← Quay lại trang sách

14. Lệ Hải Bà Vương ký

Bà họ Triệu, tên húy là Trinh, lúc nhỏ có tên gọi là Nàng Ẩu, em gái Triệu Quốc Đạt, người đất Trung Sơn, quận Cửu Chân. Mặt hoa, tóc mây, mắt châu, môi đào, mũi hổ, trán rồng, đầu báo, hàm én, tay dài quá đầu gối, tiếng như chuông lớn, mình cao chín thước, vú dài ba thước, vòng lưng rộng mười ôm, chân đi một ngày năm trăm dặm, sức có thể khua gió bạt cây, tay đánh chân đá như thần, lại có sắc đẹp phải động lòng người. Cha mẹ chết sớm, bà ở với anh, phải chị dâu là người rất không tốt, bà tức giận giết chết. Người anh lúc đầu giận lắm, bà bèn chia bếp vào trong rừng ở, tự làm để sống. Tính rất ngang bướng thẳng thắn, mỗi khi bà phật ý thì chẳng ai chống lại nổi. Đến năm hai mươi tuổi vẫn chưa lấy chồng, có chí mưu việc lớn, bỏ tiền của ra cấp cho tân khách, chiêu kết đồng đảng. Tân khách trong nhà thường có hàng nghìn người, đều là những kẻ sĩ tráng kiện nhất một thời. Người anh lúc đầu ghét bà nóng nảy, táo tợn, nhưng nghĩ đến tình cốt nhục, không thể bỏ nhau được, thường khuyên nhủ rằng:

- Đàn bà con gái không nên hào phóng như vậy!

Nàng Ẩu ngang bướng không chịu nghe theo, đối

đáp lại rằng:

- Người ta sống trong cõi bụi hồng, như mầm cây như nhánh cỏ vậy, từ tươi đến héo chỉ trong nháy mắt, từ lúc thanh xuân đến khi già cỗi nhanh chóng như bay, hà tất phải để tâm.

Anh nói:

- Vậy thì làm thế nào?

Nàng Ẩu nói:

- Em chỉ muốn cưỡi gió đạp sóng, chém cá kình lớn ở biển Đông, quét sạch bờ cõi, cứu dân ra khỏi cảnh chìm đắm, há lại bắt chước người đời cúi đầu khom lưng làm tỳ thiếp kẻ khác, cam tâm phục dịch ở trong nhà ư?

Người anh lấy làm lạ. Khoảng năm Mậu Thìn (248), niên hiệu Vĩnh An đời Ngô, nước ta bị khổ sở vì các quan Thú mục từ phương Bắc sang. Phần nhiều bọn chúng tước đoạt quấy nhiễu, dân không biết trông vào đâu để mà sống, đều phải trốn tránh đi làm kẻ cướp, thường dựa vào trang trại của Nàng Ẩu để ẩn náu. Nàng Ẩu thực lòng đối đãi, bọn họ đều khâm phục, tập hợp đồ đảng mấy nghìn người. Người anh Quốc Đạt biết chuyện, mừng mà nói rằng:

- Em gái ta có chí khí ấy, có thể nói rằng sau Hai Bà Trưng lại thấy có một Bà Trưng nữa vậy. Em gái đã như thế thì ta còn lo gì nữa.

Vốn Triệu Quốc Đạt nhờ nếp nhà xưa, gia tư hào phú, là người trung hậu, thích điều thiện, ham bố thí, giao du rộng, được lòng người, rất có chí mưu toan giúp đời, thủ hạ có bốn người tâm phúc, tức là Vương Thiện, Lãnh Long, Bao Thúc, Tốn Thận, đều là tay giỏi cung tên, lại trí dũng mưu lược, có sức khỏe vạn người không địch nổi. Năm đó, trong nước rối loạn, mọi người đều xin Triệu Quốc Đạt cử sự. Quốc Đạt còn do dự chưa quyết tâm. Bốn người càng ra sức xin. Quốc Đạt nói:

- Quân Ngô thường luôn luôn thao diễn, nhuệ khí tăng nhiều, quân ta là đám người vừa mới tập hợp lại, sao có thể đánh giặc được ngay, vạn nhất bị thất bại, hối sao kịp. Sao bằng đợi thời cơ mà hành động, một đánh là toàn thắng, như vậy mới hay.

Mọi người đều phân vân, bàn lẽ hơn lẽ thua. Hốt nhiên nghe thấy ở trước nhà có một người lớn tiếng nói rằng:

- Cơ hội có thể dựa vào chính là ở ngày hôm nay. Việc làm hợp lẽ còn đợi đến bao giờ. Em tuy bất tài, xin nhận một đội binh mã đi trước.

Quốc Đạt quay sang thì ra là Nàng Ẩu. Quốc Đạt nói:

- Ta cũng hiểu lẽ ấy, nhưng bốn phương còn yên tĩnh, đánh nhau có can hệ đến đại sự, há lại có thể khích động.

Nàng Ẩu phấn nhiên nói:

- Người cầm quân giỏi ngày xưa biết tùy cơ ứng biến để quyết định sự thua được trong khoảnh khắc. Nay quân Ngô ngang dọc trong đất nước ta, dưới mắt không coi ai ra gì, xem người nước ta như cỏ rác. Binh pháp đã nói rằng: “Xuất kỳ bất ý, công kỳ vô bị”, anh há lại không biết hay sao?

Quốc Đạt bèn dựng cờ nghĩa. Chỉ trong một tuần đã có quân theo mấy vạn. Từ đó, xa gần đều hưởng ứng. Quân Ngô sợ hãi không dám đánh lại, và chỉ giữ chặt cửa ải ở các nơi để cầm cự mà thôi.

Không ngờ việc đời ngang trái, lòng trời khôn lường, Quốc Đạt bỗng nhiên mắc bạo bệnh mà chết. Mọi người thấy Nàng Ẩu có tài tướng súy, bèn tôn làm chúa để chống quân Ngô. Nàng Ẩu từ đó trong càng nghiêm chỉnh, ngoài vỗ về lòng dân, to nhỏ đều có quy củ, mọi việc đều tòng quyền mà làm, không có gì là không đầy đủ. Một hôm họp đại hội, Nàng Ẩu ngồi trước nhà nói vói các tướng rằng:

- Các ông thấy anh ta mất, không hiềm ta là phận gái, mà lập ta làm chúa, ấy là vì thấy ta có đôi chút khả thủ. Nay ta có mệnh lệnh trọng yếu trong quân ngũ. Ai nghe theo mệnh lệnh thì có trọng thưởng, ai trái mệnh thì có nghiêm hình. Hành động đã có quân pháp, nên biết giữ gìn.

Từ đó mỗi khi đánh với quân Ngô, Nàng Ẩu thường vắt vú ra sau vai, dùng lụa quấn chặt lưng, mặc áo vàng, đi guốc ngà, đứng trên đầu voi, thanh thế ầm ầm. Chẳng có kẻ nào dám chống lại. Trong quân đặt tên hiệu là Nhụy Kiều tướng quân. Đương thời có bài hát rằng:

Kiều Kiều nữ tướng quân,

Anh danh động phong trần.

Năng hàn Ngô tử đảm

Phiêu dục động nhân tâm.

Nghĩa là:

Bà nữ tướng xinh đẹp,

Tiếng tăm chấn động phong trần.

Có thể làm mất vía quân Ngô,

Sắc đẹp lại rung động lòng người.

Ấy là nói rằng tuổi trẻ chưa có chồng mà một mình cầm quyền lớn, cũng như là cưỡi đầu hùm vuốt râu hùm, e rằng không tránh khỏi miệng hùm vậy. Giặc Ngô tuy biết oai thần vũ của bà, nhưng khinh là đàn bà, cho nên không sợ hãi. Hai bên gặp nhau đối trận, bà đi trước quân lính, hướng vào đâu thì như vào chỗ không người. Giác Ngô bấy giờ mới sợ, bèn không dám hứng lấy mũi nhọn sắt. Cứ như thế trong sáu bảy tháng. Thảng hoặc có khi chợt gặp thì chúng kêu lên: “Lệ Hải bà vương” rồi bỏ chạy mà không dám nhìn, có câu nói ràng: “Ngang con mắt mà tìm cọp thì dễ, e rằng hướng nhìn Bà Vương thì khó”.

Từ đó thanh thế đại chấn, các quan Thú, Mục từ phương Bắc đến, đóng chặt cửa thành mà giữ. Vua Ngô nghe tin, tức giận, bèn sai chức Đốc quân Đô úy ở Hành Dương là Lục Dận làm Giao Châu thứ sử, kiêm lĩnh chức Hiệu úy, đem quân đánh phương Nam. Lục Dận là người mềm mỏng có tiết độ, cùng với quân lính đồng cam cộng khổ, lại có trí dũng. Nghe nói Nàng Ẩu cường thịnh thì cho rằng các tướng không gắng sức, một người đàn bà thì có nghĩa lý gì mà cứ để kéo dài tháng ngày như vậy. Bèn biếm truất các quan Thú, Mục cũ, rồi chỉnh tề quân đội, định ngày cất đại quân. Nàng Ẩu cũng đem quân đến đón đánh. Một ngày đánh ba trận thì quân Ngô ba lần phải lui. Cầm cự trong năm sáu tháng, giáp trận đánh nhau hơn bảy mươi phen, quân Ngô đều không thể chống nổi, thua chạy mà về. Ngày tháng trôi qua, quân lính chết và bị thương quá nửa. Dận lo bị vua Ngô bất tội, sợ hãi vô cùng, bèn thu quân vào thành, đóng chặt cửa mà giữ. Nàng Ẩu thừa thế tung quân bao vây. Sau mấy tháng không phá được thành, Nàng Ẩu muốn đánh nhau mà không được đánh, còn tướng tá ngày đêm hơi có vẻ chùng lỏng, cho rằng quân Ngô đã cùng quẫn, nhút nhát như thỏ, giữ một tòa thành cô lập, không đáng ngại gì cả. Dận bèn ngầm sai quân do thám lẻn vượt ra ngoài thành, thăm dò hư thực, mới biết rằng: tuy Nàng Ẩu dũng trí kiêm toàn, tay có thể giương cây cung nặng trăm thạch, thân có thể cưỡi con ngựa thiên lý, ngày ăn gạo mấy đấu, ăn thịt mười cân, khỏe mạnh như thế, rất là đáng sợ, nhưng trước nay vốn chuộng sự tinh khiết, rất sợ những vật hôi thối, không trong sạch, một khi trông thấy thì mặt mày e thẹn, tất là dừng chân rồi tháo chạy, không dám đứng lại nhìn. Dận biết được tin ấy, nở mặt nở mày, vui mừng khôn xiết. Các tướng hỏi tại sao. Dận nói:

- Kẻ địch này mạnh, quân ta là đám cô quân vô viện, không thể lấy sức mà địch nổi.

Thê là Dận lệnh tề chỉnh quân ngũ, sai người đi hạ chiếu thư. Quân hai bên cùng hò hét xông ra, bày thành trận thế. Nàng Ẩu ngồi trên ngựa, cầm ngang cây đao, đợi ở trước trận. Chưa kịp giao phong, chỉ thấy quân Ngô ùn ùn kéo ra, như vờn như giỡn, tướng tá quân sĩ đều trần truồng, thỗn thện, to nhỏ thành một bầy, tay cầm giáo mác như gió lướt tới. Nàng Ẩu bình sinh vốn hay e thẹn, nay thấy hình dáng như vậy, không khỏi xấu hổ, bèn quăng đao quất ngựa, bưng mặt mà chạy. Dận thừa thắng đuổi theo sau, đánh giết. Quân Nàng Ẩu thua to, chết không biết bao nhiêu mà kể. Dận lại tung quân ra bao vây. Nàng Ẩu thấy bốn mặt tắc đường, bèn cắt cổ tự tử, năm ấy vừa hăm ba tuổi. Thế là tướng tá đều phải hàng. Hơn ba vạn con voi và châu quận lại thuộc về nước Ngô vậy.

Không bao lâu, có nạn dịch lớn. Người Ngô mắc bệnh, ngày càng ốm lăn ốm lóc. Lục Dận lo quá, bèn lập đàn tế lễ cầu an, sám hối được bảy đêm, thì đến đêm hôm ấy vào khoảng canh ba nằm mộng thấy Nàng Ẩu mình mặc áo giáp, tay cầm cây mâu dài, nghiến răng chau mày, chửi không hết lời. Dận sợ quá giật mình tỉnh dậy, nghĩ thầm rằng: anh khí của phương Nam, càng ngày càng lạ, lúc sống thì anh hùng, khi chết vẫn như thế. Nay ta thử đặt kế sách, nếu có thể trừ được thì cũng là một trong những việc do hú họa cầu may mà thành công. Bèn khiến thợ đẽo mấy trăm cái ngọc hành, vẽ đúng như hình dáng thực, treo ở khắp các nhà, các phòng. Bệnh dịch từ đó hết dần, mọi người đều cho là thần nghiệm vậy.

Bà Triệu dấy quân năm Bính Dần (246), chết năm Mậu Thìn (248), được ba năm. Tại sao dân địa phương lại không biết sai trái mà đến nay vẫn còn lấy vật đó để mà thờ thần [1].

Vào thời Lý Nam Đế, quân Lâm Ấp cướp phá đất Nhật Nam, nhà vua đêm nằm mộng thấy một người đàn bà đội mũ trận, mặc áo giáp, tự xưng họ tên, xin theo quân đi đánh giặc. Vua hỏi lại lý do. Người ấy nói:

- Vào đời Vĩnh An nhà Ngô, thiếp đã nhiều lần trải qua chiến trận, chưa từng bị thua, không may bị kẻ địch đánh lừa. Sau khi chết, Thượng đế khen vì dũng cảm có quyết tâm, bèn sắc phong làm thần, sai chủ trì ôn dịch, trừ ma diệt quỷ, và tất cả mọi việc đuổi tà giúp chính. Nay biết đại quân ra đi, xin giúp cho chút công lao bé nhỏ.

Nhà vua bằng lòng. Đến khi giặc đã dẹp xong, nhà vua sai lập miếu thờ, phong làm Giản Chính phu nhân.

Đến đời nhà Lý mới lại phong chữ “Quý”, truy tặng là Anh Liệt phu nhân, đời Trần gia phong hai chữ “Hùng tài”. Năm Trùng Hưng thứ nhất (1285), gia phong hai chữ “Vĩ tích”; năm Trùng Hưng thứ tư (1288) lại gia phong hai chữ “Anh mẫn”. Năm Hưng Long thứ 21 (1313), lại gia phong là “Trinh Nhất phu nhân”, vì đã có âm công giúp đỡ nhân dân vậy.

Chú thích:

[1] Vật đó là cái dương vật bằng gỗ mà Lục Dận sai đẽo để đuổi âm hồn bà Triệu, theo như truyện kể. Sự phê phán của Chư Cát Thị xét ra có lý. Chi tiết này thô lỗ quá không đáng để vào truyện bà Triệu.