← Quay lại trang sách

CHƯƠNG III ĐỢT SINH VIÊN DU HỌC MỚI ĐANG TÌM ĐƯỜNG LỐI CÁCH MẠNG-1925-1929-

Đợt du học đầu tiên (bí mật) do Phan Bội Châu khởi xướng vào năm 1906 đã đưa sang Nhật được khoảng 200 sinh viên, sau đó họ bị trục xuất vào năm 1909 dưới sức ép của ngoại giao Pháp.

Phong trào quốc gia bồng bột những năm 1925 đã đề khởi một đợt du học lần thứ hai, lần này chủ yếu là sang Pháp theo đường hợp pháp, và bí mật sang Trung Hoa sang Nga. Tầng lớp thanh niên du học sang Pháp một mặt hưởng ứng lời kêu gọi xuất ngoại của Nguyễn An Ninh, một mặt do tham vọng của tầng lớp tư bản bản xứ và địa chủ An Nam giàu có mơ mộng bằng cấp cho con em. Những học sinh và sinh viên du học sang Pháp tăng từ 177 vào tháng 5 năm 1924 lên tới 1700 vào tháng giêng năm 1929. Trong số đó đảng cộng sản Pháp chọn khoảng ba chục sinh viên đưa sang học tại Đại Học Lao Động Đông Phương ở Moscou.

Tầng lớp trí thức trẻ An Nam nhanh chóng tập hợp dưới lý tưởng làm cách mạng để giành lại nền độc lập. Tại Paris cũng như tại các tỉnh ở nước Pháp, họ tập hợp thành nhiều nhóm nhỏ để thảo luận, tung ra những tờ báo nhỏ, nỗ lực tìm con đường chính trị của mình. Trong các nhóm đó không có người trí óc sáng tân, có năng lực làm đảo lộn tư tưởng của thời đại, nhưng họ đều là những con người đầy thiện chí và sẵn sàng dấn thân. Vào năm 1927 họ sắp thành lập Đảng Việt Nam Độc Lập chống lại chủ nghĩa cải cách ảo tưởng của những người theo chủ nghĩa lập hiến, nhưng cũng không vì thế mà họ bị thu hút vào đảng cộng sản Pháp.

Mặt khác, những thanh niên lưu trú ở Trung Hoa đã hưởng ứng lời kêu gọi của Nguyễn ái Quốc, ông này sau khi được huấn luyện xong ở Moscou, đứng ra thành lập Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội ở QuảngChâu -đấy là nòng cốt của đảng cộng sản Đông Dương tương lai- và mở một trường đào tạo cán bộ cách mạng chuyên nghiệp, rèn luyện trước sau tất cả khoảng 200 người.

Nguyễn Thế Truyền và Đảng An Nam Độc Lập

Tờ báo Việt Nam Hồn (L'Âme Annamite) do Nguyễn Thế Truyền từng ra ở Paris vào tháng giêng năm 1926, ấn bản 2000 tờ. Cùng hai em và một người chú của Truyền, chung nhau kiên định làm việc, đăng báo liên tiếp từ tháng này sang tháng khác những tin tức về sự biến mới nhất xảy ra ở đất nuớc nhà, nhất là ở Nam Kỳ, đặc biệt là tin về hoạt động của Toàn Quyền Varenne, vụ án Phan Bội Châu năm 1925, cuộc mít ting ở Vườn Xoài và vụ bắt Nguyễn An Ninh. (Trên tờ Việt Nam Hồn, bố của Nguyễn An Ninh có viết: ‘’Ta hãy lưu ý chỗ thời vận, ngày con trai tôi bị bắt là ngày bạn tôi Phan Chu Trinh mất’’). Nguyễn Thế Truyền phát động chiến dịch đòi thả Nguyễn An Ninh, tường thuật những cuộc đình công vừa bùng nổ năm 1925: 1000 công nhân nhà máy sợi Nam Định, công nhân hãng buôn Grand Magasins Chambervà Sở Thủy Binh Ba Son Sài Gòn; những cuộc đình công năm 1926 tiếp theo của công nhân nhà bưu điện trung ương Sài Gòn và nhà máy ruợu Hải Dương để phản đối việc đánh đập. Tiền đặt mua báo hàng năm là 6 francs, nhưng thực ra thì tờ báo sống được là nhờ những món tiền ủng hộ. Tờ báo thường được phát không cho sinh viên, thợ thuyền binh lính An Nam. Nhà chức nghiệp đoàn lao động (La Bourse du travail) Paris giúp cho tờ báo phát hành rộng rãi.

Chương trình của nhóm Việt Nam Hồn, đăng trong số 1, tóm thành bốn điểm sau:

- Bảo vệ người An Nam chống lại sự lạm quyền

- Đấu tranh đòi những quyền tự do chính trị và thành lập nghiệp đoàn

- Học hỏi lẫn nhau bằng cách trao đổi những ý tưởng, những niềm hy vọng và những kinh nghiệm

- Đoàn kết giữa trí thức và lao động chân tay.

Vào giữa mùa Hè năm 1926, nhóm Việt Nam Hồn đưa ra Lời kêu gọi gửi Hội Quốc Liên đòi quyền dân tộc tự quyết của nhân dân An Nam. Trong đó có câu mô tả tình trạng ‘’áp bức dân tộc và bóc lột xã hội gây đau khổ cho một dân tộc 20 triệu người bị phó mặc cho thực dân và chính quyền thuộc địa’’, nêu lên rằng nếu Hội Quốc Liên không can thiệp thì nhất định toàn dân bản xứ sẽ nổi dậy.

Đảng Lập Hiến vận động thành lập một xứ tự trị (dominion). Lời kêu gọi vuợt khỏi triển vọng ấy, dự kiến thành lập một Cộng Hòa Liên Bang Đông Dương.

Tại Marseille, một sinh viên và hai thủy thủ An Nam bị bắt vào tháng 10 vì đã phân phát Lời kêu gọi đó, và tới tháng 2 năm 1927 bị kết án 5 tháng tù vì đã‘’tuyên truyền phản đối quân dịch và manh động vô chính phủ’’!

Bị đình bản ngày 23 tháng 8 năm 1926, tờ báo hàng tháng lại xuất hiện vào tháng sau bằng chữ Quốc Ngữ, tên báo Phục Quốc, ấn bản: 5.000 tờ. Báo này lại bị cấm ngày 11 tháng 10 năm đó, sau khi Đảng Lập Hiến thắng cử trong cuộc bầu cử Hội Đồng Quản Hạt ở Nam Kỳ rồi được công nhận là một đảng chính trị. Tờ Phục Quốc được tờ L'Âme annamite thay thế vào tháng giêng năm 1927, ‘’cơ quan của Phục Việt, Đảng Việt Nam Độc Lập’’(Parti Annamite de l'Indépendance, PAI). Như vậy với tư cách là một đảng, nghĩa là bình đẳng, nhóm Nguyễn Thế Truyền từ nay đối lập với Đảng Lập Hiến. Tờ báo toàn chữ Pháp, đồng thời có tờ Hồn Nam Việt viết bằng chữ Quốc Ngữ, bí mật xuất bản, không có tên chủ nhiệm và tên nhà in.

Những vụ bê bối ở Đông Dương, nhất là việc tước đoạt đất đai của dân bản xứ khai phá ở Đắc Lắc (Trung Kỳ) (36) gây nên tình hình bối rối và xáo động trong Quốc Hội Pháp. Lợi dụng cơ hội đó, ngày 26 tháng 3 năm 1927, Đảng Việt Nam Độc Lập thảo một Thông Điệp (Mémorandum) gửi cho Bộ Thuộc Địa yêu cầu phải lập một ủy ban, không phải để điều tra như chính phủ Pháp dự kiến, mà để tiến hành toàn diện Pháp tự rút ra khỏi Đông Dương, kể cả về quân sự, hành chính và kinh tế.

Để tuyên truyền phổ biến bản Thông Điệp, Nguyễn Thế Truyền cùng Hoàng Quang Giụ tổ chức, từ tháng 4 tới tháng 5, một loạt hội nghị tại Nhà chức nghiệp đoàn Lao Động ở Paris, cũng như ở Le Havre, Marseille, Montpellier, Bordeaux, và Lille. Ở Lille cuộc hội họp bị cấm.

Ủy ban mà Đảng Việt Nam Độc Lập đề nghị sẽ bao gồm số người An Nam và Pháp bằng nhau. Trong đó có thể có những người đã bị bắt giữ hay lưu đày như Phan Bội Châu, Huỳnh Thúc Kháng, Lê Huân...và đại biểu lập hiến Bùi Quang Chiêu, người đề khởi hợp tác Pháp-Việt và chắc chắn là chống ý tưởng Pháp phải rời khỏi Đông Dương...Ủy ban này sẽ chủ trương đưa quân đội Pháp về nước và triệu tập về nước các binh lính An Nam ở Pháp, ở Maroc, Syrie, Trung Hoa. Ủy ban này sẽ xóa bỏ những chức vụ như thống đốc, công sứ, chưởng lý... và cả triều đình Huế cùng bộ máy quan lại. Ủy ban sẽ thiết lập chế độ phổ thông đầu phiếu ở mọi cấp; quốc hội được bầu ra sẽ xây dựng một bản hiến pháp và một bộ luật; đồng thời xây dựng một chính phủ lâm thời. Ủy ban sẽ xóa bỏ những độc quyền về muối, rượu và thuốc phiện (và sẽ cấm). Ủy ban sẽ chuyển giao cho Ngân Hàng Chính Phủ nhiệm vụ phát hành tiền tệ, quốc hữu hóa đường xe lửa và hầm mỏ, lấy lại những phần đất nhượng cho Hội Truyền Giáo ngoại quốc và những lôđất nhượng lớn để trả lại cho nông dân. Ủy ban sẽ niêm phong những hãng lớn các nước ngoài để sau đó sẽ giao việc quản lý cho Nhà nước An Nam, hoặc giao cho các tư nhân hay các nhóm chủ thầu, công nhân, nhân viên, tôn trọng luật lao động, do Nhà nước kiểm soát. Nhân dân Pháp sẽ được đối xử bình đẳng như người An Nam. Những nhân viên kỹ thuật, nhân viên các loại và thợ thuyền người Pháp đã tham gia từ trước có thể ở lại phục vụ cho chính phủ An Nam. Tóm lại là cả một ‘’chương trình quá độ’’ tới một xã hội đạo đức và tương thân tương ái. Trong khi chờ đợi, Bản Thông Điệp cũng yêu cầu chính phủ Pháp thực hiện ‘’8 điều khẩn cấp’’, trong đó có việc ân xá tù chính trị và ban hành ngay những quyền tự do cơ bản.

Vào tháng 6, Đảng Việt Nam Độc Lập đến đăng ký tại Sở Cảnh Sát để hoạt động, nhưng bị từ chối, không được ghi nhận.

Nguyễn Thế Truyền, với tư cách một người sáng lập Đảng Việt Nam Độc Lập, không thể thuộc vào một đảng phái khác. Vì vậy trước đó Truyền ra khỏi phần bộ thuộc địa của đảng cộng sản Pháp, đồng thời phát hành tờ báo hàng tháng Dân Tộc An Nam,(La Nation Annamite, lấy lại giọng điệu của tờ Chuông Rè) hoàn toàn tiếng Pháp, đặt trụ sở tại nhà riêng, số 6 phố Docteur Anger Saint Louis (Nguyễn Bỉnh Khiêm). Truyền xác định rõ mục đích của Đảng Việt Nam Độc Lập trong giai đoạn lịch sử hiện thời của Việt Nam là nhằm giải phóng dân tộc, chứ không phải là hướng tới chủ nghĩa cộng sản ‘’không thể đạt được trong tình thế hiện nay’’. Trong số 2 và cũng là số cuối cùng, vào tháng 8, nêu rõ thái độ ấy:

Một đảng của người An Nam ở cả ba kỳ, Bắc, Trung và Nam Kỳ đã thành lập, lấy tên là Đảng An Nam Độc Lập. Trụ sở: số 4 phố Vaugirard, Paris 6e. Mục đích và phương pháp: Dựa theo những nguyên tắc mà thế giới văn minh và nước Pháp đề cao, về quyền phản kháng chống lại áp bức và về quyền dân tộc tự quyết, đồng thời hợp tác thực sự giữa các dân tộc và chủng tộc, Đảng An Nam Độc Lập đề ra mục đích giành lại nền độc lập cho An Nam, hợp tác với nước Pháp và tham gia Hội Quốc Liên; về phương pháp: Tập hợp một tầng lớp người xuất sắc về tổ chức, tổ chức quần chúng, kêu gọi mọi người Pháp tham gia, cùng bất kể người nào có tâm hồn cao cả, không phân biệt quan điểm chính trị, tính ngưỡng tôn giáo và địa vị xã hội của họ, nếu họ công nhận sự nghiệp chúng tôi là chính đáng.

Ba bài khác trong số 2 đó xác định rõ xu hướng Nguyễn Thế Truyền. Bài báo nhiệt tình nhất là bài ‘’Chúng tôi không phải là những người quốcgia chủ nghĩa theo cái nghĩa Phương Tây của danh từ này’’ đã soi sáng sự hội tụ sâu sắc giữa Truyền và Phan Chu Trinh. Trong bài báo, Truyền có nhắc lại cuộc nói chuyện của Phan Chu Trinh về Đạo Đức và Luân Lý Đông Tây, nhưng giọng văn cay đắng, tác giả đã quá đà: Chỗ mà Phan Chu Trinh nói về ‘’các dân tộc hiếu chiến’’, Truyền đâm ra thóa mạ quốc gia chủ nghĩa phương Tây.

Chúng tôi e ngại đụng chạm tới lòng kiêu hãnh (của người Phương Tây) vẫn phải nói tới cái sự thật chói tai nhất đối với họ, cái sự thật mà chúng tôi đã đọc qua các biên niên sử của đất nước họ. Đó là cái tình trạng mà tổ tiên họ đã sống và ngày nay chính họ cũng đang sống dưới áp lực của một di căn! Di căn gì vậy? Chính là cái di căn về sự tàn sát, sự cướp bóc và hiếp dâm.

Hãy thử nhìn xéo một cái về phía người Rome, họ là những kẻ cướp nổi tiếng. Còn người Germains thì sao? Họ có giá trị gì đối với thuần phong mỹ tục, nếu như ta tin tưởng Nhà Sử Học Tacite?

Đạo Thiên Chúa, đã lăn lưng vào những cuộc Thập Tự Quân (Croisades), một cuộc cướp bóc tập thể khủng khiếp. Rồi đến thời gọi Phục Hưng (Renaissance) là thế nào? Sao không phải là thời kỳ mà những sự thèm khát cổ xưa về cướp bóc và tàn sát, vừa mới được thỏa mãn trong các cuộc Thập Tự Quân, lại được phục hồi rồi nhờ chiếc địa bàn hướng dẫn, đã phi nhanh đi khắp thế giới.

Thế rồi, cùng với cái di sản khủng khiếp của quá khứ và của chủng tộc đè nặng lên các dân tộc phương Tây, lại có thêm cả máy móc.

Tự thân nó máy móc không tốt không xấu, nhưng nó đã nhanh chóng trở thành công cụ hoàn hảo trong các cuộc hành động bạo tàn. Đây chính là kỷ nguyên xuất sắc của những cuộc tàn sát quốc tế, những cuộc cướp bóc thuộc địa tàn phá đất đai trên toàn thế giới.

Lịch sử các dân tộc phương Tây có thể tóm lại thành vài chữ: Tính tàn ác di truyền được kích thích qua nhiều thế kỷ, ngày nay lại được tăng cường thông qua việc sử dụng máy móc.

Người ta có quyền gì mà đem đánh đồng chúng ta với Chủ Nghĩa Quốc Gia Phương Tây? và tại sao lại ghép tôi chúng ta là những kẻ phong kiến, bọn bài ngoại?

Sự suy nghĩ của Nguyễn Thế Truyền về máy móc ‘’ tự thân nó không tốt không xấu, nhanh chóng trở thành công cụ hoàn hảo trong các cuộc hành động bạo tàn’’, và nhất là sự bao tàn của thực dân, gợi lại sự nguy hiểm của mỗi ‘’ tiến bộ’’ (progrès) mà Karl Marxđã nêu ra 71 năm về trước:

Ngày nay, mọi vật đều hiện ra cái mặt trái xấu xa của nó. Máy móc có sức mạnh kỳ diệu là rút ngắn thời gian lao động của con người và làm cho sản xuất hữu hiệu hơn nhưng lại có kết quả là con người đói khó và kiệt lực. Do một sự thay đổi bất chợt kỳ lạ của số phận, những nguồn tài phú mới lại trở thành những nguồn tạo nên sự khốn cùng. Dường như mỗi thắng lợi kỹ thuật đều phải trả giá bằng một sự suy thoái của con người. Nhân loại càng làm chủ thiên nhiên thì cá nhân con người càng để cho đồng loại thống trị mình hoặc tự mình dẫn thân vào cảnh suy tàn bĩ ổi. Ngay đến cái ánh sáng thanh cao của khoa học muốn cho rực rỡ lên dường như cũng cần phải có những lớp người ngu dốt tối tâm. Tất cả mọi phát minh của chúng ta, tất cả mọi tiến bộ của chúng ta dường như chỉ đem lại một kết quả là cung cấp sự sống và trí tuệ cho những sức mạnh vật chất và hạ thấp đời sống con người xuống ngang hàng với một sức mạnh vật chất. (37)

Trong bài Lời kêu gọi những người An Nam tán đồng chủ nghĩa tư bản, người em của Ngyễn Thế Truyền là Song không bàn luận trên lĩnh vực tâm lý-triết học mà bàn luận trên lĩnh vực kinh tế:

Tố cáo những vụ tham nhũng và tội ác của cơ quan cai trị, làm mất mặt chính phủ và bọn quan lại cai trị, kêu gọi đồng bào đứng lên tự bảo vệ, cũng tốt thôi nhưng quên mất cái nguyên nhân đầu tiên làm cho dân tộc ta khốn khổ, là do chủ nghĩa đế quốc tài chính, thì chỉ làm lợi cho bọn lý tài Fontaine, Homberg và các tập đoàn của chúng!

Nếu như đúng là ‘’sự hợp tác’’ với chính quyền về mặt hành chính chỉ là sự hợp tác giữa cái cày và con bò, thì cũng là đúng nếu có sự hợp tác về phương diện kỹ nghệ, thương mại và nông nghiệp với những ‘’con cá mập’’ lớn của ủy ban Đông Dương, là phản phút đối với toàn thể dân tộc ta và cả nhân dân Pháp vì chính nhân dân Pháp cũng không có chi là đồng loạt với bọn cá mập thực dân.

Bùi Ái, nguyên là giáo viên, viết bài nói về sự cần thiết phải có một nền giáo dục chuyên nghiệp thực sự để đào tạo những thợ lành nghề và những kỹ thuật viên cao cấp, đem lại lợi ích cho việc giải phóng nền kinh tế An Nam còn hơn là đào tạo một nhóm trí thức tách ngoài đời sống của đại đa số nhân dân. Thế lực tối cao của bọn thực dân sở cậy vào máy móc làm vũ khí, ta phải đem máy móc quay ngược trở lại đập vào chúng. Người An Nam phải tự xuất tiền xây dựng những trường chuyên nghiệp thay đổichương trình của các hội đoàn giáo dục tương tế theo hướng kỹ thuật, bãi bỏ những cuộc bình thơ bất tận, mở một quỹ ủng hộ quốc gia để giúp đỡ những học sinh kém may mắn và cấp học bổng cho họ ra học nước ngoài...Tóm lại, là phải bù đắp vào chỗ kém khuyết mà chính quyền thuộc địa chẳng làm nên điều gì trong vòng nửa thế kỷ nay:

Tôi đã học tập 18 tháng tại Trường Chuyên Nghiệp ở Huế. Buổi sáng từ 6 đến 12 giờ, buổi chiều từ 1 giờ 30 đến 6 giờ học trò vào xưởng để học việc thoa mỡ thoa dầu vào các máy móc, mài sắc các công cụ, rèn những êke (équerres) và vòng tròn, tiện gỗ và sắt, rồi lau hết và quét dọn công xưởng. Học sinh không được nghe giảng về lý thuyết.

Nghe Bùi Ái người ta nhận ra một chương trình tương tự như của Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh và những sĩ phu Duy Tân đầu thế kỷ, một nỗ lực bị đàn áp vào năm 1908 nhưng vẫn không ngưng tiếp tục nảy sinh.

Vào tháng 9 năm 1927, đảng này mới đăng lời tuyên bố thành lập bằng chữ Quốc Ngữ trên tờ Việt Nam, cơ quan ngôn luận mới của Đảng Việt Nam Độc Lập. Tờ báo do Đặng Văn Thu Chủ Nhiệm, nhằm phục vụ cho các tầng lớp bồi bếp, thợ sơn lắc, thủy thủ và nhất là dân chúng ở trong nước, nhờ các thủy thủ cách mạng chuyển giao bí mật về xứ nhà.

Toàn Quyền Đông Dương trong một điện tín gửi cho Bộ Trưởng Thuộc Địa ngày 10 tháng 4 năm 1927 có ghi: ‘’Mặc dù kiểm soát gắt gao từ các bến nhập cảng và trong nội địa xứ thuộc địa, nhiều báo chí ấy đã đến tay người nhận rồi lưu hành từ tay này sang tay khác trong các giới cách mạng Đông Dương’’. Vào tháng giêng, Sở Mật Thám tịch thu được 345 tờ Phục Quốc tại Nam Kỳ và 242 tờ ở Bắc Kỳ. Tại Sài Gòn, những trẻ em rao báo thường ngầm trao những báo bí mật, đồng thời rao bán Đông Pháp Thời Báo, một tờ báo đối lập được phép lưu hành ở địa phương.

Báo Việt Nam chỉ ra được một số. Ngày 14 tháng 10, Đặng Văn Thu - chủ nhiệm tờ báo, nguyên là chủ tiệm cơm ở Le Havre, người đã được cảnh sát lưu ý từ 1920 - bị khởi tố vì ‘’tội phân phát tờ báo bị cấm trên đường phố, cùng tội đánh đập và làm tổn thương nhân viên nhà nước, cùng tội thóa mạ các quan tòa’’. Anh bị kết án 1 tháng tù giam và 600 francs tiền phạt.

Nguyễn Thế Truyền đi vận động khắp nhiều nơi. Vào tháng 9 đồng cùng Nguyễn An Ninh đến chống đối chủ trương của Dương Văn Giáo và Trịnh Đình Thảo tại Đại Hội Sinh Viên họp ở Aix en Provence. Hai luật sư nầy tuyên truyền rằng dân thuộc địa có thể hợp tác với bọn thực dân. Truyền và Ninh cố ngăn ngừa thế hệ thanh niên mới khỏi sa vào ảo vọngấy, ảo vọng do Đảng Lập Hiến duy trì bền cố từ lâu. Ngày 17 tháng 10, Truyền lên tiếng tại Paris, nơi Hội Các Nhà Bác Học, trong một cuộc họp do Félicien Challaye chủ trì, gồm ‘’Liên minh chống áp bức thuộc địa và chống đế quốc’’ và ‘’Liên minh bảo vệ chủng tộc da đen’’.

Cuối tháng 10, có tin bọn chủ đồn điền Michelin ở Phú Riềng săn lùng bắt độ trăm phu đã nổi dậy chống đối(38). Cùng với Hội Nhân Quyền, với thủ lĩnh Lập Hiến Dương Văn Giáo và thủ lĩnh của Đảng An Nam Thanh Niên Trịnh Hưng Ngẫu, Nguyễn Thế Truyền báo động công chúng Pháp, trong một loạt hội họp mới ‘’chống khủng bố ở Đông Dương’’: Ở Toulouse ngày 23, ở Montpellier ngày 24, ở Bordeaux ngày 25 và Marseille ngày 27. Rồi tại đây người ta phân phát một truyền đơn ‘’kêu gọi lương tâm nhân dân Pháp’’.

Sau mươi năm tự nguyện lưu vong tại Pháp, Nguyễn Thế Truyền cảm thấy như cầu trở lại đắm mình vào bầu không khí quê hương. Người giao phó trách nhiệm Đảng An Nam Độc Lập cho các bạn chiến đấu cũ cùng Tạ Thu Thâu, một thanh niên trẻ mà Nguyễn An Ninh vừa giới thiệu. Sau đó vào tháng chạp năm 1927, Truyền xuống tàu cùng vợ (người Pháp) và hai con gái. Nguyễn An Ninh cũng đồng đi một chuyến. Tới Sài Gòn ngày 7 tháng giêng năm 1928, họ được hàng trăm thanh niên tiếp đón với những bó hoa và những lời hô vang ‘’Việt Nam vạn tuế!’’.

Trước mắt hai nhà cách mạng đâu là triển vọng? Vào tháng 3 năm 1928, Phan Văn Trường bị kết án ‘’tuyên truyền vô chính phủ’’, và sau đó báo L'Annambị cấm, hai sự việc ấy dường như báo hiệu không còn có thể hoạt động hợp pháp ở xứ này nữa.

Trần Văn Thạchvà tờ Báo của Sinh viên An Nam

Xuất thân từ một gia đình trung lưu ở Chợ Lớn, Trần Văn Thạch rời Sài Gòn sang Pháp ngày 3 tháng 5 năm 1926, khi anh 23 tuổi. Tại Toulouse, nơi anh ghi danh khoa học cử nhân triết học, liền thấy mình khấp khởi giữa bầu không khí suy tưởng về chính trị. Anh đọc báo Việt Nam Hồn, báo ấy đã ra tới số 5. Qua ngày 14 tháng 6, anh làm cho cảnh sát đặc biệt lưu ý đến anh về một bài báo anh viết về tình hình Đông Dương đăng trong báo Miền nam xã hội chủ nghĩa (Le Midi socialiste). Từ Toulouse anh tham gia tìm đường giải phóng đất nước. Quá trình này dường như song song với con đường của Đảng Việt Nam Độc Lập. Vào tháng 3 năm 1927, anh tung ra tờ báocủa Sinh viên An Nam(Journal des étudiants annamites). Khoảng đó vào tháng 4 ở Aix en Provence, sinh viên cho ra tờ An Nam Học Hiệu(L'Annam scolaire) bằng hai thứ tiếng, bao gồm những bài viết chuẩn bị cho cuộc đại hội vào tháng 9 mà chúng ta đã thấy Nguyễn An Ninh cùngNguyễn Thế Truyền luận chiến chống lại phái Lập Hiến. Từ ngày 10 tháng 6, tình hình sôi động của sinh viên làm cho viên chưởng lý ở l'Aix lo ngại, y viết thư cho Bộ Tư Pháp:

Dường như ta cần phải chọn lọc những đợt du học từ thuộc địa sang Pháp, nếu như ta không muốn cho các trường cao đẳng dẫy đầy những đám người không được chuẩn bị hoàn hảo để học theo hệ thống giáo dục của chúng ta, để noi theo tinh thần tự do về tư tưởng và về ngôn luận; những con người không được chọn lọc như thế thì họ dễ bị những phần tử có hại (mà ta đã biết) cám dỗ họ.

‘’Những phần tử có hại mà ta đã biết’’ chính là những người lưu vong An Nam tại Pháp đã gia nhập đảng cộng sản Pháp và Đảng An Nam Độc Lập; những đảng viên của Đảng An Nam Độc Lập đang được tuyên truyền rầm rộ tại các trung tâm đại học ở các tỉnh và các cảng lớn như Le Havre, Marseille, Bordeaux.

Tờ báo của sinh viên tháng 5 công bố muốn ‘’làm bước quá độ giữa một nước An Nam đã kết cuộc và một nước An Nam mới bắt đầu’’. Vào tháng 7, tờ báo phân tích một cách vô tư hai khuynh huớng của sinh viên: Khuynh hướng ‘’già’’, tự cho mình là thiết thực, gồm những người theo hướng hợp tác giữa người Pháp và người Việt; còn khuynh huớng kia là ‘’trẻ’’ chỉ một mực giản đơn là đòi nền độc lập cho xứ sở. Những người ‘’già’’ cho rằng chỉ cần đề huề với Pháp để được Pháp ban cho người Việt những quyền cơ bản như người Pháp được huởng, không cần gì hơn, bởi vì An Nam không có lực lượng quân sự, lực lượng kinh tế, lực lượng nghiệp đoàn, và cũng chẳng có dư luận công chúng. Còn những người ‘’trẻ’’ muốn được độc lập ngay, họ không thể chịu đựng lâu nữa ‘’cái chế độ bất công mà chính phủ Pháp áp đặt ở Đông Dương, một chế độ nô dịch không để một mức độ nào cho thanh niên tự phát biểu, một chế độ mà ở đó công quyền bị khinh thường, còn sức mạnh lại được hoan nghênh cổ vũ’’. Xu hướng trẻ vẫn biết chắc rằng ‘’sự kiên trì cuối cùng này về cao vọng tập thể của họ’’ sẽ chẳng đi đến đâu. Ngoài ra, chủ trương của xu hướng già là hợp tác giữa chủ và nô lệ căn cứ trên tình trạng không có bình đẳng, rồi ra cũng không đem lại kết quả gì xứng đáng cho dân tộc.

Trần Văn Thạch dường như không biết đến phân ban thuộc địa của đảng cộng sản Pháp, dường như cũng không thoáng nghĩ tới việc có thể dựa vào Đệ Tam Quốc Tế và Liên Sô.

Ngày 15 tháng chạp 1927, Báo sinh viên đăng bài‘’Một giấc mơ độc đáo’’, trong đó Thạch mơ đến một xã hội Sài Gòn vào năm...1953, vẫn còn dưới chế độ thực dân, trong đó hai đảng lớn luôn luôn chạm trán, một đảng độc lập do giai cấp tư sản An Nam chủ trương và đảng kia là của những người lao động; anh kết luận dự đoán của mình bằng lời kêu gọi của một nhà tư sản năm 1955 đề đạt với đảng của mình như sau:

Một chương trình hành động tốt nhất mà chúng ta có thể chấp nhận được, là cái chương trình vừa bao gồm giải pháp cho vấn đề xã hội vừa là giải pháp cho vấn đề quốc gia dân tộc. Sự đoàn kết của người An Nam là điều cần thiết và sự đoàn kết này chỉ có thể thực hiện được bằng cách giai cấp tư sản An Nam tự nguyên hy sinh cho giai cấp vô sản, bằng cách chìa tay nhân đạo và thân ái ra với họ.

Nếu như then chốt giải quyết vấn đề độc lập nằm trong sự đoàn kết dân tộc thì sự đoàn kết này chỉ có thể tiến hành được trong một triển vọng xã hội mới; triển vọng này được biểu đạt qua các tờ báo của sinh viên, báo Tương lai xứ An Nam (L'Avenir de l'Annam), báo Tái Sinh (La Résurrection), và thông qua mọi tổ chức hội đoàn sinh viên. Các lớp thượng lưu trí thức phải tự phán, đó là một nhã quan xã hội mới được coi như cốt cán của công cuộc giải phóng.

Tháng giêng năm 1928, Trần Văn Thạch viết:

Tôi mong rằng một khi những sinh viên trở về Đông Dương, họ phải giữ mình không nên kết thành một lớp tư sản mới, nhà giàu mới trong giới giáo dục, và sống với thái độ khinh bỉ nhân dân. Trái lại họ phải chia xẻ khốn cùng và khổ nhọc với nhân dân, và chung cùng nhân dân để hoạt động đẩy nhanh tới ngày giải phóng chúng ta. Tôi có những người bạn theo khuynh hướng hợp tác với thực dân. Tôi đã chia xẻ ý tưởng đó với họ. Bây giờ tôi không cùng quan điểm với họ chút nào nữa.

Tháng 10 và 11 năm 1928, tờ Tương lai xứ An Nam nêu rõ:

Muốn phát động được quảng đại quần chúng nông dân thì không phải chỉ cần hứa hẹn nền độc lập hình thức cho xứ sở là đủ, mà phải gắn bó cuộc đấu tranh giành độc lập ấy vào cuộc thỏa mãn những nhu cầu cơ bản của nhân dân, mà cái nhu cầu cơ bản cấp thiết nhất là vấn đề ruộng đất. Phải chặt đứt những mối giây ràng buộc nô dịch phong kiến không sao chịu đựng nổi, phải chấm dứt cái quyền sởhữu đất đai của các đại địa chủ. Ruộng đất trở về tay người cày! Xứ An Nam hoàn toàn độc lập! Đó là hai mục đích không thể tách rời nhau được.

Muốn được tự do thực sự, giành được độc lập về chính trị chưa đủ đâu. đồng thời phải giành được độc lập về kinh tế, đối kẻ áp bức là người Pháp đông như đối kẻ bóc lột là người đồng hương.

Toulouse, sinh viên đã đề khởi xu hướng liên minh chống lại du học về làm công chức và chống việc xin nhập quốc tịch Pháp. Các hội viên đều thề nguyện là sẽ khước từ bất kỳ một chức vụ nào trong quan trường khi họ trở về Đông Dương.

Sau một thời gian ngắn ở Sài Gòn, từ tháng giêng đến tháng 8 năm 1928, Thạch trở sang Paris, tiếp xúc Tạ Thu Thâu và cả nhóm lãnh đạo Đảng An Nam Độc Lập được tổ chức lại. Anh gặp gỡ Phan Văn Trường, lại phát hành tờ Báo Sinh Viên và viết bài trong tập kỷ yếu của Liên minh chống đế quốc, tổ chức này thành lập vào tháng 2 năm 1927 ở Bruxelles (Bỉ).

Ngày 12 tháng 2, Trần Văn Thạch chủ trì cuộc họp khoảng 200 sinh viên và lao động An Nam, tại số 3 phố Soufflot để phản đối bài diễn văn của chủ tịch Tổng Hội Sinh Viên Đông Dương, khuyến khích hợp tác với Pháp và khuyến học để thành chức nghiệp, đọc tại Khu Đại Học Paris nhân dịp đặt viên gạch đầu tiên để xây dựng Ngôi nhà Đông Dương. Một lần nữa anh khẳng định rằng cái mục đích duy nhất của sự học tập là để giải phóng quê hương. Năm tháng sau, văn phòng của Tổng Hội Sinh Viên Đông Dương tại Paris chuyển sang tay những người tán thành Đảng An Nam Độc Lập.

Tháng giêng năm 1929, Thạch nhấn mạnh trên tờ Báo Sinh Viên về sự đoàn kết giữa trí thức với lao động là quan trọng nhất. Anh lên tiếng phản đối Bộ Thuộc Địa về việc trục xuất sinh viên An Nam.

Tháng giêng năm 1930 Thạch về ở luôn Sài Gòn, dạy văn học Pháp trong các trường tư để sống. Nhằm năm đầu tiên cuộc khủng hoảng thế giới ghê tởm này, có hai vụ bùn nổ chính trị long trời lở đất làm rung chuyển toàn xứ, cuộc lính tập Yên Bái khởi nghĩa và một phong trào nông dân lan rộng, kéo theo cuộc khủng bố trắng không tránh khỏi.

Tạ Thu Thâu với báo Tái Sinh (La Résurrection)

Sau khi Nguyễn Thế Truyền về xứ, các đồng chí của ông đã phát hành vào ngày 1 tháng 4 năm 1928, một bản chương trình sơ thảo, khổ bỏ túi, đóng bìa vàng có 5 ngôi sao, nhan đề Lời kính chào đồng bào, dưới ký Đảng Việt Nam Độc Lập, một lần nữa xác định

Mục đích của đảng là tìm mưu đạt kế để khôi phục quyền độc lập cho dân Việt Nam, độc lập rồi sẽ dựng chính thể dân chủ hay chính thể quân chủ, bênh vực và cởi mở cho đồng bào bị bọn quý tộc và kẻ tư bản ức hiếp, nâng đỡ cho họ lên cái địa vị xứng đáng với họ cho hợp lẽ công bình và nhân đạo.

Đối với Đảng Việt Nam Độc Lập thì phong kiến chính là vua ‘’tên bù nhìn đã ký vào hòa ước bán nước’’, và giới quan lại, ‘’bọn chó săn hung dữ chỉ có một việc là săn đuổi dân chúng’’. Còn những ai là bọn tư bản nếu không phải là những chủ thầu và những nhà đầu tư người Pháp? Và sẽ thực hiện nền dân chủ nào? Đó là một nền dân chủ thấm nhuần đạo đức phương Đông, có khả năng hạn chế những tệ nạn của chế độ tư bản. Giai cấp tư sản Việt Nam sẽ biết cách thiết lập nền dân chủ mang tính nhân đạo và họ sẽ quản lý nền dân chủ đó làm số phận của nông dân và thợ thuyền sẽ dễ chịu hơn.

Ở đây ta thấy còn xa với tư tưởng của Karl Marx về sự công nhân tự giải phóng lấy mình, và ngay cả ‘’giai cấp đông đảo nhất và nghèo khổ nhất’’ tự giải phóng. Chính hạng trí thức sẽ lãnh đạo và cầm quyền trong công cuộc biến đổi xã hội.

Tuy nhiên, Đảng Việt Nam Độc Lập cũng hứa sẽ từ bỏ việc lãnh đạo chính trị một khi đã giành được độc lập. Bi kịch của Trung Hoa năm 1927 đã làm đảo lộn suy nghĩ của Đảng Việt Nam Độc Lập: Đảng không muốn có một chính quyền độc đoán kiểu Quốc Dân Đảng. Đảng Việt Nam Độc Lập mong muốn rằng giới thợ thuyền, nông dân, nhà buôn, công chức, quân nhân v.v...bầu lấy đại biểu của giới mình nhằm thiết lập một chính phủ ‘’thỏa mãn quyền lợi của mọi người’’.

Giọng văn bản chương trình này gây xúc động trong khi gợi lại cuộc sống của tầng lớp thợ thuyền và nông dân đồng như trong lời kêu gọi kết thúc:

Đồng bào! Người ta to miệng cả lời mà ta phải cầm hơi ngậm tiếng; người ta hống hách vui cười, mà ta thì sẽ bẽ bàng sầu tủi. Kìa tai to, kia mắt lớn, nào tự đại, nào tự cao, thế nào đành nhắm mắt làm thinh, thế mà đành cúi đầu chịu nhục, còn trách chi ai!

Muốn khôn thì phải học, muốn khéo thì phải làm, muốn tự do sung sướng ngồi đó có được không?

Việt Nam Độc Lập Đảng là một đảng không muốn làm thinh, không chịu cúi đầu; là một đảng lo cho nước sung sướng, cần cho dân tộc, mong rằng anh em sẽ tán thành phù trợ cho!

Tại Paris, Đảng Việt Nam Độc Lập tổ chức 150 đảng viên thành ba phần bộ: Sinh viên khu Latin, thợ sơn lắc ở Cổng L'Orléans, bồi bếp ở Quảng Trường L'Étoille. Đảng này nhấn mạnh vào mặt tuyên truyền hơn là hoạt động. Đảng lập một ủy ban tổ chức những cuộc trao đổi thân mật và một Hội Khuyến Học. Đảng phối hợp công việc bí mật với hoạt động hợp pháp. Tại các tỉnh, khoảng 50 đảng viên giữ mối liên hệ với các hiệp hội thủy thủ và sinh viên.

Mật thám kiểm soát tại Sở Bưu Điện Nam Kỳ tịch thu các gói bưu kiện có những tập sách trên gửi cho bí thư nông hội Long Xuyên, gửi cho một giáo viên ở Gò Công, một thông ngôn ở tòa án Cần Thơ...rồi ngày 16 tháng 9, Toàn Quyền Đông Dương ra lệnh giải tán Đảng Việt Nam Độc Lập.

Ngày 17 tháng 7, khi ban cán sự đảng lại đến xin đăng ký hoạt động của đảng tại Sở Cảnh Sát một lần nữa, họ vẫn bị từ chối mặc dù có hai Luật Sư Torrès và Gérard Rosenthal can thiệp.

Được tin Nguyễn An Ninh bị bắt lần thứ hai, ghép vào tội âm mưu, Đảng Việt Nam Độc Lập tổ chức một cuộc mít ting phản kháng ngày 16 tháng chạp năm 1928 và gửi cho Ninh cùng các bạn của người bản thông điệp đoàn kết hữu ái của 250 người An Nam ở Pháp. Những đại biểu ở các nơi như Le Havre, Toulouse, Bordeaux, Marseille đều có mặt. Năm hôm sau, Liên minh chống áp bức thuộc địa và chống đế quốc củaFélicien Challaye cũng lên án sự đàn áp, đồng thời cũng lên án các thế lực tài chính bóc lột Đông Dương, lên án các độc quyền khả ố đã vận động ép buộc dân phải tiêu thụ một số rượu, và để cho tự do hút thuốc phiện do Nhà nước độc quyền bán ra. Liên minh phản đối mạnh mẽ sự quyết định tăng thêm khoản thu nhập từ các thuộc địa và dự án luật phạt tù từ 1 đến 5 năm và từ 100 đến 5000 francs, đồng thời tước quyền chính trị và đày lưu xứ ‘’những ai hoạt động chạm đến sự toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, hoặc phân ly phần lãnh thổ mà chính quyền Pháp cai trị’’. Liên minh tán thành ý đồ của thanh niên Đông Dương đòi quyền độc lập hoàn toàn cho xứ sở, thậm chí Liên minh còn tuyên bố hết sức ủng hộ.

Cũng trong tháng đó,Tạ Thu Thâu, Huỳnh Văn Phương, Phan Văn Chánh...tung ra tờ báo hằng tháng Tái Sinh (La Résurrection), ‘’cơ quan thanh niên cách mạng An Nam’’, đặt trụ sở tại nhà Phương ở Cachan, ngoại ô Paris. Tờ báo bị cấm ngay từ trong nhà in. Số 3 là số cuối cùng in bí mật tại Toulouse. Báo lên tiếng phản kháng dữ dội chống tịch thu, trong bài ‘’Tư tưởng bị cầm tù’’:

Thời Hoàng Đế Tibère người ta không trừng phạt tư tưởng: Nemo cogitationis poenam in foro patitur.

Thế mà ngày nay, dưới sự bảo hộ của chính phủ Đệ Tam Cộng Hòa, các nhà in hầu như trở thành những nấm mồ chôn Sự Thật. Chẳngthế mà vừa ló mặt ra với đời, hơn bốn ngàn ấn bản của tờ Tái Sinhbị thủ tiêu, bị ám sát.

Những cung cách đó không còn làm chúng tôi ngạc nhiên nữa.

Những nguyên tắc Cộng Hòa và Dân Chủ không phải đạt ra cho chúng tôi được hưởng, chúng tôi những kẻ khốn cùng ở thuộc địa.

Vả lại, chính phủ Pháp chỉ làm cái việc mà họ phải làm, đó là: Một uy quyền nảy sinh từ võ lực liệu có thể duy trì được không nếu như không độc đoán? Tại sao chúng tôi lại phàn nàn? Chúng tôi xứng đáng với số phận kẻ tùng phục. Chính Clémenceau đã nói thẳng với chúng tôi rằng: ‘’Không có công lý, không có tổ quốc, không có tự do đối với những kẻ nhẫn nhục, những kẻ cứ chịu mãi mãi phục tùng’’Vậy từ nay chúng tôi không còn gì ngần ngại nữa trên bước đường chúng tôi theo đuổi.

Trong thời gian ra đời ngắn ngủi, tờ báo đã đăng bản báo cáo của Delamarre, viên thanh tra có khuynh hướng nhân văn, được phó trách nhiệm điều tra sở cao su Mimot tháng 3 năm 1928, vạch trần cảnh sống phu phen cao su dưới chế độ nô lệ sát nhân ở đó (xem phụ chú 38). Tờ báo đã thử đưa ra những bài lý luân về tiến hóa xã hội và các phong trào cách mạng, đôi chỗ có dùng đến từ ngữ củaKarl Marx nhưng hầu như không minh giải chút nào theo duy vật lịch sử quan, xáo trộn tư tưởng đấu tranh giai cấp vào tư tưởng quốc gia như đã thấy trong tập chương trình phát ra hôm tháng tư:

Nếu người ta quan sát cẩn thận một sự biến đổi nào đó thì người ta sẽ thấy trong quá trình ấy có hai sự việc kế tiếp nhau, mà sự việc thứ hai là kết quả tất yếu của sự việc thứ nhất. Trước hết là một sự biến đổi từ từ về những ý tưởng, về nhu cầu, về những phương tiện hành động trong nội bộ một xã hội. Đến một lúc sự biến đổi tiến tới mức cao rồi phát hiện trong mọi sự việc, lúc ấy xã hội đột ngột khủng hoảng một cách quyết liệt, đó là cách mạng. Vậy cách mạng chỉ là sự biểu hiện đột ngột của một quá trình thay đổi đã được chuẩn bị từ rất lâu và không thể tránh khỏi. Ở An Nam hai giai cấp đứng lên chống chọi nhau, có một đặc điểm là không cùng chung một chủng tộc. Và cuộc đấu tranh giai cấp, đặc tính mọi cuộc nội chiến, đối với chúng ta lại trở thành cuộc đấu tranh chủng tộc. Tại xứ An Nam, cái giai cấp được hưởng những đặc quyền bất công, cái giai cấp mà cách mạng phải đánh đổ, đồng thời cũng chính là kẻ thù chủng tộc của chúng ta, kẻ đã chiến thắng, thống trị và bóc lột chúng ta.

Tờ báo không chủ trương như Karl Marx, cho rằng mọi triết thuyết chỉ đưa ra những giải pháp hư ảo đối với các vấn đề của loài người nếu các điều kiện kinh tế chưa hiệp hội đầy đủ. Tờ báo chỉ ra rằng đạo đức cổ đại là nguyên động lực của một hành động cách mạng có khả năng không những đạt được nền độc lập mà còn xây dựng được một xã hội công bằng và đoàn kết lâu dài.

Đồng thời tờ báo cũng lên tiếng chỉ trích những người theo Đảng Lập Hiến, không những chỉ vì họ tin tưởng ngoan cố rằng có thể hợp tác với chủ nghĩa thực dân, ‘’một hành động thô bạo và vạn ác’’, mà còn chỉ trích họ là đã toan tính làm cho đồng bào hãi sợ, họ ‘’phơ phất cái bóng ma nội chiến’’. Mạnh hơn nữa, tờ báo còn thóa mạ lòng ích kỷ của bọn lập hiến vì đối với họ lợi tư của họ là trọng hơn nền độc lập. Một đảng viên lập hiến phải chăng đã từng trắng trợn tuyên bố trong một cuộc phỏng vấn của tờ Trung Lập(L'Impartial), được đăng lại trong tờ Tái Sinh số 3 như sau:

Trong giới thượng lưu An Nam, chúng tôi mọi người đều có những quyền lợi, tài sản và chắc các ông cũng biết rằng chúng tôi không có ngu ngốc đến nỗi bỏ liều quyền lợi và tài sản của mình trong một cuộc đảo lộn chính trị.

Nhóm Cộng sản An Nam: Lao Nông (1928 -1930)

Đệ Tam Quốc Tế lúc này đã đến đâu?

Vào tháng 10 năm 1917, những người Bolshevik đã hy vọng ‘’báo hiệu một cuộc cách mạng vô sản ở phương Tây’’, cuộc cách mạng mà Karl Marx đã dự kiến coi như một điều kiện để nước Nga có thể tiến đến chủ nghĩa cộng sản (39), mà họ không cần phải chờ đến khi những sinh sản lực trong xứ của họ phát triển theo con đường tư bản chủ nghĩa của giai cấp tư sản.

Nhưng cuộc toan mưu cách mạng vô sản đầu tiên trong một nước công nghiệp hóa như nước Đức năm 1918 đã bị thất bại. Karl Liebknecht và Rosa Luxemburg hai nhà lý luận của cuộc cách mạng ấy đã bị ám sát ngày 15 tháng giêng năm 1919 và các Hội Đồng Công Nhân (Conseils Ouvriers) mọc lên từ tháng 11 năm 1918 đã bị đặc quân của Noske tàn sát. Noske là thủ lĩnh đảng dân chủ xã hội, rồi cuộc Cách Mạng Đức phải dừng lại ở giai đoạn cộng hòa cải lương.

Tại Moscou, ngày 4 tháng 3 năm 1919, ‘’Đại hội quốc tế các đảng vô sản cách mạng’’ do Đảng Bolshevik triệu tập, Đại hội tuyên bố thành lập Quốc Tế Cộng Sản, nhằm tập hợp lực lượng công nhân để thanh toán chế độnô dịch tư bản chủ nghĩa trên toàn thế giới. Trong thư mời, do Trotski viết, có kêu gọi hướng chung tiến tới một nền ‘’dân chủ vô sản’’, tiến tới ‘’chính quyền của các hội đồng thợ thuyền hay những tổ chức công nhân’’, nói cách khác, là gây dựng chính thể mà Karl Marx gọi là ‘’vô sản chuyên chính’’.

Mặc dầu cách mạng thợ thuyền Đức 1918 thất bại và phong trào công nhân thế giới suy thoái, tinh thần lạc quan về cách mạng không diệt vong liền theo đó, vả lại Hồng Quân do Trotski lãnh đạo lần lượt giải phóng những đất đai bị quân binh của Ioudenitch, Denikine, Kolchak, Kormilov... chiếm đóng. Trong diễn văn khai mạc Đại Hội Quốc Tế Cộng Sản lần thứ hai, ngày 17 tháng 7 năm 1920, Lénine tỏ niềm trông cậy mới vào ‘’các quần chúng bị áp bức trong các thuộc địa và ở phương Đông’’, và tỏ hy vọng mới cho họ.‘’Một trong các nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta bây giờ là đặt ngay một viên đá đầu tiên của phong trào Sô-viết trong các xứ không phải là xứ tư bản. Những Sô-viết có thể thành lập ở đây sẽ không phải Sô-viết công nhân mà là những Sô-viết nông dân’’ (40) Mặc dù Hồng Quân đang lâm nguy trước vành đai Vasovie, Lénine vẫn kết luận bằng lời công bố niềm tin tưởng này:

Nếu các đồng chí chúng ta ở tất cả các xứ hiện nay đều có thể giúp đỡ chúng ta, thì không có gì có thể ngăn cản chúng ta hoàn thành sự nghiệp của chúng ta, là thực hiện cách mạng vô sản toàn thế giới, là xây dựng nền Cộng Hòa Sô-viết thế giới.

Tuy nhiên, giai cấp vô sản ở các nước công nghiệp hóa không nổi dậy hoặc bị thất bại. Sự chuyển hướng về chính trị bắt đầu và ngay từ trước khi Lénine mất, vào tháng giêng năm 1924, Staline đã dựa trên một giả tưởng mà ông sẽ xây dựng thành học thuyết, đó là ‘’xây dựng chủ nghĩa xã hội trong một xứ riêng biệt’’. Triệt tiêu dần dần mọi xu hướng đối lập, Staline ra sức làm biến đổi nhanh chóng Nhà nước cách mạng Sô-viết thành Nhà nước quan liêu của đảng. Từ đó là sự tăng cường bóc lột công nhân và nông dân, cái nguồn tích lũy nguyên thủy của chủ nghĩa tư bản nhà nước, một chế độ thống trị và nô dịch trong đó những quyền lực về kinh tế và chính trị tuyệt đối thuộc về bộ máy quan liêu - giai cấp hoặc đẳng cấp xã hội mới này - đã thay thế cho giai cấp tư sản và địa chủ truyền thống.

Lúc bấy giờ không còn nói đến vấn đế cách mạng vô sản ở các nước công nghiệp hóa nữa. Người ta kích động những phong trào nổi dậy trong các nước thuộc địa và bán thuộc địa nhằm làm giảm bớt vòng vây đe dọa của chủ nghĩa đế quốc bằng cách gây rối các cường quốc. Đệ Tam Quốc Tế từ đó phụ thuộc vào quyền lợi của đẳng cấp thơ lại quan liêu, tục gọi là Sô-viết (Soviétique).

Vì vậy ở Trung Hoa, Moscou đã ủng hộ và vũ trang độc nhất cho quân đội tư sản của Quốc Dân Đảng, chỉ thị cho đảng cộng sản Trung Quốc buộc phải nhập khối vào Quốc Dân Đảng, nghĩa là biến thành bộ phận phụ thuộc của đảng này. Lãnh tụ sáng suốt nhất của đảng cộng sản Trung Hoa là Trần Độc Tú, bị Staline giận dữ và trấn áp khi người đòi hỏi quyền độc lập và võ trang cho đảng mình, một điều kiện sống còn đối với cuộc cách mạng ruộng đất và phong trào công nhân. Chính với vũ khí Nga mà Tưởng Giới Thạch đã tàn sát công nhân và đảng viên cộng sản ở Thượng Hải và Quảng Châu vào tháng 4 và tháng chạp năm 1927.

Năm 1928, tại Đại hội thứ sáu Quốc Tế Cộng Sản, Boukharine buộc đảng cộng sản Trung Quốc phải chịu trách nhiệm về những sai lầm của Staline. Thế rồi tổng bí thư Staline phải chấn chỉnh lại sách lược của mình áp dụng ở Á Châu, không phân tích và cũng chẳng sám hối. Từ đó Moscou dứt ủng hộ các đảng quốc gia ở các nước thuộc địa, và chỉ còn dự kiến việc đào tạo hoặc củng cố các đảng tôi tớ, các đảng gọi là cộng sản.

Một hậu quả tất nhiên là phân bộ thuộc địa của đảng cộng sản Pháp ly khai với Đảng Việt Nam Độc Lập.

Người thanh niên lưu vong Nguyễn Văn Tạo (sau này là Bộ Trưởng Lao Động của chính phủ Hồ chí Minh) bí mật đến Pháp vào tháng 5 năm 1926. Chẳng bao lâu anh là đảng viên đảng cộng sản Pháp, làm thường vụ có ăn lương. Vào tháng mà Đảng Việt Nam Độc Lập công bố tập chương trình, anh đã tập hợp vào tháng 4 năm 1928, một nhóm nhỏ gồm những người theo chủ nghĩa quốc gia như Hoàng Quang Giụ, hai thủy thủ ở Cảng Le Havre, bốn chiến sĩ ở Marseille và một người cháu của Nguyễn Thế Truyền là Nguyễn Thế Vinh vừa học xong một năm tại Trường Đại Học Lao Động Đông Phương ở Moscou. Họ phát hành tờ báo mới ra hàng tháng Lao Nông, số 1 bí mật ra mắt vào tháng 6. Tờ báo này, chủ yếu dành cho lớp người lao động chân tay, bước đầu huớng dẫn họ theo ABC ngôn ngữ cộng sản, trong đó tuyên bố như sau:

Mục đích của chúng ta là giành lấy độc lập để lật đổ chủ nghĩa tư bản. Khi cách mạng thành công, đảng của công nhân và nông dân(41)phải nắm lấy chính quyền.

Nguyễn Văn Tạo được cử đi dự Đại hội thứ sáu Quốc Tế Cộng Sản, không lên tiếng phê phán gì về sách lược Staline-Bukharin ở Trung Quốc. Anh chỉ an lòng đề đạt nguyện vọng làm cho Moscou lưu ý đến việc thành lập một đảng cộng sản ở Đông Dương.

Vụ Café Turqueti

Một cuộc ấu đả diễn ra tại tiệm café Turqueti (84 Đại Lộ Saint Germain, Paris 6e) ngày 9 tháng giêng năm 1929 đã làm lộ rõ sự chia rẽ giữa đảng cộng sản Pháp liên minh với Nhóm Lao Nông và Đảng Việt Nam Độc Lập. Nhân cuộc họp của nhóm Thanh Niên Ái Quốc của Taittinger, đại biểu của Đảng Việt Nam Độc Lập tới đó để phản đối một người tên là Đỗ Đình Thạch đã nói tới ‘’công ơn khai hóa’’ của thực dân Pháp. Cuộc họp biến thành cuộc ẩu đả. Đỗ Đình Thạch và hai ‘’Thanh niên ái quốc’’ bị thương. Tạ Thu Thâu, Huỳnh Văn Phương và hai đồng chí công nhân của họ bị dẫn tới bót cảnh sát phố La Huchette, hai hôm sau được thả ra. Chiều 10, Trụ Sở của Đảng Việt Nam Độc Lập bị lục soát, bàn ghế bị đập gẫy. Ngày 11, tờ Nhân Đạo (L'Humanité) cơ quan của đảng cộng sản Pháp tường thuật vụ trên một cách sai lạc tới mức dối trá:

Mọi người đều nhận thấy rõ ràng, các lãnh tụ của Đảng gọi là Việt Nam Độc lập đều vắng mặt một cách thận trọng, một đảng đã bốn lần thay đổi chương trình, nay họ cũng không dám đến phản đối những đồng bào phản bội sự nghiệp độc lập của Đông Dương.

Ba tờ truyền đơn - Hỡi đồng bào! Gian xảo hay khiêu khích? Sự thật cứ tiến - chỉ rõ rằng phía bị đả kích đã phản ứng. Tại sao đảng cộng sản Pháp muốn chia rẽ sinh viên và vô sản An Nam, tại sao họ không phản đối việc bắt bớ và lục soát, tại sao họ tung ra cái tin vu khống rằng các ‘’lãnh tụ vắng mặt’’? Tạ Thu Thâu đã dùng ngòi bút của mình mà nguyền rủa ‘’những kẻ ăn lương của phân ban thuộc địa trong đảng cộng sản Pháp’’, đã quyết định khai tử Đảng Việt Nam Độc Lập, nguyền rủa ‘’những chỉ dụ kiểu Nga Hoàng’’(oukases),‘’đế quốc Đỏ’’, ‘’cái mặt nạ mới của Châu Âu’’. Gần như một tiếng kêu tuyệt vọng chống lại bọn An Nam làm ‘’cách mạng chuyên nghiệp’’ để tìm địa vị.

Sự phẫn uất ban đầu đã êm dịu, tờ Tái Sinh số 3 không muốn gây thêm chuyện, họ chỉ ra lời cải chính như sau:

Những người tới dự cuộc họp đó hẳn đã chú ý là các chiến sĩ của Đảng Việt Nam Độc Lập có mặt ở đó, nhưng người ta có thể từ lời dối trá của báo Nhân Đạo mà kết luận rằng đảng cộng sản Pháp đã làm như vậy để lừa vào cái bẫy phát xít những người cách mạng An Nam nào không được Đệ Tam Quốc Tế công nhận? Quả thực chúng ta phải công nhận là trong các vụ bê bối ở thuộc địa và trong sự việc mà chúng ta quan tâm, chỉ có tả phái và đặc biệt đảng xã hội và cộng sản đã cố gắng bảo vệ chúng ta.

‘’Xứ An Nam không phải là một bộ phận nước Pháp’’

Ngày 21 tháng 3 năm 1929, tòa án dân sự ở Paris tuyên bố giải tán Đảng Việt Nam Độc Lập, với tội danh là ‘’chia rẽ nước Pháp’’.

Trước tòa án, Tạ Thu Thâu la lên:

Làm sao người ta có thể nói rằng nước An Nam là một phần của nước Pháp, khi mà An Nam có lịch sử từ bốn ngàn năm nay và chính người Pháp đã dùng quân lực để chia rẽ nước Nam.

Lúc đó Phan Văn Trường đang ở Paris, ông tiếp xúc Tạ Thu Thâu cùng các bạn với thái độ một người đàn anh hiểu đời giàu kinh nghiệm đấu tranh. Ông khuyên không nên phục hồi Đảng Việt Nam Độc Lập, có thể vì đã lỗi thời, và nên xem xét cẩn thận những vấn đề khó khăn về chính trị, và lại đi tìm tiếp xúc mới trong cánh tả Pháp. Sau đó Nhóm Xuất Dương Đông Dương (Groupe des Emigrés Indochinois), một tổ chức khiêm tốn hơn, thay thế Đảng Việt Nam Độc Lập. Nhóm nầy tập họp Tạ Thu Thâu, Huỳnh Văn Phương, Phan Văn Chánh, Lê Bá Cang, Hồ Văn Ngà, Ngô Quang Huy và những người trung thành của đảng đã giải tán, còn những người khác như Hoàng Quang Giụ họ nhập nhóm Lao Nông

Tháng 7 năm 1929, Thâu bí mật sang Frankfurt ở Đức để dự Đại Hội của Liên minh chống đế quốc chủ nghĩa, nhóm lần thứ hai. Anh tỏ lòng khâm phục thanh niên Đức đầy ‘’nhiệt tình và hoạt động hăng hái’’ (trích thư gửi Trịnh Hưng Ngẫu do mật thám giữ lại). Anh không dè bốn năm sau, thể hệ thanh niên ấy lại không ngăn Hitler lên chính quyền, nếu như họ không đóng góp vào lực lượng Phát-xít?

Tạ Thu Thâu cùng các bạn bắt đầu tiếp xúc những người ly khai đảng cộng sản Pháp, như Rosmer (42), nhóm Ngược Giòng (Contre le Courant) của Maurice Paz(43) rồi họ tiến về xu hướng cộng sản phê phán. Họ đã đoạn tuyệt với ‘’thành kiến về chủng tộc’’ và thứ chủ nghĩa quốc gia hẹp hòi của họ. Trong tầm con mắt những thanh niên theo chủ nghĩa quốc gia, sự ‘’đối kháng chủng tộc’’ che mờ đối kháng giai cấp. Phải thoát khỏi thành kiến ấy, nhiệm vụ của ta là làm nảy sinh một thế giới mới. Alfred Rosmer sẵn dành cho họ những cột trong Báo Sự Thật (La Vérité) để họ có thể tự do phát biểu. Trong những số báo từ ngày 1 tháng 5 tới 13 tháng 6 năm 1930, Tạ Thu Thâu viết rõ về sự chuyển biến đó:

Trong các thuộc địa, người thanh niên phiến loạn không khỏi trải qua giai đoạnquốc gia chủ nghĩa. Những người cấp tiến hơn thì nói đến đế quốc chủ nghĩa, nhưng không vượt khỏi giai đoạn không tưởng, đặc gồm những danh từ trừutượng như cộng lý, tự do, bìnhđẳng, quyền dân tộc tự quyết. Những kẻ nói phải được độc lập tức thời, họ chỉ có một khái niệm máy móc và hình thức về cuộctranh đấu. Họ tưởng tượng cuộc cách mạng giống như cuộc bạo động của một nhóm âm mưu ít nhiều anh dũng, ít nhiều tài năng khéo léo.

Chủ nghĩa khủng bố, chủ nghĩa Gandhi (bất bạo động, bất hợp tác, bất tuân luật lệ) tất cả đều không giải quyết được vấn đề thuộc địa.

Giai cấp tư sản thế giới liên hệ chặt chẽ nhau trên trường quốc tế, giai cấp tư sản bản xứ bất lực từ lúc nảy sinh, thế nên ở Đông Dương, tranh đấu giành độc lập là sứ mạng của quần chúng vô tài sản. Chỉ có quần chúng đông nhất, về mặt xã hội là kẻ thù đế quốc chủ nghĩa, họ đứng lên hành động có tổ chức, mới có năng lực lật đổ đế quốc. Phải nhập một vấn đề độc lập với vấn đề cách mạng vô sản theo con đường xã hội chủ nghĩa.

Tạ Thu Thâu và các bạn vẫn trung thành với chủ nghĩa quốc tế cách mạng, liên minh toàn thể nô lệ của tư bản khắp thế giới, cho đến ngày anh và các bạn bị ‘’thủ tiêu về chính trị’’ (Hồ chí Minh nói vậy), nói đúng hơn, cho đến khi đảng viên của Hồ chí Minh ám sát họ năm 1945...

CHÚ THÍCH

36.- L. Sabatiê, Công Sứ ở Đắc Lắc, đã kể lại trong Le Serment du Darlac (Lời thề ở Đắc Lắc, Hanoi 1930): ‘’Trong giai đoạn phồn thịnh tiếp sau cuộc thế chiến 1914-1918, các nhà tư bản tìm cách đầu tư. Sự phì nhiêu của đất đỏ được công nhận, và những đồn điền rộng lớn bao phủ miền đất đỏ Nam Kỳ. Thêm nữa, đất vùng Tây Nguyên hầu như toàn bộ đều là một thứ đất đỏ như vậy. Những kẻ thăm dò đã quyết định giành lấy mảnh đất ở Pleiku, thuộc phía Bắc Đắc Lắc, nơi mà chính phủ đã nhường lại cho họ vô số đất mà không màng gì đến quyền lợi và tương lai của người bản xứ’’.

Sabatiê nhắc nhở dân miền núi rằng bổn phận đầu tiên của họ là phải giữ gìn đất đai của họ, khai khẩn hợp lý, không được nhượng lại ‘’cái lưng của tổ tiên’’. Những kẻ xin chuyển nhượng và những người có khả năng đầu tư đã tiến hành mãnh liệt tiến công chống lại Sabatiê; chính quyền đề nghị ông bớt khăng khăng trong việc chấp thuận chuyển nhượng đất cho bọn ấy. Ông biện giải hành động của ông lên khâm sứ ở Huế bằng cách nhắc lại việc bọn khám sét chiếm đoạt nhiều vùng đất đai tốt của dân Giarai ở Kontum và người Việt ở Trung và Bắc Kỳ. Vào tháng 3.1926 Sabatiê được lệnh rời khỏi Đắc Lắc và không được trở lại đó nữa. Sự thất b