← Quay lại trang sách

Chương 24

Đông ra Vũng Tàu đón gia đình về Sài Gòn cả tuần lễ trước ngày Xuân Hà trở lại thăm quê hương tròn một tháng.

Ra đón Xuân Hà ở phi trường Tân Sơn Nhứt, gồm có: vợ chồng tôi, má và anh chị của anh Hưng (vị hôn phu quá cố của Xuân Hà).

Theo làn sóng người của chuyến bay từ ngoại quốc về, Xuân Hà từ cửa đi ra trước cặp mắt náo nức, mong, chờ, thương, nhớ… của tất cả những người có mặt hôm nay.

Xuân Hà vẫn vóc dáng ngày xưa, ốm, cao. Cô không trang điểm nhưng da vẫn mịn màng và trắng hồng. Qua bao nhiêu năm rồi, cô vẫn còn phong thái đài các và trẻ đẹp hơn xưa, đẹp như tài tử nữ đóng vai chánh trong phim “Nữ Hoàng Sầu Mộng” của Nhật, mà khi còn học chung hai đứa có dịp đi xem. Xuân Hà mặc áo tay dài phùng, màu cà-phê sữa nhạt, có cài cái nơ ở cổ, quần màu sô-cô-lát, giầy đen, xách tay đen quai dài, máng trên vai. Tóc cô búi lưng chừng giữa ót và đỉnh đầu. Cô mang tròng kiếng màu nâu sậm, rộng lớn, đen. Cô giở kiếng ôm choàng vai má anh Hưng gọi nhỏ: “Con về thăm má”. Bà già cảm động, nước mắt đoanh tròng, không nói được lời nào. Xuân Hà bắt tay anh chị của anh Hưng: “Thưa anh chị khỏe”.

Cô nhìn Đông cười, mắt long lanh dòng lệ: “Anh ốm hơn trước! Bộ việc làm ăn vất vả lắm sao?”. Tôi và Xuân Hà nhìn nhau rưng rưng nước mắt. Xuân Hà lên tiếng trước: “Chị không khác xưa! Còn mặn mà hơn…”. Tôi cười nhẹ: “Chữa nghén sanh đẻ đã ba lần rồi, không khác sao được cô…”. Qua phút cảm động, Đông mời:

– Thưa bác, thưa anh chị, giờ chúng ta đi lấy hành lý cho Xuân Hà. Sau đó xin mời bác và anh chị đến nhà chúng tôi dùng bữa cơm thân mật đón tiếp Xuân Hà.

Chị của anh Hưng hơi khựng:

– Chúng tôi định mời tất cả hôm nay đến nhà hàng Đồng Khánh, để Xuân Hà thưởng thức lại những món xưa, và cũng lâu rồi chúng ta chưa có dịp để ăn chung như trước.

Tôi cười, trả lời thay chồng:

– Thưa bác, thưa anh chị, má chồng cháu và cô Hai cháu có nhã ý mời, nhưng muốn đem sự ngạc nhiên cho mọi người nên không báo trước. Vì thế, hai bà hôm nay không đón cô Xuân Hà là ở nhà làm tổng khậu, nên xin bác và anh chị nhận cho. Vả lại Xuân Hà còn ở cả tháng, chúng ta còn rất nhiều thì giờ riêng rẽ với cô. Có phải không Xuân Hà?

Xuân Hà chớp chớp mắt cảm động, không trả lời tôi mà nói:

– Thưa má, ba có khỏe không?

Má anh Hưng lau khô dòng lệ, bà xúc động:

– Cảm ơn con. Lúc nào con cũng xem má ba như lúc thằng Hưng còn sanh thời. Ba con đi công tác ở Hậu Giang, cuối tuần ổng mới về. Nếu không thì ổng cũng đi rước con rồi, đời nào ổng chịu ở nhà.

Xuân Hà cười buồn:

– Cảm ơn má ba và anh chị vẫn xem con như con dâu như thuở nào. Hôm nay là thứ năm, sáng thứ bảy con sẽ về bên nhà, và ở lại sống với gia đình mấy ngày.

Má và anh chị chồng của Xuân Hà lộ vui vẻ ngay trên nét mặt. Tôi hợi ghen tị! Đông hiểu ý, bóp nhẹ tay tôi ngầm bảo phải giữ gìn ý tứ. Mọi người hân hoan vừa đi vừa nói chuyện. Tôi khều Đông nói nhỏ: “Chút nữa anh lái xe một mình, em đi theo xe có Xuân Hà nghen”. Đông lắc đầu cười: “Nó có đi mất đâu, mà em phải theo giữ sát vậy? Coi bộ có Xuân Hà em không thèm đếm xỉa tới anh nữa”. Tôi cười khúc khích: “Bộ anh ghen hả?”. Sợ có người nghe, tôi nhéo tay Đông rồi qua đi gần bên Xuân Hà với anh chị và má chồng của cô.

Mấy hôm rày tôi thắt thẻo trông ngóng Xuân Hà về. Vì cô qua bên đó đã ba hôm rồi. Đông dặn tôi:

– Em không được gọi điện thoại qua bên đó. Đừng hối thúc Xuân Hà về nghe chưa.

Tôi cộc lốc:

– Tại sao vậy?

– Người ta có thương, có quý Xuân Hà mới giữ nó ở lại chơi lâu. Làm gì em nôn nóng dữ vậy? Anh đi công tác em có thắt thẻo chờ mong anh như chờ Xuân Hà không?

Tôi liếc chàng, cười cười và càm ràm:

– Sao lại không. Nhưng chờ đợi anh ở trạng thái khác, chờ đợi Xuân Hà ở trạng thái khác. Người ta mới về thì bị họ bắt sát bên đó. Bộ bên đây không biết nhớ nhung cổ hay sao? Thiệt là thấy ghét quá chừng đi thôi.

Hình như lâu lắm rồi, kể từ khi tôi có đứa con đầu lòng, hôm nay tôi giao hết mọi việc lo cho mấy đứa lại má chồng và cô Hai tôi, để được thong thả đi chơi riêng rẽ như thời con gái với cô bạn thân, cũng là cô em chồng ở xa mới về. Trước khi rời nhà, tôi phải nhín thời giờ để diện một chút cho mặn mà và ra vẻ Đông Nhựt phu nhân chớ. Dù gì phu quân tôi cũng là chủ hãng xuất nhập cảng chớ bộ. Để phèn quá coi sao được. Hàng ngày tôi muốn diện đẹp cũng không ai ngăn cấm. Nhưng tôi cứ bận rộn với mấy đứa nhỏ thì đâu còn giờ giấc cho riêng mình nữa?

Tôi mặc bộ đồ dài, cả quần lẫn áo bằng gấm Thượng Hải màu kem. Tóc tóm gọn kẹp lại bằng hai cây kẹp móc lá hẹ màu tím đen hai bên thái dương. Tóc còn lại, tôi chải về phía sau, xõa bồng xuống vai như thuở còn đi học. Tôi mang giầy đen, xách tay đen, kính mát đen do Xuân Hà tặng trong chuyến nầy. Má chồng tôi buột miệng:

– Vợ thằng Đông diện như vậy nên khi nó ra đường đố ai biết nó đã có ba đứa con? Họ tưởng nó còn là sinh viên. Còn Xuân Hà đã bao năm qua rồi vẫn không thay đổi, lại còn mặn mà hơn nữa.

Cô Hai cũng phụ họa:

– Chị thấy không? Bọn mình già chớ mấy đứa nầy không già. Bao nhiêu năm rồi chúng nó vẫn đẹp như xưa. Hai đứa hôm nay định đi đâu mà diện đẹp vậy?

Đông từ trên cầu thang đi xuống, tay nầy cài nút áo bên tay kia. Xuân Hà líu lo:

– Hôm nay cháu rủ chị Thể Hà đi thăm một vài nơi trong thành phố. Anh Đông à, em mượn chị Thể Hà ít bữa nghen. Chúng em đi chơi riêng, để tìm hương vị thời chưa vào đời.

Đông làm bộ nhăn mặt:

– Còn anh, bộ anh già lắm sao? Anh thừa rồi à?

Tôi cười khúc khích:

– Anh hả? Anh không già cũng không trẻ, nhưng anh là “liền ông”! Anh ra rìa lâu rồi, phải ở nhà với mấy đứa nhỏ làm “mít-tờ-mom”.

Từ sau ngày kết hôn với Đông, tôi có thêm nghề tài xế. Bình thường khi lái xe, ít khi tôi hạ mui xuống. Còn Xuân Hà mỗi khi lái xe đều thích hạ mui nhứt là chạy quanh trong thành phố để nhìn thiên hạ sự! Tôi nhờ Đông ra hạ mui để Xuân Hà lái xe hôm nay. Xuân Hà nói:

– Thôi, anh Đông đừng hạ mui. Để chị lái xe, lâu rồi em không lái xe ở đây, thấy người băng qua chạy lại ngại quá. Ở bên đó, xe em không hạ mui được, đi riết quen rồi, nên bây giờ em không thích lái xe để mui trần nữa.

Tôi nhìn Xuân Hà, tôi nhận thấy tánh tình cô đã thay đổi nhiều, cô ít nói, chín chắn, vui hạn chế trong nụ cười nửa miệng. Tôi thầm thương cho Xuân Hà, dù sao nỗi buồn vì cái chết của hôn phu đến nay vẫn còn đậm nét trong tâm hồn cô.

Thể theo lời dạy của Xuân Hà, nơi đầu tiên chúng tôi đến là nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi để thăm mộ anh Hưng, vị hôn phu quá cố của cô.

Dưới ánh nắng rực rỡ chói chang của buổi sáng mùa hè, chúng tôi len lỏi đi qua những ngôi mộ mới được kiến trúc tân thời. Rải rác đó đây những ngôi cổ mộ uy nghiêm nằm dưới những tàng cây cao tỏa rộng bóng mát.

Xuân Hà hôm nay mặc toàn màu tím than cả quần lẫn áo dài. Tóc cô búi cao, chiếc khăn choàng bằng voan đen trùm cả tóc và đôi vòng quấn quanh cổ. Làn gió phe phẩy làm tốc đuôi chiếc khăn để lộ cổ trắng ngần. Khuôn mặt cô thanh tú, cộng vào nước da trắng hồng, cách nói chuyện thỉnh thoảng điểm nụ cười nhẹ trên môi, nhưng không làm sao giấu được nỗi buồn trong đôi mắt cô. Cô mang ví màu đen quai dài, giày đen, kính mắt đen. Những màu tím than, màu đen ấy làm cô nổi bật dưới vòm trời trong, giữa những nấm mộ sơn trắng. Cặp mắt lóng lánh màn lệ mỏng, đôi bờ vai gầy run run đó, tạo cho cô nét đài trang ẩn tiềm nỗi buồn sâu sắc dễ làm xao xuyến lòng người bất chợt nhìn thấy.

Tôi đặt bó hoa huệ trắng thoang thoảng hương dựa vào mộ bia, nhẹ xá xá rồi lặng lẽ đứng sang một bên. Xuân Hà đốt nén nhang trước mộ hôn phu. Cô cúi đầu xá. Bỗng ngọn gió mát từ đâu vụt lùa qua, mặt trời lẫn trong đám mây trắng dầy dặc. Ánh sáng bị mây che trở nên nhạt nhòa. Một vài chiếc lá vàng, lao chao theo chiều gió trước khi rớt nằm im trên những nấm mộ rải rác bên đường Tôi lạnh người, tưởng chừng như hồn thiêng của anh Hưng lãng vãng đâu đây!

Xuân Hà và tôi cho xe đi về hướng cầu Bình Lợi. Chúng tôi dừng xe bên lề đường, rảo mắt tìm kiếm lại những dấu vết ngày xưa! Vườn Phượng Hoàng của Ngô Đình Lệ Thủy. Hai hồ nước vẫn xanh biêng biếc, nhưng màu xanh lợn cợn rong rêu. Bờ hồ trồng toàn là khóm, bụi nầy kế tiếp bụi kia, nên trên máy bay nhìn xuống thấy đôi mắt phượng đẹp mơ màng. Bây giờ là vườn trống nhà hoang, cảnh vật hoang vắng tiêu điều, lá hoa tan tác. Vách đá rêu phong, lối đầy cỏ dại mọc tràn lan. Xuân Hà xúc cảnh sanh tình lẩm bẩm mấy câu thơ của bà Huyện Thanh Quan: “Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo. Nền cũ lâu đài bóng tịch dương”. Tôi thở dài ngao ngán! Một Ngô Đình Lệ Thủy đó. Tuổi thanh xuân mộng mơ, đầy uy quyền và hương sắc. Một Xuân Hà đây, tiền tài danh vọng có thua kém ai đâu! Mỗi người có mỗi hoàn cảnh và mỗi thế giới riêng.

Tiện đường, chúng tôi đi luôn lên Lái Thiêu mua trái dâu và nem đem về nhà. Dâu lái Thiêu chín ngã màu cà-phê sữa lợt, đặc biệt là chùm dâu nặng đơm nhiều trái, trái dâu to, đều đặn, ngọt thanh tao, ăn trái nầy rồi muốn ăn trái nữa, ăn một hồi thì miệng chua lè, chua lét. Người dân ở đây hiền lành, vừa bán vừa tặng nhứt là những chủ vườn dâu rất hiếu khách và lương thiện. Họ không cân thiếu và hay độn dâu úng, dâu chua dưới đáy giỏ như một vài bạn hàng bán sạp trái cây ở chợ Bến Thành. Nem lái Thiêu thì khỏi chê vào đâu được, cho dù gặp người khó tánh đi nữa. Chiếc nem mỏng vỏ, ruột nem trong, dai, dòn. Để vào miệng cắn một miếng chúng ta nghe phảng phất mùi thơm của tỏi, cay của hột tiêu sọ, nhứt là vị chua vừa miệng, không chua áy. Cho nên tôi thích nem Lái Thiêu, dù tôi vẫn ưa nem Nha Mân và nem Cai Lậy. Vì thế, mỗi lần có dịp qua những vùng nầy chúng tôi luôn mua nem đem về nhà ăn liền và mua nem mới làm, chưa được chua, để dành được thêm mấy ngày sau. Dâu và nem là đặc sản của Lái Thiêu, ít có nơi nào sánh bằng.

Má chồng tôi thường làm món nầy món nọ đãi cô cháu chồng. Nhưng Xuân Hà thích ăn những món phổ thông như món canh chua cá bông lau, canh khoai mỡ nấu với tôm, cá bống trứng kho tiêu, cá trê vàng, cá he nghệ cặp gắp nướng, cá rô, cá lóc muối sả ớt chiên dòn… Chúng tôi đi ăn hột vịt lộn úp mề, khô mực nướng, khô cá đuối nướng đập nhuyễn chấm tương cay, bánh cống, me ngào đường với tép mở, bánh bèo nhưn đậu xanh chan nước cốt dừa, chuối chưng, chuối xào dừa, khoai từ nấu, bắp tím (bắp Ban Mê Thuột)… Chúng tôi đi chơi đã đời. Gặp trời nắng, nóng, mồ hôi giọt ngắn, giọt dài, dừng lại xe nước bên lề đường gọi ly nước mía, hay ly nước đá chanh muối… Thật tuyệt. Chúng tôi ăn hàng mê man tàng tịch, sa đà, bỏ cả cơm nước. Xuân Hà kể lể:

– Ở bên Mỹ, gần như thứ gì cũng có, nhưng mấy món bình dân chúng mình ưa ăn, đốt đuốc đỏ trời tìm không ra.

Tôi vô tư, hỏi:

– Vậy sao? Bộ bên đó có đuốc hả?

Xuân Hà cười ngất:

– Em nói dần lân ấy mà, chớ bên đó làm gì có đuốc để mà đốt.

Xuân Hà ngắm nghía tôi, nói:

– Chị gầy hơn lúc em đi, nhưng trông tươi mát. Chị đừng lo, gầy nầy là gầy thơ, gầy mộng, như liễu, như mai đó mà.

Tôi phàn nàn:

– Con Thái Vân thường chê tôi ốm o so bại. Khi đứng thì cóm róm như con chồn đứng hai chân!

Xuân Hà cười ngã cười nghiêng. Tôi cũng cười theo. Xuân Hà nói:

– Chị đừng để tâm đến cái bà tào lao Thái Vân hay nói tầm xàm bá láp đó. Qua mấy tấm hình bả gởi cho em, em thấy dạo nầy bả phốp pháp mà sang lắm. Chồng bả thì cao ráo, bảnh trai, dễ nhìn. Hai người đứng chụp hình chung, thật là xứng đào, xứng kép. Chồng bà ấy vừa được lãnh tiền cựu công chức, vừa làm chủ một cửa tiệm “7 Eleven”. Bả thì sau việc đưa rước cho mấy đứa nhỏ đến trường xong, thì ra phụ chồng trông nom cửa tiệm. Nghe nói cuộc sống của bả bây giờ không những thoải mái mà còn khá giả lám chị ạ.

Tôi mừng thầm cho Thái Vân đã “hết cơn bỉ cực, tới hồi thới lai”.

Thường thì tôi về Vũng Tàu một mình.

Chuyến nầy, Đông cùng tôi về thăm hai bà già và mấy đứa nhỏ. Chiều nay, chúng tôi dắt nhau đi dạo bờ biển, ngắm hoàng hôn xuống. Lâu quá rồi, từ hồi kết hôn đến giờ, chúng tôi chưa có dịp đi thăm lại những cảnh thân ái của ngày xưa. Ôi, những ngày xưa thân thương mật ngọt.

Gió biển mát rười rượi. Trời trong. Mặt trời như cái mâm màu vàng cam ngã đỏ. Ánh nắng vàng, lóe màu hồng, tím… của buổi hoàng hôn trải trên nước biển trong xanh nổi sóng, nhấp nhô, dập dồn. Từng cụm mây trắng mỏng điểm nền trời ngọc xa-phia trên đỉnh đầu, di chuyển theo hướng gió, tạo thành những hình tượng theo từng cảm nghĩ và tâm tưởng của mình. Quanh phía mặt trời thì mây được nhuộm pha những sắc màu rực rỡ cho dù một họa sĩ tài ba đến đâu cũng không làm sao tạo được những màu sắc cho nét vẽ của mình như màu sắc thiên nhiên. Lờ lững lưng trời đàn hải âu nhàn hạ, chập chờn bay lượn. Tôi và Đông yên lặng, mỗi người theo đuổi ý nghĩ riêng của mình. Vì công chuyện làm ăn của chồng, vì các con… tất cả cho cuộc sống hằng ngày, làm cho cô nàng Thể Hà mềm mỏng, vô tư, yêu đời, mộng mơ… của thuở nào đã biến thành bà Đông tối ngày cứ tính toán: lời, lỗ, xuất, nhập, tồn… Thật là mệt cầm canh! Ôi, thời thơ, thời mộng đã chấp cánh bay xa khỏi đời tôi rồi. Nhưng bù vào đó tôi được hưởng niềm vui và hạnh phúc của gia đình bên chồng con. Tôi cũng thầm hãnh diện đã giúp chồng được nhiều việc trong những chuyện làm ăn của chàng.

Bỗng Đông choàng tay siết vai tôi, hỏi:

– Em đang nghĩ gì mà có vẻ xuất thần như vậy?

Tôi ngả đầu vào vai chồng:

– Em đang nghĩ, tại anh mà em không còn là Thể Hà liễu yếu đào thơ, nhiều mơ mộng của thuở ngày xưa nữa. Bây giờ em là bà chủ hãng nhập cảng hiệu “Con Dế Nhũi” rồi, lúc nào cũng ngồi trước sổ sách dầy cộm li chi những con số. Thật là mệt quá đi!

Đỏng cười, chép miệng:

– Thật sự, anh cũng không toại cảnh sống hiện tại. Mặc dù chúng ta có tiền. Thói thường, có tiền thì có được nhiều thứ. Nhưng tiền không phải là vạn năng, tiền không phải mua được tất cả. Lúc còn là sinh viên, anh mơ sau nầy thành một công chức. Hết giờ làm việc về với gia đỉnh có mẹ cha, vợ, con cái sum họp trong bữa cơm chiều là niềm hạnh phúc lớn. Vậy là đủ cho kiếp con người rồi, anh không đòi hỏi gì cao xa. Em có mơ như vậy không? Nhưng cuộc đời cùng nghiệp lực và thời cuộc đưa đẩy, anh trở thành một người buôn bán, tính toán.

Tôi cười nhìn Đông:

– Em đâu có thời giờ mơ mộng như anh. Lúc chưa gặp anh, em ít khi nghĩ ngợi chuyện nầy chuyện kia cho tương lai mình lắm. Em đi học thì cố gắng học cho thi đậu. Khi đi làm thì lãnh tiền về thích thứ gì thì sắm. Muốn đi chơi đâu thì đi. Em nhớ ba chưa bao giờ hỏi han đến tiền bạc em làm ra hay rầy la em trong tiêu xài ở việc nầy việc kia. Em cũng không quen với người thanh niên nào và có tình cảm sâu đậm với họ. Em cũng chưa hề vẽ trong đầu mình một người yêu hay người chồng lý tưởng ra sao. Có lẽ vì cuộc sống em quá đầy đủ về vật chất cũng như về tinh thần. Mặc dù mẹ em qua đời từ khi em còn quá nhỏ, nhung ba lo cho em cũng không thua một người mẹ đâu. Sống trong hạnh phúc như vậy, nên em không có môi trường thích hợp để nghĩ, hoặc ước mơ những chuyện vu vơ khác.

Đông lắng nghe. Tôi bùi ngùi và lí lắc nhìn chồng cười, nói tiếp:

– Em đơn giản lắm. Cái gì mình cho là đủ thì đủ. Ít khi em so sánh, hoặc đòi hỏi những gì ngoài tầm tay mình. Anh nghĩ xem, đời người ngắn ngủi, sao không chấp nhận những gì mình hiện có? Tại sao phải nghĩ ngợi, đòi hỏi những chuyện quàng xiêng cho thêm phiền, phải không? Đàn ông các anh thì khác, hoài bão các anh bao la rộng lớn hơn, cuộc sống các anh phóng khoáng hơn. Đời cũng bất công lắm. Phụ nữ chúng em chỉ có một người bạn trai thôi thì bị gia đình cấm đoán, thiên hạ xì xào. Miệng đời dễ sợ, khó lường! Còn phái nam các anh, một người cùng lúc có năm ba tình nhân để lựa chọn, thì việc đó hết sức bình thường! Chẳng hạn như anh chàng Đông của tôi đây cũng “rứa!”.

Đông cười thành tiếng:

– Lại lôi thôi nữa rồi, anh thì sao? Có năm ba cô một lúc hồi nào? Chỉ có một cô đây thôi, mà anh đã thất điên bát đảo, mệt cầm hơi. Nhiều cô chắc anh chết mất lâu rồi!

Thiên hạ sự! Bao nhiêu thăng trầm, thay đổi, ở bên ngoài cái gia đình bé nhỏ của tôi. Chúng tôi có ba đứa con. Xuân Hà sau chuyến về thăm lại quê hương thời gian ngắn ngủi đó, cô trở qua Mỹ và quyết định kết hôn với anh Nghiêm, người bạn trai Việt Nam, cũng là du học sinh cùng trường với cô. Xuân Hà được chồng thương yêu chiều chuộng, cô hạnh phúc lắm. Nhưng hình ảnh anh Hưng không thể nào nhạt nhòa trong tâm tưởng của cô. Chồng cô biết rõ điều đó, nhưng dượng ấy vẫn một lòng thương yêu cô rất mực.

Thái Vân có được thằng con trai đã hai tuổi. Trong tấm ảnh gởi về, thằng nhỏ giống Tom chồng nó như tạc. Và nó đang có mang đứa thứ hai. Âu cũng là duyên số! Tôi rất mừng và thường thì thầm mỗi khi nhớ đến ba tôi: “Ba à, chắc ba mãn nguyện lắm, bởi những gì ba mong ở Thái Vân khi nhận nó làm con nuôi, nay ba đã được ròi. Bây giờ Thái Vân có gia đình riêng, rất hạnh phúc bên chồng con…”. Nó viết thư về thăm chúng tôi, trong đó có những lời kể lể tâm sự sau khi xem xong thư nó, làm tôi xúc động chảy nước mắt:

“… Thể Hà à, tao nhớ tất cả những người lớn trong gia đình mầy, và tao nhớ mấy đứa nhỏ mầy nhiều lắm. Tao nhớ ba, nhớ những ngày mình còn đi học ở Cần Thơ. Sao mà thuở đó vui và thơ mộng quá phải không mậy?…

Tao nhớ xe bán quà vặt của vợ chồng ông già Tàu ở góc đường gần bên hông trường Phan Thanh Giản gần Cầu Cả Đài. Ổng bán hầm-bà-lằn-xắn-cấu nào là bánh, kẹo, xí mụi, hột dưa, khô bò, ngon nhứt là món mực nướng liền tại chỗ và xay nhừ chấm với tương ớt, dưa chua. Chùm ruột, xoài, cốc, ổi… Mỗi thứ trái cây sống được ông gọt sạch sẽ, cắt ra từng miếng gần bằng nhau, mỗi thứ được ngâm cam thảo màu vàng trong mỗi chậu bằng kiếng. Giờ chơi, chúng mình lẻn chung lỗ chó ra mua miếng xoài hay miếng ổi, thì ông gắp ra, lấy cây ghim vào và phết muối ớt lên. Cho đến bây giờ tao còn cảm nhận được mùi nồng cay của ớt và khi bỏ vào miệng cắn thì hương vị chua chua, ngọt ngọt, dòn dòn. Mình vừa ăn vừa hít hà vì cay, vậy mà ngon ơi là ngon! Mầy có còn nhớ hay không Thể Hà? Có khi mình đang ăn ngon lành thì trống gọi vào lớp vang lên. Bọn mình vừa ăn vừa chạy cong đuôi, nuốt muốn trợn trắng. Vậy cũng chẳng chừa, cứ mỗi lần trống ra chơi là bọn học trò vây quanh ông ba Tàu bán quà vật đó.

Ở dây tao có đầy đủ mọi thứ, được hạnh phúc bên chồng con. Nhưng những hương vị bình thường đó làm tao thật ấm lòng mỗi lần nhớ về mầy, nhớ về quê cũ xa tít mờ xa…

Phong cảnh ở vùng chúng tao đang cư ngụ cũng đẹp lẩm, mặc dù có khác biệt với quê hương mình, nhưng đôi lúc cũng làm tâm hồn tao xao xuyến, bâng khuâng. Tao suy tư, khi ngồi bên lò sưởi nghe lửa reo lách tách, nhìn ngoài trời tuyết rơi lác đác, gió rét lạnh lùng. Đôi khi nhìn mặt nước hồ xanh biếc, lặng yên ở cạnh nhà tao. Lá cây vàng rụng ngập lối đi, gió chớm thu hắt hiu lành lạnh, trời giăng mây xám, mưa phai phái rơi rỉ rả ngày nầy qua ngày kia… Thể Hà ơi, tao xúc cảnh sanh tình, viết ra những câu thơ, gởi về mầy đọc cho vui và xin đừng cười ngạo tao làm thơ con cóc nhen mậy.

Thái Vân

TB: Ờ, mầy có kể cho tao nghe ở bức thư trước, mầy đưa ả Xuân Hà đi Lái Thiêu mua trái cây. Tụi bây đi Lái Thiêu sao không lên Búng? Búng có mấy hàng quán bán bánh bèo nhưn tôm, bánh bèo bì ngon nhức nhối. Bì gói ở Búng không thua bì gói ở Trung Lương. Cảm ơn mầy gởi cho tao một ký bột gạo, gói da heo khô.”

CHIỀU THỨ BẢY

………………………….

Chiều thứ bảy mưa rơi anh không đến

Băng đá kia trơ trẽn đợi chờ ai

Nơi công viên không buồn đón gót hài

Ai đưa về, ai vẫy tay lưu luyến?

Chiều Thứ bảy mưa rơi anh không đến

Em cả ngày chủ nhật biếng nói cười

Buồn bâng quơ trỉu nặng tuổi đôi mươi

Cầu xin Chúa, không mưa chiều thứ bảy.

………………………….

GA CHIỀU

Anh những tưởng trái tim em hóa đá?

Và bên trong chứa đựng rất nhiều ngăn

Để mỗi khi tình dang dở không thành

Nhẹ nhàng nhặt bỏ vào từng ngăn nhỏ.

Em đã gặp anh trong thành phố đó

Chung chuyến tàu, vượt quãng lộ trình xa

Sau rặng cây chênh chếch bóng chiều tà

Màn đen xuống, đêm về sương ướt lạnh

Đêm ngoại ô đặc dầy buôn cô quạnh

Tàu thét gào nhả khói, bánh lăn nhanh

Anh đến cho em với tấm lòng thành?

Trên boong nhỏ đìu hiu cơn gió lộng

Ai bảo nơi đây không tình thơ mộng?

Không hẹn hò, không những buổi đón đưa?

Chiều hôm nay trên ga nhỏ ngày xưa

Em đơn độc trong đoàn người đổ bến.

Dù biết rằng đã xa thời hò hẹn

Thời vàng son ngọt mật đượm trên môi

Kể cho nhau những mẫu chuyện buồn vui

Mưa rớt lạnh vai gầy, lòng vẫn ấm.

Có phải chăng tình yêu là ảo ảnh?

Em như chim đơn lẻ giữa hoàng hôn

Gặp cơn dông cuồn cuộn đến dập dờn

Chim có vững bay trong chiều lộng gió?

Em nghĩ mình chỉ là con thỏ nhỏ

Trong rừng già muôn vạn lối đi hoang

Con cá mè quanh quẩn ở ao làng

Con vịt, giữa bầy thiên nga tuyệt sắc.

Nên anh đã đem tình em dập tắt

Giữa muôn ngàn sắc thái thật nên thơ

Giữa cuộc đời son trẻ tuổi mộng mơ

Nên hờ hững vẫy tay, không lưu luyến.

Nay tất cả chỉ còn là kỷ niệm

Em rưng rưng tìm chốn cũ hẹn hò

Vì tình yêu đâu phải dễ xóa nhòa

Mối gút mắc đầu đời em trót cột.

Em ngu dại mới tin lời thề thốt

Đối với anh tình lỡ dễ dàng phai

Hàng cây xưa, băng ghế đá còn đây

Nơi ga nhỏ, con tàu rời xa bến!

Đọc xong mấy bài thơ, tôi cảm thấy vừa buồn vừa thương nhớ Thái Vân quá! Và tôi cũng biết chắc rằng nó vẫn còn yêu và nhớ về người xưa! Mặc dù hắn ta đã gây biết bao đau khổ cho nó, bóp chết tuổi thanh xuân của nó, nhưng nó vẫn yêu, vì dù sao cũng là mối tình đầu của nó mà. Tôi thở dài ngao ngán. Đông không nói gì, mặt chàng tư lự, rót ly nước uống cho anh, và một ly bưng lại cho tôi. Má chồng tôi cũng thở dài, nói:

– Tội nghiệp cho con Thái Vân, nhưng từ rày về sau nó sẽ được Ơn Trên ban cho nhiều hạnh phúc bên chồng con, nhứt là khi nhìn thấy con cái nó trưởng thành và nên người.

Cô Hai tôi trước sau vẫn vậy, trề miệng:

– Cô không tin con quỉ đó làm thơ được như vậy. Chắc là nó chép của ai rồi gởi về để đía xạo với bây đó. Con Thái Vân ghê gớm lắm! Nó mà biết làm thơ thì heo nái cũng biết leo cây!

Má chồng tôi chắc không nghe vì bà đã đi xuống nhà dưới. Đông cười phun nước trà ra ngoài. Tôi cũng cười đến sặc. Tôi nhăn mặt, càm ràm cô:

– Thành kiến của cô quá nặng đối với con Thái Vân rồi. Cho nên lúc nào trong mắt cô, dù nó có làm trăm việc tốt, việc phải cũng trở nên xấu, cũng trở thành sai. Nhớ năm con học cuối lớp đệ tứ, nó mới cuối năm lớp đệ lục. Ngày bãi trường trước bao nhiêu thầy cô, phụ huynh học sinh, đại diện cơ quan chánh quyền trong thành phố, học sinh của trường… nó đóng vai chánh làm bà Trưng Trắc oai phong lẫm liệt, cỡi voi đánh đuổi quân Tàu, trong vở kịch “Dòng Sông Hát”. Tiếng vỗ tay khen ngợi muốn vỡ hội trường. Lúc đó cô cũng khen lấy khen để. Hôm sau, cô còn đãi tụi con bữa bún nem nướng ở chợ nữa. Bộ cô quên rồi sao? Thái Vân viết chữ đẹp nè, làm văn hay nè, ăn nói hoạt bát nè, coi như thứ giải trí tao nhã nào nó cũng đều biết, mặc dầu không xuất sắc. Nó có nhiều tài lắm cô à! Theo lẽ thì nó có một mái ấm gia đình hạnh phúc lắm! Nhưng mỗi người đều có số cả, phải không cô? Thôi, cô đừng giận hờn nó nữa. Bây giờ nó cũng ở quá xa mình rồi. Ngày nào đó, nghe nó trở thành nhà thơ hay nhà văn, cháu không lấy làm lạ đâu.

Má chồng và cô Hai tôi tóc bạc trắng. Hai bà như hai chị em ruột, tối ngày quấn quít theo mấy đứa cháu. Những ngày rằm, mùng một thì cả hai đi lễ chùa, đi nghe thầy giảng kinh để tìm bóng mát cho tâm linh nơi cửa từ bi, và vui hạnh phúc của tuổi già bên con cháu.

Trên quê hương, giặc giã liên miên, việc làm ăn của Đông không được sung túc như xưa nữa, nhưng chàng không bỏ được vì đó là sản nghiệp để nuôi sống gia đình mà cha, chú chàng đã cực khổ chắt chiu gầy dựng…

Đông không còn gầy ốm như hồi mới cưới tôi. Anh khỏe mạnh và chững chạc hơn xưa. Ngoài những công việc rộn ràng ở sở, anh về nhà hưởng hạnh phúc với gia đình. Sau bữa cơm chiều, anh thường đùa giỡn với các con, phụ giúp tôi những việc lặt vặt khác như trồng hoa, tưới cây hay thay đổi vị trí những chậu kiểng trước sân nhà, vì để một chỗ lâu ngày trông cũng chán mắt. Má chồng tôi sung sướng nhìn hạnh phúc của con, đôi khi bà vui miệng nói:

– Thằng này từ khi cưới vợ đến giờ mới chịu ở nhà. Hồi trước nó lúc nào cũng như con lật đật, không ở yên đâu một chỗ. Việc làm ăn ở sở, đi công tác ở các nơi, qua nhà Xuân Hà, tiệc tùng, nhậu nhẹt xã giao… Đêm nào cũng khuya lơ mới về, có bữa còn say mèm nữa.

Anh cười cười, nheo mắt với bà già:

– Tại má cưới cho con cô vợ dữ quá, nên không dám đi đâu hết. Con mà đi chơi khuya khi về nhà chỉ có nước phải ngủ ngoài sân đó.

Má chồng tôi cười hiền lành:

– Vậy thì phải cảm ơn má, đã kiếm được người cầm chân con.

Tôi nhìn chồng cười:

– Má ơi, đừng nghe ảnh. Ảnh nói ngoài miệng ngọt lắm, nhưng trong lòng ảnh nghĩ gì thì ai mà biết?

Đông cười tồ tồ rung vai:

– Em mà không biết anh, thì ai biết đây, cô Ba?

Tôi bây giờ đã làm vợ người ta rồi, nhưng vẫn giữ tánh nào tật nấy, vẫn hầm hừ, trả treo, giận hờn Đông nhiều khi cũng hơi vô lý một chút! Còn cô Hai và cả má chồng, đôi khi tôi cũng giận ngầm họ, trề nhúng sau lưng họ chớ không dám lộ liễu. Tôi không phải ghét bỏ chi bà già chồng và cô Hai tôi. Tôi biết hai bà yêu thương tôi còn nhiều hơn tôi kính yêu hai bà. Hai bà lúc nào cũng toa rập với nhau hiếp đáp Đông để ngầm binh vực tôi khi tôi với chàng cãi cọ, hoặc tôi làm điều gì có lỗi mà cố tình chối bay, chối biến. Tánh hư nầy, tôi đã tiêm nhiễm từ lúc ấu thời bởi ba tôi và do vú nuông chiều tôi quá quắt. Sau nầy lỗi cũng tại chồng tôi đầu độc, vì chàng cho rằng đó không phải là tánh xấu, cho nên tôi không sao biết sớm mà bỏ. Bây giờ nó đã thấm vào tận xương tủy tôi rồi, không bỏ được! Nhớ có nhiều lúc cô Hai tôi cằn nhằn chồng tôi:

– Đông, cháu phải cương quyết, đừng để con bò cạp cái nầy lộng hành, nó bướng bỉnh lắm, phải rầy, phải nói cho nó biết. Ông bà chúng ta thường nói: “dạy con dạy thuở còn thơ, dạy vợ dạy thuở ban sơ mới về”. Cháu phải tề, phải gọt mỏng nó mới được.

“Cái lưỡi không xương nhiều đường lắt léo, cái miệng không vành nó méo tứ tung”. Tôi méo miệng, trề môi, cự cô liền:

– Trễ rồi cô ơi! Chừng nào cháu bị ảnh đánh bình bịch, chửi rủa ầm ỉ dậy làng dậy sớm, như ông Tám xích lô máy đánh vợ ở xóm cô khi xưa đó hả? Ai đời cháu mình không binh, còn xúi cháu rể rầy la cháu ruột nữa! Cô xem, cháu có làm gì bậy đâu? Cháu chỉ mua chiếc nhẫn cẩn hột xoàn nhỏ xíu, có tám ngàn đồng hà, tại cháu thích mà. Cô xúi ảnh xài xể cháu, hay đánh cháu cho cháu khóc hu hu cô mới vui sao? Cô coi, cháu hàng ngày làm việc cho ảnh, tới tháng cháu có được trả xu lương nào không? Tuổi thanh xuân mộng mơ của cháu vì ảnh mà rách rưới teng beng hết rồi! Cháu còn sanh cho ảnh hai công chúa, một hoàng tử nữa. Cô lúc nào cũng binh ảnh để ăn hiếp cháu. Mấy tuần trước cũng vậy, con nhỏ ở nghỉ, cháu đã làm việc trong sở rồi, cô còn bắt cháu làm việc nhà muốn chết, cháu chưa tính sổ với cô đó.

Cô tôi bật cười thành tiếng:

– Tám ngàn đồng thời buổi nầy bộ ít lắm hả? Đổi được bốn lượng vàng lá Kim Thành đó.

Không ngăn được, cô tôi cười già:

– Bộ bây điên hả? Con nhỏ giúp việc nghỉ, ở nhà nầy lúc đó ai không làm? Má chồng bây, cô cũng làm phờ phạc vậy!

Tôi chẫu mỏ:

– Nhưng cô khôn lắm, cô thì làm việc nhẹ, để cháu làm việc nặng!

Má chồng tôi nghe hai cô cháu cãi, bà cười ngất. Còn cô tôi mở to mắt:

– Trời đất! Bả giữ mấy đứa nhỏ, đưa rước đi học bị chúng nó quậy mệt đừ người… Cô thì đi chợ nấu ăn, dọn dẹp nhà cửa… Bây chỉ giặt đồ thôi, quần áo phơi khô còn có người đem vô, xếp phụ nữa, mà nói nặng? Vậy lần tới cô sẽ đổi việc cho bây.

Tôi kênh mặt, xua tay với cô:

– Không đổi! Không đổi! Nhưng không có lần tới đâu.

Đông cười, ôm vai hôn phớt lên má tôi, nói nhỏ:

– Thôi đủ rồi. Nói vậy mà nghe được? Mắc cỡ quá đi, cô Ba ơi! Lúc nào cô cũng bướng và ngang như cua!

Tình hình đất nước rối ren. Một số tỉnh ở MiềnTrung bỏ ngỏ. Đơn vị quân sự dời đi vào hướng Nam. Lòng dân xôn xao, hoang mang, rối loạn. Miền Tây tương đối đỡ hơn. Quốc Lộ Bốn chỉ bị giặc đánh phá lẻ tẻ: gài mìn, đấp mô, chọi lựu đạn vào đám đông… Nhưng dân chúng vẫn buôn bán, làm ăn… Họ chở hoa quả, gà vịt, cá tôm cung cấp cho thành phố Sài Gòn. Và Sài Gòn vẫn là nơi phồn hoa đô hội, ngựa xe như nước, áo quần như nêm, mặc dù trên khuôn mặt của những người ưu tư về thời cuộc, trán họ đậm thêm nhiều nếp nhăn.

Tin tức tuyên truyền thâm độc để rúng động lòng binh sĩ, xao xuyến hỗn loạn lòng dân của giặc, loan đi nhanh “Sài Gòn sẽ thất thủ nay mai”. Người dân Sàigòn có tiền ùn ùn kéo nhau đi mua gạo, mua đồ ăn khô, mua dầu hôi… dự trữ trong nhà, phòng khi tình hình rối ren, có sẵn để mà sống tạm. Một số người chạy đôn chạy đáo tìm đường ra đi. Một số người đưa những người lớn tuổi trong gia đình và trẻ con về quê để tránh pháo kích của giặc, tránh làn tên mũi đạn vô tình không có mắt. Lòng dân chúng ở thành phố Sài Gòn bắt đầu xôn xao, bất ổn.

Cho đến bây giờ tôi mới biết, tại sao chồng tôi đưa gia đình ra Vũng Tàu ở tạm. Số là trước đó, anh Quân, bạn thân của Đông đến thăm, gợi ý Đông nên đem gia đình rời quê hương. Nếu muốn rời Việt Nam, vào thời gian anh Quân đề nghị, gia đình chúng tôi ra đi sẽ không gặp khó khăn. Nhưng, Đông không bằng lòng và trả lời với anh Quân rằng: “Cảm ơn toa có ý tốt. Nhưng moa muốn ở lại chứng kiến vòng quay lịch sử…”

Ngày 23 tháng 4 năm 1975. Theo chỉ thị của chồng, tôi đi chuyến xe sớm nhứt từ Sài Gòn về Vũng Tàu để chuẩn bị mọi việc. Đông bận công ăn việc làm nên còn nấn ná ở lại. Nếu tình hình bất ổn, thì chàng sẽ tìm cách ra Vũng Tàu ngay.

Linh cảm cho tôi biết, chuyến ra Vũng Tàu lần nầy, chắc tôi không còn có cơ hội trở lại đây nữa? Tôi thu vào lòng hình ảnh từng nơi một trong ngôi nhà tràn đầy tình thương yêu và kỷ niệm. Phòng ăn nối liền với nhà bếp, phòng ngủ, chỗ các con tôi đùa giỡn. Cái xích đu ở sân sau. Hàng lu chứa nước mưa. Hai chậu mai chiếu thủy nằm sát hiên nhà bên phải. Cây chùm ruột ngọt kế hòn núi giả ở góc sân bên trái. Con đường trải đá, từ cổng trước vào là đà những nhánh liễu, thướt tha đong đưa theo chiều gió. Lá liễu xanh biêng biếc, ẻo lả rủ xuống… Tôi thở dài lặng lẽ bước đi, mà nghe lòng mình buồn vô hạn.

Đông đưa tôi ra bến xe đò. Gió sáng lành lạnh. Thành phố Sài Gòn còn sật sừ trong giấc ngủ. Đường vắng người, lẻ tẻ dăm ba bạn hàng đi đón hàng khuya. Họ quảy gióng gánh không, đi nhanh, khi ẩn khi hiện trong hàng bã đậu trên đường như bóng ma. Một vài chiếc xích lô máy chạy vụt qua rồi mất hút, khi tiếng động cơ còn ầm ầm xé không gian lúc nửa đêm gần sáng.

Chặng đường từ Sài Gòn ra Vũng Tàu thật nhiều cam go, chướng ngại. Những khoảng đường bị đứt, bởi các lỗ hổng lớn. Đó là chứng tích mìn giặc phá hoại còn để lại, mà quân dân ta chưa kịp sửa chữa, nên nước hai bên ruộng chảy qua cuồn cuộn. Vất vả lắm, chiều tối hôm đó tôi mới về đến nhà.

Thành phố Vũng Tàu có một vẻ đẹp đa dạng năm xưa. Nay, Vũng Tàu bồn chồn, lơ láo, hãi hùng, cơn quốc biến sẽ xảy ra nay mai, và gây ảnh hưởng trầm trọng đến thành phố có nhiều thắng cảnh đẹp, bãi tắm lý tưởng của miền duyên hải nhỏ bé nầy.

Mấy bữa rày, tôi lo lắng, sợ hãi cho sự an nguy của chồng! Vì tôi không liên lạc bằng điện thoại được với chàng như mọi khi.

Sáng ngày 30 tháng 4 năm 1975. Tôi chết sửng khi nghe hung tin trên làn sóng điện của đài Sài Gòn luôn cả đài Quân Đội. Giọng nói của ông Tổng Thống Tướng lãnh Dương Văn Minh kêu gọi quân, dân, cán, chánh, buông súng đầu hàng! Và ông ta chờ giặc vào bàn giao mọi công việc!

Má chồng tôi, cô Hai tôi mắt mở to kinh ngạc! Hai bà mặt mày ủ rũ, mắt đỏ hoe, không nói không rằng, ôm các cháu đưa vào phòng.

Ngoài đường phố lạnh lẽo. Cái lạnh lẽo ở đây không phải thiếu tiếng ồn ào của động cơ xe, cái lạnh lẽo ở đây không phải vắng bóng người. Vì bên ngoài hãy còn rối loạn, dân chúng còn hối hả, hốt hoảng, ngược xuôi. Và trên mặt họ hằn nét âu lo, hãi hùng.

Không ai bảo ai, những sinh hoạt hàng ngày xôn xao, sinh động tự nhiên biến mất. Các cửa tiệm, hàng quán ăn cửa đóng then gài. Những người buôn bán lẻ cũng quảy gánh hối hả trở về nhà. Các xe lam, xe xích lô tranh giành chở khách hàng ngày cũng đi đâu mất dạng. Các bà bạn hàng buôn bán đầu chợ cuối chợ, không còn tụm năm tụm ba xôn xao bàn tán như mọi khi. Các công sở, tư sở nhân viên rải rác lần lượt về nhà. Trước cửa trường học, cha mẹ hớt hãi đón con và học trò túa ra chạy lẹ về nhà như bầy chim vỡ tổ…

Thành phố Vũng Tàu đang thấp thỏm, âu lo. Mỗi tiếng tíc tắc của kim đồng hồ, là thời gian chậm chạp lướt qua, Vũng Tàu càng thêm tê dại, thê lương! Vũng Tàu bây giờ chỉ còn có gió rít từng hồi quằn quặt hàng cây hai bên đường, có sóng biển dập dồn vỗ ầm ầm bờ đá dưới bãi. Và màn đêm dần dần buông xuống!

Tết Mậu Thân năm 1968. Việt Cộng chiếm thành phố Huế chưa được một tháng, mà chúng đã thảm sát hàng vạn dân vô tội không theo chúng. Hôm nay, không những chỉ ở vùng duyên hải Vũng Tàu nầy, mà cả miền Nam! Một miền Nam gấm hoa tươi đẹp sẽ không còn nữa, sau ngày 30 tháng 4 năm 1975.

Trên thế gian nầy, có sự trả thù nào tàn khốc hơn khi bức màn thiên đàng Cộng sản trùm lên cả một nước Việt Nam!

Lòng tôi se thắt! Tâm hồn tôi chơi vơi, sửng sờ, hụt hẩng. Tôi tựa người vào tường cho khỏi ngã, úp mặt vào lòng đôi bàn tay nức nở khóc!!!

Tệ xá Diễm Diễm Khánh An.

California, cuối thu năm 2004

DƯ THỊ DIỄM BUỒN