← Quay lại trang sách

8. Đô Đốc Khuông Quốc Tá Thánh Vương

Vương họ Lê, tên Phụng Hiểu, người làng Băng Sơn (nay là làng Dương Sơn, huyện Hoằng Hóa), phủ Thanh Hoa (nay là tỉnh Thanh Hóa). Có người nói: Vương là cháu ông Định Phiên hầu Lê Đĩnh.

Vương người cao lớn, tướng đẹp, râu tốt, có sức khỏe lạ thường. Lúc còn trẻ ở Lương Giang có bọn cậy khỏe tranh ruộng, Vương lấy tay nhổ tre non cả gốc lẫn rễ xông ra đánh, không ai địch nổi. Sách Việt sử bổ di chép: “Vương lúc trẻ rất hùng dũng. Có hai làng Cổ Bi và Đàm Xá vì tranh địa giới, dàn quân ra đối đáp với nhau. Vương xắn tay áo bảo người làng Cổ Bi rằng: ‘Chỉ một mình ta đánh nổi vạn người!’. Phụ lão trong làng nghe nói rất mừng, đem cơm rượu khoản đãi. Vương ăn hết nồi ‘ba mươi’ cơm, uống rượu cực nhiều, rồi một mình ra khiêu chiến. Quân làng Đàm Xá xông đến, Vương nhổ cây đánh vung như trận gió táp, quân làng Đàm Xá bị thương rất nhiều, bỏ chạy tan tác, Làng ấy khiếp sợ phải chịu trả ruộng cho làng Cổ Bi”.

Bấy giờ vua Lý Thái Tổ tuyển những người có sức khỏe sung vào quân Túc vệ. Vương được tuyển dụng, siêng năng, được việc, vua rất khen ngợi và cất dần lên tới chức Vũ vệ Tướng quân, cùng hàng với các tướng Đàm Thản, Quách Thịnh Dật và Lý Huyền Sư. Vua Thái Tổ mất, Thái Tông theo di chiếu lên ngôi (1028). Dực Thánh Vương, Vũ Đức Vương và Đông Chinh Vương là ba người con thứ của vua Thái Tổ cùng mưu làm loạn, đem vệ binh ở các phủ đến vây nội thành, chia cửa tranh nhau tiến vào. Thái Tông sợ hãi không biết làm sao. gọi Vương vào bảo:

- Trẫm nay tiến thoái đều không được, giao quyền cho ngươi tùy tiện chống đánh.

Vương liền đem vệ binh trong cung ra cửa Đại Nội giáp chiến với quân ngoài, một hồi chưa phân được thua. Vương nổi giận tuốt gươm tiến thẳng tới cửa Quảng Dương, hô to lên bảo Vũ Đức Vương rằng:

- Các Vương định cướp ngôi báu, coi khinh Tự quân, thật là trái mệnh Tiên đế, lỗi đạo làm tôi, Phụng Hiểu này xin dâng các Vương nhát kiếm!

Nói xong, xông tới trước ngựa; Vũ Đức Vương trở tay không kịp bị Vương chém chết. Quân ba phủ thua chạy tan tác, quan quân đuổi bắt không sót một người, chỉ có Đông Chinh Vương và Dực Thánh Vương trốn thoát. Vương về tâu tin thắng trận trước linh cữu Thái Tổ, rồi sang điện Càn Nguyên tâu vua Thái Tông. Vua bảo Vương rằng:

- Trẫm được an toàn, giữ được cơ nghiệp của Tiên đế là nhờ sức ngươi cả! Thường xem Đường sử, thấy Uất Trì Kính Đức giúp vua trong khi khó nạn, tự nghĩ bề tôi về sau ít người được bằng. Nay nhà ngươi trung đũng, lại thấy còn hơn Kính Đức.

Vương lạy tạ, nói rằng:

- Bệ hạ đức cảm tới trời đất, uy lừng khắp biên thùy, trong ngoài đều phục theo. Ba Vương dám manh tâm làm bậy, trời đất quỷ thần không dung tha, chứ không phải sức của hạ thần dẹp nổi!

Vua bèn cất nhắc làm Đô thống Thượng tướng quân, phong tước hầu.

Năm Thiên Cảm Thánh Vũ thứ 1 (1044), Thái Tông sang đánh Chiêm Thành. Vương làm Tiên phong, đại thắng quân Chiêm, tiếng lừng các nước phiên thuộc. Lúc khải hoàn thưởng công, vua sai lấy ruộng công hơn 1.000 mẫu ở dưới núi Băng Sơn cấp cho Vương làm ruộng tư, miễn nộp thuế hàng năm (Theo Sử ký: khi thắng Chiêm về, Phụng Hiểu không muốn được thưởng chức tước, chỉ xin cho đứng ở trên núi Băng Sơn phóng con dao đi, hễ dao rơi xuống, cắm đến chỗ nào thì xin ruộng đến chỗ ấy. Vua thuận cho, Phụng Hiểu lên núi phóng dao đi xa tới hơn 10 dặm, rơi xuống địa phận làng Đa Mỹ. Vua bèn cho ruộng từ chân núi Băng Sơn đến đấy, miễn thuế ruộng “cắm dao”. Sau đó ở châu Ái những ruộng thưởng người có công, đều gọi là ruộng “cắm đao” tức là theo nghĩa ở đây).

Vương hết lòng trung thành thờ vua, biết điều gì là nói luôn không giấu diếm. Đi đánh dẹp tới đâu cũng thắng. Vương thọ 77 tuổi. Sau khi mất, thổ dân nhớ tiếc lập đền thờ làm phúc thần, cầu đảo rất được linh ứng.

Năm Trùng Hưng thứ nhất (1285), phong Đô Thống vương, năm thứ tư (1288), gia phong hai chữ “Khuông quốc”, năm Hưng Long thứ 21 (1313), gia phong hai chữ “Tá thánh”. Đền thờ nguy nga, tới nay hương lửa không dứt.