← Quay lại trang sách

11. Quảng Lợi Thánh Hựu Uy Tế Phu Ứng Đại Vương [1]

Khi xưa, Cao Biền đắp thành Đại La. Một buổi trưa, đi chơi vơ vẩn ra cửa đông ngoại thành, bỗng thấy mây mù nổi to, rồi có khí lành năm sắc rực rỡ lấp lóe như sao sáng rực, lạnh rợn người. Trong năm sắc ấy thấy một người cưỡi rồng vàng, đầu đội mũ hoa đỏ, mình mặc áo màu ráng tía, xiêm thêu, giày đỏ, đồng thời thấy mùi hương ngào ngạt, tiếng nhạc vang lừng một hồi lâu mới tan. Cao Biền kinh hãi, cho là yêu ma tác quái, đòi hỏi xằng bậy được người đời cúng bái, cũng chẳng có gì là kỳ lạ cả. Đêm hôm ấy, Biền mộng thấy một ông cụ hình dạng ăn mặc như lúc ban ngày, đến bảo Biền rằng:

- Ta là Lang Đỗ vương đới quân, thấy ông mở dựng Đô thành, nên tôi lại chơi, ông đừng ngờ!

Biền tỉnh dậy, nói chuyện với mọi người rồi than rằng:

- Ta không biết làm chính trị, để quỷ thần trêu ta, điềm tốt hay điềm dở đây?

Có người bảo Biền dựng đền, đắp tượng thờ, rồi lấy đồng sắt chôn xuống để trấn áp. Biền theo lời làm như thế. Bỗng một cơn mưa bão rất to, đổ cây, tung đất, bao nhiêu đồng sắt đã yểm đều tan ra thành tro bụi. Biền thấy vậy, than rằng:

- Ta sẽ phải về Bắc mất!

Rồi quả nhiên Biền phải về thật.

Đến đời nhà Lý, dựng đô ở đây, vua Thái Tông cho mở phố chợ về cửa đông, hàng quán chen chúc, sát tới bên đền, rất là huyên náo. Muốn chuyển đền ra một chỗ khác yên tĩnh hơn, song vua lại nghĩ: một ngôi đền cổ không nên dời đi! Vua bèn cho sửa sang lại đền, liền với các nhà ngoài phố, dành riêng một ngôi nhà làm nơi thờ thần. Đến đêm, thần liền hiển linh, nổi trận gió bấc rất to, các nhà bèn đền đều đổ, duy đền thờ thần vẫn nguyên vẹn. Vua Thái Tông lấy làm lạ hỏi. Có người biết, tâu rõ việc hiển linh của thần từ trước. Vua mừng nói:

- Đó thật là vị thần coi việc nhân gian.

Liền xuống chiếu cho sửa lễ tế và đặt lệ mỗi năm cứ đầu mùa xuân lại đến đền làm lễ cầu phúc. Lại sắc phong thần làm Quang Lợi vương. Trước đây ở phố chợ cửa đông, ba lần phát hỏa, các nhà trong phố bị cháy hầu như hết, duy chỗ đền thờ thần, lửa không bao giờ lan tới.

Năm Trùng Hưng 1 (1285), sắc phong hai chữ “Thánh hựu”. Năm Hưng Long 21 (1313), gia phong hai chữ “Phu ứng”, tiên tước lên Đại vương.

Quan Thượng tướng Thái sư Trần Quang Khải có đề một bài thơ ở đền rằng:

Tích văn nhân đạo Đại vương linh,

Kim nhật phương tri quỷ mị kinh.

Hỏa bắc tam khu thiên bất tận,

Phong trần nhất trận phiến nan khuynh.

Chỉ huy vọng lượng tham thiên chúng,

Đàn áp yêu ma bách vạn binh.

Nguyện trượng dư uy thanh Bắc khấu,

Đốn linh vũ trụ lạc thăng binh.

Nghĩa là:

Trước vẫn nghe người ta nói: Đại vương thiêng,

Nay mới biết: bọn quỷ ma đều khiếp sợ Đại vương.

Lửa bốc ba lần không cháy được đền,

Gió bão một trận không làm nghiêng được.

Chỉ huy ba nghìn quỷ binh,

Đàn áp được yêu ma trăm vạn.

Xin nhờ dư uy của Đại vương để dẹp giặc Bắc,

Khiến cho vũ trụ được bình yên.

Tới nay, đền thờ nguy nga, tiếng anh linh còn mãi.

Chú thích:

[1] Thần được thờ ở đền Bạch Mã, phố Hàng Buồm, Hà Nội.