tao có ghé qua chợ Bến Thành, mua mấy cái bánh da lợn lá dứa đậu xanh, bánh bò nướng đường cát trắng mà mầy ưa thích. Tao để ngoài bàn ăn, định lên nhìn lén mầy một chút rồi dọt lẹ. Bởi tao sợ, thấy tao mầy càng giận thêm. Giờ mầy hết giận rồi, tao mừng lắm Thể Hà à. Cảm ơn mầy đã tha thứ cho tao.
Nó đưa tay nựng con tôi:
– Thằng nhỏ dễ thương quá mậy. Hôm nay trông nó lớn hơn hôm trước.
Tôi hỏi:
– Bộ mầy thấy nó rồi hả?
Nó ẵm con tôi lên:
– Cho tao ẵm nó một chút nghen? Thấy rồi, vào cái hôm trước tao đến thăm, nhưng mầy ngủ, cô Hai ẵm nó xuống nhà dưới để rơ lưỡi cho nó. Con mầy dễ thương quá Thể Hà à.
Ôm thằng nhỏ trong vòng tay, nó trắc trắc lưỡi, cười tươi nói với thằng bé:
– Cháu rán ăn no, mau lớn, ngoan ngoản. Sau nầy lớn lên phải nghe lời và hiếu thảo với cha mẹ. Hôm khác đến thăm, dì Thái Vân sẽ mua quần áo đẹp cho cháu nghen.
Tâm tình tôi ngập đầy hạnh phúc nhìn Thái Vân, nhìn con trai tôi. Tôi cười và liếc xéo nó:
– Mầy khùng quá đi. Thằng nhỏ có chút chí, biết gì mà mầy nói với nó?
Thái Vân mặt mày hân hoan, có lẽ vui vì tôi không còn hờn giận nó nữa. Nó hạ thấp tay xuống, cho tôi thấy mặt thằng bé, và nói:
– Biết chớ, con nít có linh tính lắm. Mầy xem, miệng nó đang cười đây. Ờ, Thể Hà à, tao muốn hai đứa mình đi chơi một bữa. Chỉ tao với mầy thôi, để chúng mình sống lại một chút hương vị thuở ngày xưa, trước khi tao rời quê hương. Mầy thấy sao?
Tôi gật đầu:
– Được chớ, mầy cho biết trước vài bữa, để tao sắp xếp cho mấy đứa nhóc nầy. Như vậy chúng mình đi chơi mới được thong thả và yên lòng.
Từ ngày tôi bịnh, thì giường các con tôi được dời qua phòng bà nội chúng, cả con Bé cũng vào đó ngủ nữa, để nó phụ bà mỗi khi mấy đứa nhỏ khóc đêm, đòi ăn, thay tã… Má chồng tôi nói:
– Thật, con qua một cơn bịnh quá nặng, cả nhà lo lắng không sao nói hết. Chồng con bỏ hết công việc làm ăn, túc trực suốt ngày đêm bên giường bịnh. Nay con khỏe, gia đình chúng ta trở lại nếp sống êm đềm như xưa. Dù Ơn Trên có cho trúng giấy số độc đắc má cũng không vui mừng bằng. Chừng nào con bình phục hẳn, má sẽ dời các cháu trở lại phòng con. Còn nếu con chịu thì để các cháu bên phòng má, cho má xem chừng chúng, phòng má rộng rãi mà.
Tôi cảm động, thầm cảm ơn mẹ chồng, lúc nào bà cũng hết sức chu đáo thương lo cho con dâu và cháu nội.
Chúng tôi luôn được thư Xuân Hà. Cô ta ngoài gởi kẹo bánh, áo quần cho mấy đứa nhỏ còn có những món quà khác như khăn tay, cà vạt, áo ấm, vải vóc đẹp cho má chồng và cho chúng tôi. Sau lần tôi bịnh, Xuân Hà còn gởi thêm đủ loại thuốc bổ nữa. Thư kèm theo trong thùng quà, cô viết:
“…Em luôn nhớ Bác Hai, anh chị và các cháu… Chúc mừng chị vừa vựợt qua cơn đau nặng. Trong ảnh gia đình do anh gởi qua, chị có ba con rồi mà vẫn còn ốm như hồi con gái! Cố gắng ăn uống nhiều hơn cho có sức khỏe mới lo cho các cháu được chớ. Anh Đông thiệt là tệ quá đi, được vợ sanh cho những đứa con đẹp như vậy mà không biết săn sóc chị ấy! Đến bây giờ mà em vẫn chưa thấy anh tiến bộ chút nào cả.
Việc học của em vẫn thường. Dạo nầy cuối tuần không bận rộn, anh Nghiêm thường chở em đi thăm thắng cảnh ở một vài tiểu bang lân cận, sáng đi sớm, chiều về. Các nơi chúng em đến thăm, thường có những tiệm bán vật dụng cần thiết để nấu ăn của Tàu, hoặc nhà hàng Tàu. Em đã tìm mãi mà chưa gặp quán ăn nào của người Việt Nam cả. Chị hỏi anh Nghiêm và em tiến triển tới đâu ròi? Em xin trả lời: Chỉ là bạn thông thường thôi. Anh ta có vẻ sốt sắng, nhưng em không nghe con tim mình rộn rã đập nhịp nhạc tình, bởi hình bóng anh Hưng vẫn còn in rõ nét trong tim em… Thôi thì cứ chờ thời gian xem sao. Không phải anh chị đã thường nói là mọi sự việc trên cõi đời nầy Ơn Trên đã an bài ròi sao? Hẹn thư sau nghe. Cho em hôn các cháu.
Xuân Hà”
Thái Vân dạo nầy có vẻ lạc quan, tươi như hoa, phơi phới như cờ bay. Thái Vân cho tôi biết, khi mới quen với Tom, nó được anh ta giới thiệu vào công tác cho cơ quan USAID. Thái Vân nghỉ làm nghề uốn tóc, nó có cơ may làm môi giới kiếm nhân viên cho các cơ quan, hãng xưởng của Mỹ, nên nó kiếm được tiền khá bộn. Hèn nào mà nó chẳng ăn mặc sang trọng, trang điểm choáng lộn, đeo hột xoàn to như trái trứng cá, đeo cẩm thạch màu xanh lý. Năm rồi, nó mua lại chiếc xe Hon-da cũ của người ta để làm chưn chạy đi làm. Tuần trước đến thăm tôi, nó lái chiếc Vespa vừa còm-măn mới tinh, chạy phom phom trên các nẻo đường của thủ đô Sài Gòn hoa lệ. Tôi nghĩ cho dù nó mua xe hơi cũng được, nói chi xe Vespa.
Mèn ơi, có ăn có để rồi thì sanh chứng. Cục điệu của nó nở bự gần bằng cái thúng đựng cám heo, chớ đừng nói chi bằng trái dưa hấu. Nó còn bắt chước nói văn hoa, lý sự. Nó cố tình muốn cho mọi người biết mình đâu có thua kém ai. Mình cũng thuộc hàng có học, cao sang, hào hoa, quí phái, phong nhã lắm lắm chớ bộ!
Tức cười, khi nói chuyện nó còn làm ra vẻ mệnh phụ, tôi nghe phát mệt. Nó còn dở chứng điệu đà, mắt lim dim, sửa giọng, rồi thí dụ, rồi kể kể, rồi đệm những chữ, những vần huê mỹ như người ta viết truyện phim, viết truyện tình trong tiểu thuyết. Nào là: “biển mặn”, “đêm đen”, “mưa ngọc” “mưa thủy tinh”, “nắng lụa”, “chòi tranh”… Thấy mắc ghét, tôi phang liền:
– Xời ơi! Thái Vân à, tội nghiệp quá đi! Mầy làm ơn thử chỉ cho tao coi biển nào lạt, biển nào ngọt, biển nào chua, biển nào đắng? Cái chòi thì ai nói chòi ngói, hay chòi tôn bao giờ? Nói cái “chòi” thì người ta biết rồi, còn thêm chữ “tranh” sau chữ chòi chi vậy? Còn “mưa hồng”, “mưa lưu ly”, “nắng tơ vàng”, “nắng xám”, “nắng thủy tinh” nữa… Thiệt tình, nghe mầy phát ngôn kiểu cách, tội nghiệp cái lỗ tai tao than phiền là bị hãm hiếp đây nè.
Nó cũng không vừa, trề môi háy tôi:
– Xì, mầy không biết hay làm bộ không biết? Tao nói rồi bay mất, có người còn viết trên giấy trắng, mực đen, nào là: “đêm xanh, đêm tím, đêm màu hồng…” nữa kìa mầy à.
Tôi sừng sộ:
– Người ta viết thây kệ người ta. Nhưng những người viết đó, đa số là mấy nhà văn, nhà thơ. Họ nói gì thì họ nói chẳng bị ai rầy la. Còn mầy mà nói như họ, tao nghe nhột nhạt quá đi.
Tôi biết Thái Vân bày cục điệu ra là nó đang hạnh phúc. Chắc là con a huờn nầy bắt đầu yêu chồng rồi đó đa. Hèn nào mà miệng nó liếng thoắng, véo von không kéo da non.
Từ khi Thái Vân đi làm sở Mỹ. Nó như cá gặp nước như rồng gặp mây. Tiền bạc dồi dào, có nhà, có người giúp việc. Rồi nó theo chồng về vùng xa xứ lạ bên kia bờ đại dương thăm thẳm, nghìn trùng cách xa để dung thân cho cuộc đời còn lại của mình. Mỗi lần tôi bất chợt nghe ai nhắc đến nó, tôi tưởng chừng như đang nghe kể chuyện thần thoại hay mình đang trong giấc mơ.
Hiểu biết hoàn cảnh của Thái Vân, ai mà không rơi nước mắt! Đời người phải gặp nhiều khổ đau và bất hạnh như vậy sao? Bây giờ thật sự tôi không còn hờn giận nó nữa, mà nghe lòng bùi ngùi thương nhớ nó quá chừng. Tôi là như thế. Có chuyện gì giận hờn, thì ồn ào xao xuyến trong lòng, mất ăn, mất ngủ miệng lầm bầm rủa sả, rồi thề một mình: Từ đây về sau mình sẽ không thèm đếm xỉa, không đội trời chung với kẻ bạc bẽo kia, sẽ hận tới tàn đời, mạt kiếp, ghét cay, ghét đắng, thù tận mây xanh, thù sâu như đáy biển… Nhưng khi nghe kẻ mình không ưa gặp cảnh hoạn nạn, ươn yếu thì nỗi thù hận không đội trời chung đó, không cánh mà bay mất tự bao giờ, đến chính mình cũng không hay biết!
Ngay từ lúc nhỏ, Thái Vân biết rõ tánh tình tôi như vậy. Bây giờ phu quân tôi cũng biết tẩy của tôi nên thường hay nói xiên nói xẹo đủ điều để ghẹo chọc tôi hoài.
Tôi với Thái Vân không dây mơ rể má, không chút tình huyết thống nào, nhưng không biết sao tôi thương nó như ruột thịt. Dù rằng nó lừa dối tôi, gạt gẫm tôi, ăn cắp đồ của tôi nhưng tôi vẫn nhớ thương nó như lúc chưa giận hờn. Ngoài thì làm mặt giận, nhưng lòng tôi luôn tìm đủ lý do để mà tha thứ, để mà bao dung… Nó túng cùng nên làm ra việc tác tệ như vậy thôi.
Tôi thật sự cũng rất tán đồng về chọn lựa theo chồng qua xứ lạ của nó. Thứ nhứt là xa nơi nó có nhiều đau khổ lúc thiếu thời, đến tuổi thanh xuân còn bị gạt gẫm bởi thương lầm kẻ xấu! Có lẽ đó là phần số! Nó ra xứ khác, biết đâu nơi đó, sẽ là mảnh đất phì nhiêu mà Thượng Đế an bài cho nó một tương lai tốt đẹp, có cuộc sống hạnh phúc, để bù lại thời gian bất hạnh đã qua.
Má chồng tôi và Đông bồng bế mấy đứa nhỏ qua. Đông xì xào gì bên lỗ tai chúng, anh đếm: “Một, hai, ba”. Thể Dao, Thể Quỳnh chạy nhào đến hôn lấy hôn để mẹ. Hôn túi bụi một hồi, hai đứa nói: “Dao khương mẹ dá đi! Quỳnh cũng hương mẹ, hí hí…”. Con gái Quỳnh cười đưa hai cái răng cửa trắng hếu. Má chồng tôi ẵm hoàng nam của chúng tôi đến. Thằng bé bên trong mặc bộ đồ vạt hò do cô Hai may tay, bên ngoài mặc chiếc áo len xanh, đầu đội nón xanh, chân mang vớ xanh của Xuân Hà gởi về mừng cháu. Tôi ôm con vào lòng thổn thức. Má chồng tôi cũng cảm động quơ vội chiếc khăn trên đầu giường lau dòng lệ. Đông vỗ về:
– Mọi việc đã qua, em khỏe mạnh lại. Con trai chúng ta mỗi ngày mỗi lớn. Các con đều ngoan cả. Thượng Đế đã cho chúng ta quá nhiều ân huệ rồi. Từ rày chúng ta phải làm những điều tốt, điều lành để tạ ơn. Thôi đừng khóc nữa, em.
Đông lại nheo mắt ra hiệu cho hai đứa nhỏ. chúng ôm đầu, ôm vai tôi hôn lấy hôn để, gặp chỗ nào hôn chỗ đó. Thể Dao bỗng đưa bàn tay trắng nõn nà, ngón tay mập thon như búp măng tre mủm mỉm vén mấy sợi tóc qua một bên thở hào hển, nói:
– Hôn mẹ hoài mệt quá. Ba hôn mẹ đi ba, hôn đi, một hồi con sẽ cho ba kẹo…
Má chồng tôi cười ngất ẵm hai đứa nhỏ ra ngoài. Vừa đi bà vừa nói:
– Để má chơi với em. Bà bồng hai đứa xuống nhà cho kẹo nhen.
Đông trìu mến nhìn tôi và thằng bé:
– Em thấy con mình đứa nào cũng đẹp, cũng dễ thương quá! Thái Dương giống anh, lớn lên con sẽ đẹp trai lắm, đẹp trai như bố vậy!
Tôi nhìn Đông, trề môi:
– Ôi “giời” ơi! Anh mà đẹp “giai” hả?
Đông cười, bẹo má tôi:
– Còn gì nữa? Nếu không “bô giai” thì cô Thể Hà còn “phia” mới ngó tới!
Tôi xì, nhưng không nhịn được, cười thành tiếng.
Miệng chuyền miệng, tin tức từ các báo chí hàng ngày đăng tải tin chiến sự, với hàng chữ màu tựa bài thật lớn chiếm quá nửa tờ báo. Dân đứng sắp hàng trước các quán sách, sạp báo để chờ mua báo mới ra hàng ngày, nếu chậm thì người ta sẽ mua hết, không còn báo để mua mà xem tin tức.
Giặc lẻn về quấy nhiễu khắp nơi. Chúng dùng nhiều thủ đoạn và đủ mọi hình thức để đoạt mục đích thắng lợi. Chúng không từ nan bất cứ một hành động dã man nào. Chúng không cần biết khổ đau của người khác, không kể ông già bà cả, trẻ con, đàn bà bụng mang dạ chửa… Chúng bắt dân đi đào hầm, đào hố. Chúng gài mìn, pháo kích… Ai chống đối, hoặc không nghe chúng sai khiến thì sẽ bị chúng đưa ra tòa án nhân dân. Loại tòa án ở giữa đồng, ở rừng, ở nơi vắng người, hẻo lánh. Chúng lừa đảo dân để trả thù cá nhân. Chúng xử tại chỗ, với những bản án dã man, cuồng bạo như: chặt đầu, cắt cổ, mổ bụng bằng mã tấu, kết bè thả trôi sông… Chúng lùa dân làm bình phong đỡ đạn … Oán hờn chất ngất cao ngút trời xanh. Các trận đụng độ lớn giữa quân đội Việt Nam Cộng Hòa và bọn giặc từ miền Bắc xua vào, đã xảy ra liên tục. “…Chiến tranh nào mà không tan nát… “
Rồi hội nghị Ba-Lê để điều đình, hòa giải, hòa hợp, hợp thành phần bốn bên… Dân miền Nam không biết được những tráo trở, gian manh của bọn Cộng sản và tay sai miền Bắc, một lòng tin tưởng hy vọng và mong ngày hòa bình sẽ về với đất nước không xa, đưa toàn dân đến an lành, no cơm ấm áo… Nhưng giặc vừa đánh vừa đàm. Trên bàn hội nghị thì nhân nghĩa có thừa cho các nước Đồng Minh thấy mà tin tưởng. Nhưng trên quê hương, hàng ngày có bao nhiêu sinh mạng chết oan vì chúng, bao nhiêu thành phố bị chúng dập vùi trong những trận mưa pháo tan tành…
Thằng bé Vũ Huỳnh Thái Dương của chúng tôi bụ bẫm dễ thương. Thời gian qua quá là nhanh, lật bật mà cháu đã được mười tháng rồi. Các con tôi là niềm vui lớn của gia đình bé nhỏ nầy. Bà cô Hai và bà nội quấn quít bên các cháu không rời nửa bước.
Chiến sự càng ngày càng ác liệt. Một hôm, trong buổi cơm chiều, Đông đề nghị với chúng tôi. Chàng sẽ đưa cô Hai, má chồng tôi và mẹ con tôi ra nhà Vũng Tàu ở tạm một thời gian. Má và cô Hai không có ý kiến, miễn mẹ con tôi ở đâu thì hai bà ở đó. Hai bà đã thẳng thừng nói với chúng tôi rằng thiếu ba đứa nhỏ, hai bà ăn không ngon, ngủ không yên.
Sau khi sanh Thái Dương, tôi lâm trọng bịnh, tưởng đâu đã đi đời nhà ma rồi. Cô tôi một tay chăm sóc, bồng ẵm Thái Dương… Đêm đêm cháu ngủ chung với bà cô Hai, nên bây giờ cô không muốn rời nó. Từ khi tôi ở bịnh viện về đến nay, cô tôi nại đủ mọi lý do là: “Cháu chưa được khỏe, thằng bé hay khóc đêm, khi đòi ăn, khi thì ị đầy tả. Thằng bé ngủ với cô quen hơi rồi, bây giờ mà ngủ với cháu, nó sẽ không ngủ yên, sẽ mất sức tội nghiệp nó. Thôi thì cháu hãy để nó ngủ với cô, chừng nào nó lớn, biết đi cầu rồi hãy ngủ với cháu…”. Tôi cười méo xẹo: “Vậy là cháu phải chờ năm, sáu năm nữa mới được ngủ chung với con mình? Cô độc tài quá đi! ” Cô tôi cười hì hì tếu làm sao: “Ai biểu cháu là cháu của cô…”
Còn hai nàng Quỳnh và Dao thì đeo bà nội như sam. Dao nhiều nét giống ba, ít nét giống mẹ. Cháu có mái tóc bồng nhẹ, đen huyền, miệng cười giống mẹ. Nước da nó hơi ngăm, khuôn mặt hơi vuông, mũi cao, mắt to, lông mi dài giống mặt mũi cha như hệt. Còn nàng Quỳnh thì khỏi nói, mập mạp, trắng trẻo, mặt mày điềm đạm, miệng lúc nào cũng vui cười tích toác giống bà nội từ dáng dấp đến tánh tình. Ba đứa nhỏ là tâm can bửu bối của hai bà. Tôi và Đông chỉ cần trợn mắt với chúng thôi, thì hai bà ẵm chúng đi chỗ khác liền.
Tôi xụ mặt, nói:
– Em không tán thành đề nghị của anh. Bởi em không muốn xa con và cũng không muốn xa chồng. Đất nước đang lúc dầu sôi lửa bỏng, chết sống trong đường tơ kẽ tóc, tại sao gia đình mình phải chia năm xẻ bảy?
Đông vẫn cương quyết:
– Anh đã nói rồi! Em phải đi, mặc dù có má, có cô Hai nhưng em phải cùng đi với họ. Em ở lại có chuyện gì sẽ vướng tay, vướng chân anh.
Bực quá, tôi nổ liền:
– Thì ra, nói quanh nói quẩn là anh vẫn muốn ở lại một mình để tự do du hí du thực, để mặc sức làm quỉ, làm ma, làm giặc… chớ gì? Tôi không đi đâu hết. Có giỏi thì anh ra ngoải ở đi.
Đông sừng lại:
– Em lại dở chứng nữa rồi! Sao cứng đầu, ngang ngược, vô lý quá vậy? Bộ anh muốn ở lại đây một mình lắm sao? Anh đắn đo đủ mọi thứ, sợ chuyện gì xảy đến anh sẽ trở tay không kịp. Ra ở ngoài đó chỉ tạm thời thôi, tình hình ổn định anh sẽ rước về. Còn tình trạng cứ kéo dài, anh sẽ thu xếp mọi chuyện làm ăn xong, thì ra ngay và tính những chuyện sắp tới.
Bị mắng bất ngờ, tôi giận bầm gan, tím ruột. Bởi có má chồng và cô Hai ở đây, nếu không thì dù cãi không lại tôi cũng xỉa xói vài câu cho hả tức. Ghét quá, tôi bỏ vào buồng đóng sầm cửa lại. Trong khi đó, má chồng và cô Hai tôi, lật đật hối thúc người làm sắp áo quần, và những thứ cần dùng vào va-li, vào thùng, vào giỏ để sáng mai lên đường như Đông đã định.
Chồng tôi là thế đó. Anh thương yêu chiều chuộng vợ đủ mọi điều, nhưng anh rất độc tài. Những chuyện gì anh đã quyết định rồi thì khó ai lay chuyển được, cả má chồng tôi là người anh thương kính nhứt trên cõi đời nầy, mà đôi lúc bà cũng phải nhượng bộ anh vài phần. Với tôi, yêu thì anh yêu tha thiết đắm say nhưng lúc nào anh cũng ra chỉ thị, vụ lịnh, huấn lịnh, mật lịnh toàn là những lịnh khả ố, lịnh con khỉ khô, con chằng hiu, con chồn đèn… Tôi không biết, đó phải chăng là bản chất của những người đàn ông trẻ có tài, có tiền, có địa vị, có quyền thế như chồng tôi không? Cho nên lúc nào tôi cũng bị anh đàn áp trong những câu dỗ ngọt, dỗ mặn… Tức, giận quá đỗi, nhưng không làm gì được, tôi chỉ còn có nước lầm bầm một mình cho hả tức: “Xí! Đừng có nằm mơ! Còn khuya bổn cô nương mới nghe theo”.
Cánh cửa phòng bật mở, cắt dòng tư tưởng của tôi. Đông bước vào. Tôi khai chiến ngay. Chúng tôi lại tiếp tục cãi cọ một hồi nữa. Lúc nào cũng vậy, sau cùng rồi tôi cũng phải tuân theo lịnh chồng. Vì mọi chuyện, mọi sự việc chàng đã sắp xếp, phân bày, tôi nghe đều bùi tai và có lý cả. Bao giờ anh cũng dung hòa ít nhiều ý kiến của tôi trong đó. Lần nầy thì chúng tôi đưa hai bà cùng mấy đứa nhỏ ra Vũng Tàu. Rồi tôi cùng chàng trở lại nhà ở Sàigòn. Cuối tuần chúng tôi sẽ ra thăm họ.
Giữa lúc đó, tôi nhận được thư của Xuân Hà. Cô có gởi tặng tôi tấm ảnh, cô chụp chung với anh Nghiêm khi cả hai đi tắm biển. Anh Nghiêm không to lớn như dân bản xứ, nhưng lưng dài, vai rộng. Trông hai người cũng xứng đôi lắm. Xuân Hà còn cho tôi biết, đã bắt liên lạc với Thái Vân. Mụ chị hờ của tôi đang cấn thai.
Con quỷ đó viết thư cho tôi biết, nó định đặt tên cho đứa con trai sắp sanh của nó là Tab Hunter (đó là tên một tài tử nổi tiếng của Huê Kỳ). Tôi bật cười thành tiếng, về ý nghĩ vừa chợt đến: Cha tên Tom Hunter. Tom là Tôm. Con tên Tab Hunter. Tab là Tép. Tôm tép, chung ao, chung đìa thì bố con Hunter chung sống dưới mái nhà. Thiệt là hợp quá chừng đi thôi.
Con xí xọn Thái Vân còn nói là khi vào quốc tịch, nó đổi tên lại là Wanda, nhưng sau đó nó khám phá ra mụ hàng xóm của nó vốn kỳ thị chủng tộc cũng tên Oăn-đa, nên nó trở về cái tên cúng cơm cũ, đối với bạn bè Mỹ của vợ chồng nó. Còn cái tên mới Wanda của nó đã gắn chặt trên giấy tờ, trên bằng lái xe, trên thẻ kiểm tra mới… làm sao nó gỡ ra cho được?
Đều đều tôi gửi qua cho Xuân Hà, cho Thái Vân những băng nhạc thu giọng các ca sĩ: Duy Khánh, Nhật Trường, Anh Khoa, Họàng Oanh, Phương Dung, Lệ Thu, Khánh Ly, Giao Linh… Tôi cũng gởi cho chúng những tiểu thuyết của nhà văn Hương Cảng Quỳnh Dao do Liêu Quốc Nhĩ dịch, tiểu thuyết của Văn Quang, cuốn Đường Đi Không Đến của nhà văn hồi chánh Xuân Vũ. Tiểu thuyết của Chu Tử, của Khái Hưng, Nhất Linh… Thơ của Lệ Khánh, Nhất Tuấn, Diên Nghị… Duy có trái cây chua như cốc, ổi, chùm ruột, xoài sống, mận… làm sao tôi gởi cho con Thái Vân đây?
Chao ơi! Đưa Má chồng, cô tôi và mấy đứa nhỏ đi Vũng Tàu ở. Tôi trở về Sài Gòn chỉ mới có hai bữa, mà đêm nào tôi cũng khóc vì nhớ quay quắt mấy đứa con. Sáng sớm sang ngày thứ ba, tôi vác va-li đi xe đò ra Vũng Tàu. Bỏ anh chàng Đông có tài nói hay, sắp xếp giỏi ở lại một mình làm gì thì làm tôi chẳng thèm để ý chi cho mệt!
Qua chuyện đi ở, ở đi nầy, tôi suy gẫm và nghiệm thấy rằng: “Mình có thể xa chồng, chớ không xa con được”.
Chiều hôm đó, Đông về Vũng Tàu thăm. Sau khi cơm nước xong, mấy cháu đã lên giường, chúng tôi ngồi quây quần bên bình trà tàu, nhắc chuyện xưa, kể chuyện nay, và cùng nghe tôi đọc lá thư đầu tiên của Thái Vân từ chân trời xa lạ Mỹ quốc, gởi về cho tôi:
“Thể Hà ơi, tao đến quê chồng ở Saint Louis cạnh dòng sông Mississipi thuộc tiểu bang Missouri, Mỹ quốc. Tiểu bang Illinois và Missouri chia ranh giới bởi dòng sông lịch sử Mississipi mà văn hào Mỹ Mark Twain đưa vào huyền sử của giới trẻ Tom Sawyer và Huckblerry Finn.
Vùng đất hiền hòa nầy chông tao được sanh ra và lớn lên. Ảnh dắt tao về đây thăm để giới thiệu với họ hàng nhà chồng. Sau hai tuần, ảnh đưa tao qua Michigan, thành phố của một tiểu bang khác (kế Illinois), noi nầy trù phú, sát ranh giới Toronto thuộc nước Canada khoảng hai giờ lái xe. Tại Michigan ảnh mua nhà cửa và có việc làm sau một tháng nghỉ ngơi. Ở đây Tom còn có bà vợ và hai đứa con trai của ảnh. Một đứa lên sáu, và đứa tám tuổi. Vợ ảnh xin ly dị sau khi anh ta sang Việt Nam làm việc dược hai năm. Hiện giờ, bà ấ đã có chòng khác và có con riêng. Gia đình bà cũng ở chung tiểu bang tụi tao cách nhau khoảng ba giờ lái xe gần tiểu bang Indiana.
Tao nhớ về quê hương thật là nhớ. Nhớ tất cả mọi người, nhớ những món ăn. Khi xa rồi mới thấy và hiểu thế nào là tình thân bị mất mát. Nhớ những chuyện đã qua trong đời mà buồn mà vui một mình theo dòng hồi tưởng…
Báo chí ở đây nói nhiều về chiến tranh Việt Nam. Anh Đông có suy tính gì chưa? Mọi người vẫn khỏe mạnh chớ? Còn hai nàng công chúa, và hoàng tử nữa, chắc chúng lớn và dễ thương lắm? Thể Hà ơi, tao gởi về chút ít qua cho cả nhà và các cháu. Mầy nhớ gởi hình mấy đứa nhỏ cho tao nghen. Hẹn thư sau…”
Má chồng tôi, cô Hai và mấy đứa nhỏ vẫn ở Vũng Tàu. Tôi thì đi đi, về về phụ giúp chồng trong việc kinh doanh và thăm con. Ba đứa nhỏ lớn dần theo năm tháng, vì bận rộn quá nhiều việc nên thời gian qua nhanh tôi không hề hay biết. Thể Dao vào trường mẫu giáo, Thể Quỳnh đi nhà trẻ ba giờ một ngày, để cháu quen với nếp sống chung của trẻ con. Hoàng tử Thái Dưưng của chúng tôi chạy cùng nhà, nói chuyện giỏi như két. Thằng bé càng lớn càng khôi ngô tuấn tú, khôn lanh, lém lĩnh. Tôi nghĩ, nếu gia đình tôi không có ba đứa nhỏ chắc là buồn lắm. Một hôm cả nhà ngồi trò chuyện với nhau, cô Hai tôi vọt miệng, nói:
– Thái Dương càng lớn cô càng thấy nó có nhiều điểm trên mặt giống con Thái Vân quá.
Đông ôm con vào lòng hôn lên trán nó, cười như nói với thằng bé:
– Như vậy nó giống mẹ, vì Thể Hà và Thái Vân dù không phải ruột thịt nhưng có những nét giống nhau. Nhưng con nè, tánh tình con phải giống ba, bởi ba là số một, phải không con?
Tôi hơi khựng, định cự cô tôi, nhưng cười vui ngay, bởi vợ chồng là người dưng nước lả, sống lâu ngày lại giống nhau về tánh tình không nói làm gì, thế mà nhân dạng dần dần cũng giống nhau nữa. Má chồng tôi nói:
– Lúc vợ thằng Đông có bầu Thái Dương, nó với con Thái Vân cãi cọ long trời lở đất, vì Thái Vân lấy đồ kỷ niệm của má nó. Nó ghét cay ghét đắng con Thái Vân, nên thằng nhỏ giống Thái Vân là phải rồi.
Cô Hai tôi cười, biểu đồng tình:
– Ờ, tôi quên đi mất. Đó là vấn đề tâm lý mà. Người ta thường nói, nếu lúc sản phụ mang thai mà ghét, hay thương ai quá thì đứa trẻ sẽ giống người đó. Cái con Thái Vân nầy thật tình hết nói nổi! Chỉ có nó mới dám làm những chuyện thần sầu quỷ khốc, thương luân bại lý như vậy mà thôi. Ai đời, thằng em tui và con Thể Hà thương lo cho nó như vậy, mà nó lại trả ơn người ta bằng cách đó. Thật cái thứ mắc toi, mắc dịch đâu không hà.
Đông cười lớn:
– Vậy là Thể Hà đâu có thương chồng, nên Thái Dương không giống con…
Tôi thọc lét Đông, ra dấu yên lặng, vì tôi biết cô Hai vốn không ưa Thái Vân, ngay từ lúc ba tôi nhận nó làm con nuôi. Mặc dù cô tôi không nói ra miệng, nhưng nếu nó có lỗi gì thì cô sẽ dựa vào đó mà háy nguýt, trề nhúng nó cho bỏ ghét. Hôm nay đã chạm đúng băng tầng của cô rồi, tôi chận lời:
– Cô sao mà nhớ và giận dai quá đi! Nó đã chuộc đồ trả lại cho cháu rồi mà. “Bần cùng sanh đạo tặc”. Thôi bỏ đi cô ơi. Chớ không phải nó bây giờ đã tốt với mình lắm sao? Mình phải nhìn nó ở khía cạnh tốt cho mình đỡ nghĩ ngợi và đương sự cũng đỡ áy náy chớ. Cô cũng thường dạy cháu là chuyện gì tha thứ được thì nên tha thứ. Mỹ đức của đời người là tha thứ mà cô.
Cô tôi vẫn còn hờn giận, nguýt tôi, nói tiếp:
– Cháu giống tánh ba cháu hệt khuôn. Người ta đi trên đầu trên cổ hai cha con bây, sau đó chỉ cần họ cho cả hai cục kẹo hay cái bánh bao trám miệng thì cả hai quên hết ráo!
Tôi cười lớn:
– “Con gái giống cha giàu ba họ”. Cháu cũng giống cô ở điểm đó vậy! Nhớ chú Bảy Nhỏ giúp việc cho cô, cứ mượn tiền lương trước để đi nhậu, hễ nhậu say là chú về hành vợ, đánh con. Biết được, cô hăm he chú mẻ răng, nào không cho mượn lương trước, nào cho nghỉ việc… Nhưng đến khi chú khúm núm than vợ yếu, con đau, nhà ngập nước, không tiền thang thuốc… thì cô cho mượn ngay. Khi cô sang nhà bảo sanh cho người khác, chú vẫn còn thiếu cô mấy tháng lương mượn trước sẽ làm việc sau đó.
Cô tôi cười xòa:
– Thì cô cũng nhẹ lòng, thấy vợ con chú nheo nhóc nên không nỡ xử gay gắt với chú đó thôi.
Thư của Xuân Hà cho biết, cô sẽ lên đường trở về thăm lại Việt Nam. Tin đột ngột nầy làm chúng tôi nửa mừng, nửa lo. Mừng vì bao năm xa cách chúng tôi, nhứt là tôi, sẽ gặp lại một người vừa là bạn thân vừa là kẻ thân tình của chồng. Lo vì tình hình đất nước đang lúc rối ren. Đông hiểu ý, nheo mắt khều nhẹ tôi:
– Làm gì thừ người ra vậy? Bộ không mừng bà mai về thăm sao, bà chủ Đông?
Mỗi khi muốn ghẹo lại chàng trong câu chuyện gì đó dính líu đến việc làm ăn, tôi thường đặt thêm hai chữ trước tên hãng:
– Bà chủ hãng nhập cảng hiệu con Dế Nhũi Đông Nhựt đấy à, thưa ông chủ Đông?
Anh cười trừ, biết mình đã chạm đến băng tầng chọc quê của vợ rồi.
Ngày tháng trôi qua theo sự hờ hững của dân đô thị. Nào ai có thể ngờ dân miền Nam đang đứng bên bờ vực thẳm, bởi miền Nam tự do sụp đổ đã gần kề