13. Gia Ứng Thiện Cảm Linh Vũ Đại Vương
Theo Tam quốc chí, thì vương họ Sĩ tên Nhiếp, người huyện Quảng Tín, quận Thương Ngô, tổ tiên vốn là người đất Vấn Dương nước Lỗ nhân gặp loạn Vương Mãn mà tị nạn xuống đấy, được sáu đời thì đến cha của Vương tên là Tứ. Vào thời vua Hán Hoàn Đế, Tứ làm Thái thú Nhật Nam.
Lúc ít tuổi, Vương về Kinh sư du học, chuyên trị sách Tả Thị Xuân Thu, được cử làm Hiếu liêm [1], bổ làm Thượng thư lang, vì cớ việc công mà bị bãi quan. Sau khi cha mất, lại được cử là Mậu tài [2], bổ làm chức quan Lệnh ở Hàm Dương. Vào thời vua Hán Hiến Đế, được chuyển sang làm Thái thú đất Giao Châu, khi đó Trương Tân đương làm Thứ sử Giao Châu. Cuối đời Hán, ba nước [3] tranh hùng, tạo nên thế chân vạc. Vương cai trị hai thành Luy Lâu và Quảng Tín. Về sau Trương Tân bị tướng giặc là Khu cảnh giết chết. Lưu Biểu ở Kinh Châu bèn sai Lại Cung ở Linh Lăng, quyền giữ cả chức Thứ sử Giao Châu. Vua Hiến Đế nghe biết chuyện đó bèn ban ấn cho Vương, có thư rằng: “Giao Châu là chốn hẻo lánh, đức hóa tưới đến thì xa, núi sông thuộc phận sao Dực sao Chẩn [4] sách trời đã chia rõ; sơn xuyên là nơi thắng cảnh. Nam Bắc đi lại xa xôi khó khăn; ân trên ban bố xuống không thể rõ rệt, nghĩa dưới bày tỏ lên thường bị tắc nghẽn. Bọn nghịch tặc ngu xuẩn, dám lộng binh quyền, không tự biết là đồ hung bạo, tính chuyện cầu may. Hơn thế nữa, tên giặc Lưu Biểu lại còn sai Lại Cung nhòm ngó đất phương Nam. Xét cái hạng người tự làm điều ác, tự bỏ mình đi ấy, tự tiện nắm quyền tác uy tác phúc ấy, thì tội trạng đến như vậy, viết ra không thể xiết. Nay ủy cho khanh làm Tuy Nam trung lang tướng, thâu tóm binh mã bảy quận, lĩnh chức Giao Châu thái thú, tất cả mọi việc đều được tiện nghi mà làm, cốt sao cho được thanh bình, xua đuổi giặc cướp, giữ yên dân chúng, làm cho lắng sạch khí độc bụi bẩn, ban bố rộng rãi An trạch tốt lành. Mọi việc trong ngoài, nhất thiết đều ủy cho khanh cả. Nên lo lắng chức vụ của mình, chớ làm sai mệnh của trẫm”.
Vương bèn sai Trương Mạn, sang cống ở Kinh đô nhà Hán. Khi đó đang có chiến tranh, thiên hạ táng loạn, đường sá xa xôi, đi lại gian lao, mà Vương không bỏ việc báo cáo chức vụ và dâng nộp cống phẩm, giữ đúng phận làm bề tôi. Vua nhá Hán bèn lại xuống chiếu khen thưởng. Chiếu ấy viết rằng: “Giao Châu là đất văn hiến, sơn xuyên có nhiều của báu lạ, văn vật khả quan, nhân tài kiệt xuất. Liền năm có nạn chiến tranh, từ trước đến nay không được kẻ có tài năng làm quan Thú mục, cho nên khu vực xa xôi của khanh chưa từng thấm đượm nhã hóa. Đến khi đặc biệt ủy nhiệm cho khanh chức vụ nặng nề, thì lập tức là theo được phong độ của kẻ làm quan tốt, chăn dắt dân chúng lấy điều nhân làm ân nghĩa, không thẹn là người bề tôi rường cột. Nay lại cử khanh làm An Viễn tướng quân, phong tước Long Độ Đình hầu”.
Về sau viên Thái thú Thương Ngô là Ngô Cự (có chỗ viết là Khuông) có hiềm khích với Lại Cung, đem quân đuổi Cung đi. Cung thua chạy về Linh Lãng. Khi đó Tôn Quyển, vua nước Ngô, sai Bộ Chất sang làm Thứ sử Giao Châu [5]. Bộ Chất đến nơi, Vương đem anh em ra đón tiếp. Vua Ngô thăng cho Vương làm Tả tướng quân, ba người con của Vương đều phong làm Trung lang tướng. Vương cho con vào làm con tin ở nước Ngô, lại dụ bọn thổ hào Ích Châu là lũ Ung Khải đem dân về theo với nước Ngô. Vua Ngô lại càng coi trọng Vương, thăng chức Vệ tướng quân, phong làm Long Biên hầu, Đệ nhất thiên tướng quân. Mỗi khi Vương cho sứ giả vào nước Ngô thì sai đem dâng các thứ hương liệu, vải mịn kể đến hàng nghìn, các thứ châu ngọc đồi mồi, pha lẫn lông chả, ngà voi, sừng tê, hoa kỳ, cỏ lạ, chuối tiêu, dừa, nhãn. Không năm nào là không có sứ đem vào Ngô. Có lần đem dâng cống hàng mấy trăm cỗ ngựa. Vua Ngô bèn có quà quý gửi tặng để đáp lại và ủy lạo, phong cho ba anh em của Vương làm quan. Nhất làm Thái thú Hợp Phố, Vị làm Thái thú Cửu Chân, Vũ làm Thái thú Nam Hải.
Vương tính tình khoan hậu, quý trọng kẻ nho sĩ. Các nho sĩ nhà Hán chạy loạn phần lớn đều theo về. Người trong châu đều gọi là Vương. Khi ấy Trần Quốc Huy (có chỗ viết là Trung) gửi thư cho quan Thượng thư lệnh là Tuân Húc [6] đại lược rằng: “Ông Sĩ phủ quân đất Giao Châu, học vấn tài giỏi, lại thông đạt trong việc trị dân. Giữa thời đại loạn, bảo toàn được cả một phương trong hơn hai mươi năm không có chiến tranh, dân không bỏ mùa màng, quân được nhờ phúc lớn, dẫu đến Đậu Dung giữ đất Hà Tây há lại có thể hơn thế được ư?”.
Em của vương đều làm quan ở các quận. Hùng trưởng một châu, riêng một vạn dặm, uy thế tôn quý vô thượng, mỗi khi ra vào thì rung chuông gõ khánh, bày đủ uy nghi đàn sáo vang lừng, xe ngựa chật lối, người rợ Hồ [7] kèm sát bên xe đốt hương. Thường thường có hàng mấy chục nàng hầu. Nàng hầu thì ngồi trong xe có màn đệm. Con em thì đi theo binh kỵ. Sự tôn quý trọng vọng nổi bật khắp đương thời. Sự uy nghiêm thanh thế chấn động đến vạn dặm: Úy Đà [8] ngày trước cũng không vượt quá được thế. Lúc chết thọ 90 tuổi, cai trị đất Giao Châu 48 năm.
Theo Báo cực truyện thì Sĩ Vương giỏi phép nhiếp dưỡng [9]. Đem chôn dưới đất đến cuối đời Tấn thì kể được hơn một trăm sáu chục năm. Thế mà khi người Lâm Ấp [10] vào ăn cướp, đào mộ lên, thấy thân thể vẫn không nát, mặt mũi vẫn như lúc còn sống. Chúng sợ quá, bèn vội chôn lấp lại. Dân địa phương lưu truyền việc ấy, coi là thần linh, lập miếu để thờ, gọi là Sĩ Vương tiên. Đến giữa đời Đường Hàm Thông, Cao Biền phá tan quân Nam Chiếu, đi tới đất ấy, gặp một bậc dị nhân, mặt mũi phương phi, mặc vũ y nghê thường [11], đón đường mà nghênh tiếp. Biền hài lòng, mời vào trướng nói chuyện, thì thấy toàn nói việc đời Tam quốc; khi tiễn đưa ra cửa thì bỗng nhiên không thấy đâu nữa. Cao Vương lấy làm lạ, bèn dò hỏi. Dân làng ở đây trỏ mộ Sĩ Vương để trả lời. Biền than thở mãi, ngâm thơ rằng:
Sau đời Ngụy Hoàng sơ,
Đã được ngũ bách niên.
Năm Hàm Thông thứ tám,
May gặp Sĩ Vương tiên.
Dân làng mỗi khi cầu đảo đều thấy ứng nghiệm, đến nay thành phúc thần. Năm Trùng Hưng thứ nhất (1285), triều vua ta [12] có sắc phong là Gia Ứng đại vương. Năm Trùng Hưng thứ tư (1288), ban thêm cho hai chữ “Thiện cảm”. Năm Hưng Long thứ 21 (1313), ban thêm cho hai chữ “Linh vũ”, xét vì có ám công giúp đỡ, dân làng được nhờ cậy vậy.
Chú thích:
[1] [2] Hiếu liêm (có đạo đức hiếu hạnh và liêm chính) và Mậu tài (nhiều tài năng, tài năng dồi dào) là những danh vị trỏ kẻ nho sĩ được các địa phương đề cử lên với triều đình để chọn lựa vào bộ mày quan liêu, là danh vị cho kẻ nho sĩ xuất sắc, khi chưa có chế độ thi cử.
[3] Cuối đời Đông Hán, sau đời Hán Hiến Đế, đất nước Trung Quốc bị chia cắt làm ba nước Ngụy, Thục, Ngô; mỗi nước ở một góc như ba cái chân vạc (đinh) chống chọi nhau.
[4] Theo khoa thiên văn và địa lý cổ ở Trung Quốc, thì mỗi chòm sao hoặc ngôi sao trên trời ứng với một địa phương ở dưới đất, gọi là tinh phận. Đất Lĩnh Nam, tức là vùng phía nam Trung Quốc và nước ta thì thuộc phận sao Dực và sao Chẩn.
[5] Khi đó nhà Hán mất, Sĩ Nhiếp theo về với nước Ngô của Tôn Quyền, và Tôn Quyền sai Bộ Chất làm Thứ sử Giao Châu, ở trên quyền của Sĩ Nhiếp (Nhiếp chỉ giữ chức Thái thú Giao Châu).
[6] Tuân Húc: làm quan với Tào Tháo, về danh nghĩa thì là quan nhà Hán, vì khi đó nhà Hán chưa mất và Tào Tháo tuy nắm thực quyền nhưng vẫn là Thừa tướng nhà Hán. Đoạn này nói về lúc Sĩ Nhiếp làm quan nhà Hán.
[7] Rợ Hồ: danh từ trỏ người Hung Nô, ở phía bắc Trung Quốc. Chắc là Sĩ Nhiếp tuyển người Hồ sang làm đội cận vệ.
[8] Úy Đà: Quan úy Triệu Đà. Trước kia khi Triệu Đà xưng là Nam Việt Đế, dùng xe hoàng ốc, cờ tả đạo, nghi vệ của Hoàng đế, tự coi mình ngang hàng với vua Hán. Ở đây ý nói xưa kia Triệu Đà hùng cứ một phương, có uy thanh rất lớn, thế mà cũng không hơn Sĩ Nhiếp.
[9] Nhiếp dưỡng: thuật tu dưỡng của kẻ theo đạo thần tiên (tức Đạo giáo), giữ gìn tinh khí không cho hao phí để sống lâu khỏe mạnh.
[10] Lâm Ấp. Tên cổ của nước Chiêm Thành.
[11] Vũ y nghê thường: áo bằng lòng và xiêm y màu cầu vồng. Y phục của người tiên.
[12] Vua ta: vua Trần.