10. Quả Nghị Cương Chính Uy Huệ Vương
Xét Đỗ Thiện sử dẫn Giao Chỉ ký: Vương tên là Cao Lỗ, một tướng giỏi của An Dương Vương xưa, tục gọi là Đô Lỗ, hoặc gọi là Thạch thần.
Khi Cao Biền đã dẹp yên giặc Nam Chiếu (865- 866), đem binh đi tuần châu Vũ Ninh, đêm mộng thấy một người thân cao chín thước, ăn mặc lịch sự, búi tóc nhọn, cài trâm hình lưỡi đao, gậy đỏ giắt ở lưng, đến nói với Biền rằng:
- Tôi là Cao Lỗ, xưa giúp An Dương Vương làm Đại tướng, đánh giặc có công to, sau vì kẻ đại thần là Lạc Hầu nói gièm, tôi bị vua giết. Đức Thượng đế thương tôi là người trung, cho làm Đô Thống tướng quân, giữ một dải non sông, phàm việc dẹp giặc và việc mùa màng tôi đều được quyền định đoạt cả, nghĩa là được làm phúc thần của một phương. Nay theo minh công dẹp giặc đã yên, tôi lại trở về, nếu không đến từ biệt thì hóa ra vô lễ!
Biền hỏi:
- Lạc Hầu có sự gì ghen ghét mà lại làm hại ông như thế?
Đáp rằng:
- Việc u mình không thể tiết lộ được.
Biền cố hỏi, mới nói rằng:
- An Dương Vương là “tinh” con gà, Lạc Hầu là “tinh” con vượn trắng, còn tôi là “tinh” con rồng đá. Gà với vượn thì hợp nhau mà không hợp với rồng, cho nên sinh ra như thế.
Nói rồi vụt biến mất. Biền tỉnh dậy, nói chuyện lại với tướng tá, rồi đắc ý ngâm:
Mỹ tai Giao Châu địa,
Du du vạn tải lai.
Cổ hiền đắc tiếp kiến,
Phương bất phụ linh đài.
Nghĩa là:
Đẹp thay đất Giao Châu,
Dằng dặc muôn năm nay.
Được tiếp kiến người hiền cõi xưa,
Không phụ tấm lòng đa cảm.
Tương truyền chỗ sông Đại Than là chỗ dinh của Vương đóng, thường nổi mây, đổ mưa, thành những cơn phong ba dữ dội, ai qua đấy, vào đến lễ, kêu cầu trước thì thuyền đến giữa sông, dù gặp sóng gió cũng không bị nguy hiểm.
Nàm Trùng Hưng thứ nhất (1285), sắc phong Nghị Vương. Năm Trùng Hưng thứ tư (1288), gia phong hai chữ “Cương chính”. Năm Hưng Long thứ 21 (1313), gia phong hai chữ “Uy huệ”.