CHƯƠNG IV PHONG TRÀO QUỐC GIA BÍ MẬT Ở TRONG NƯỚC THỜI KỲ NÀY
Được thừa hưởng cả một truyền thống đấu tranh chống thống trị thực dân, những phong trào này, cũng như những phong trào trước đó, là sự nghiệp của tầng lớp trí thức thuộc giai cấp trung lưu. Đối trước sức đàn áp dữ dội, những nhóm cách mạng này chỉ có thể nảy sinh và phát triển hoàn toàn bí mật. Cuộc chiến đấu của họ cũng không thể tách khỏi con đường cũ, như là âm mưu, mưu đồ quân sự, hành động khủng bố. Những thanh niên thức tỉnh cảm thấy mình như bị nhốt trong một khám tù mênh mông, rộng lớn:
Trong đó niềm hy vọng, như một chim giơi,
Đập đôi cánh rụt rè trong bốn bức tường
Rồi chạm đầu vào những trần nhà mục nát.
(Baudelaire)
Những thanh niên không ra nước ngoài sẽ tham gia vào các tổ chức quốc gia bí mật lần lượt được thành lập từ Nam chí Bắc trong khoảng thời gian từ 1925 đến 1928:
Tân Việt Cách Mạng Đảng, hay Tân Việt (1925-1929)
Hội kín Nguyễn An Ninh (1928-1929)
Việt Nam Quốc Dân Đảng (1927-1930)
Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội, hay Thanh Niên (1925-1930), sẽ biến thành đảng cộng sản Đông Dương.
Quan điểm chung của các tổ chức trên là chuẩn bị chiến đấu vũ trang để giành độc lập quốc gia. Một kỷ luật sắt chế ngự trong Thanh Niên và trongViệt Nam Quốc Dân Đảng: Đảng viên phải giữ bí mật tuyệt đối về công việc của đảng, và không bao giờ được lộ ra cho cả cha mẹ mình, bạn bè và những người quen biết của mình, nếu không sẽ bị tử hình, đó là điều lệ của Thanh Niên. Đó chính là một thế giới âm u và im lặng.
Đảng Tân Việt
Đảng Tân Việt khởi đầu lấy tên Phục Việt, do các trí sĩ bị lưu đày tại ngục Côn Sơn thể hội từ năm 1917, những trí sĩ cũng như Phan Chu Trinh ra đây sau những cuộc nông dân biểu tình năm 1908 tại Trung Kỳ (44). Những người trung kiên tập hợp quanh Lê Huân, trong đó có ba người là Trần Hoành, Tú Kiên và Phạm Cao Đại đã vượt ngục nhằm liên lạc với những người cùng hội của Phan Bội Châu, chủ yếu ở Trung Quốc. Họ vào được đất liền sau đó một người bị bắt ở Sài Gòn vào tháng 9, hai người kia vào tháng 2 năm 1918 ở Thượng Hải, tất cả đều bị đưa trở lại Côn Sơn. Như vậy lần đầu họ mưu toan tập hợp bị thất bại.
Bảy năm sau, ngày 14 tháng 7 năm 1925, các nhà cách mạng ra khỏi nhà tù gặp nhau ở Vinh. Nhiều thanh niên ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ như Tôn quang Phiệt, Trần Phú, Ngô Đức Trì, Hà huy Tập... đến tăng cường lực lượng cho nhóm ‘’đàn cựu’’ của Lê Huân. Họ tổ chức những lớp học người lớn cho các công nhân nhà máy ở Vinh, rồi Hà huy Tập nhanh chóng gây được cảm tình và được họ tin cậy. Vào tháng 11 năm 1925, Phục Việt tung truyền đơn đòi thả Phan Bội Châu. Đối với một đảng bí mật và sự bí mật tuyệt đối là điều kiện sống còn, thì đây là một hành động sai lầm. Do đó Nhà Giáo Trần Mộng Bạch đề nghị đổi tên Phục Việt thành một cái tên khác vô hại để che mắt dễ dàng hơn, đó là Hưng Nam, một hội có nhiệm vụ chính thức là chuẩn bị ‘’cuộc cách mạng hòa bình’’ bằng con đường giáo dục miễn phí nhằm chống ‘’mê tín và tệ nạn’’, và phát triển kinh tế.
Đồng thời với Phục Việt, ở Quảng Châu Nguyễn ái Quốc tổ chứcThanh Niên vào tháng 6 năm 1925. Hưng Nam cho rằng có thể liên minh với Thanh Niên và sẵn sàng hợp tác các hoạt động với ‘’đảng ở ngoài nước’’ này. Hưng Nam lấy tên bí mật là Tân Việt cách mạng đảng và gửi thanh niên sang Quảng Châu để huấn luyện. Phần lớn những thanh niên này thọ giáo xong lại gia nhập tổ chức Thanh Niên, một tổ chức được Quốc Tế Cộng Sản tài trợ và được đảng cộng sản Trung Quốc ủng hộ, có một hệ thống tư tưởng và cấu trúc theo kiểu mẫu Bolsevik.
Trần Phú, được cử sang thương lượng việc hợp nhất hai tổ chức lại gia nhập Thanh Niên và thề trung thành đến cùng. Nguyễn ái Quốc đưa Trần Phú đi học Trường Đại Học Lao Động Đông Phương ở Moscou. Tuy vậy họ không bỏ qua ý tưởng hợp nhất. Cả hai tổ chức đều cử đại biểu đến QuảngChâu thảo luận thủ tục thành lập chung một đảng. Các đại biểu về nước mang theo tập Đường Cách Mệnh của Nguyễn ái Quốc mà Đảng Thanh Niên coi như cơ sở chính trị của việc họp nhất lúc đó, nếu có thể. Trong những năm 1927-1928 nhiều cuộc thương thảo đôi lúc cũng tiến buớc, song không đi đến kết quả. Đồng lược bên này tận lực thu hút đảng viên bên kia. Hai bên không thỏa thuận được về cả phương diện học thuyết, nghĩa là hoặc theo chủ nghĩa quốc gia đơn thuần hoặc có mầu sắc Bolcheviks. Cũng như về cả phương diện cách thức họp nhất (Tân Việt đề nghị họp nhất hai tổ chức một cách bình đẳng, Thanh Niên đề ra việc kết nạp từng cá nhân đảng viên Tân Việt sau khi giải tán đảng này). Thanh Niên phê phán gay gắt ‘’ý thức giai cấp’’ của các lãnh tụ Tân Việt - được gán cho là ý thức tư sản - lại càng làm cho việc dàn xếp khó khăn.
Năm 1928, Tân Việt gồm 42 chi bộ, mỗi chi bộ có từ 3 đến 5 đảng viên, trong đó 30 chi bộ ở Trung Kỳ, 7 ở Nam Kỳ, 5 ở Bắc Kỳ. Lúc này đảng huớng cuộc vận động vào Nam Kỳ, nơi mà ảnh huởng của phong trào Nguyễn An Ninh khởi đầu phát triển sâu rộng trong vùng nông thôn. Ban chấp hành trung ương nhóm họp tại núi Thuận Nhan vào tháng 2, cử Tú Kiên và Hà huy Tập tìm cách buớc đầu thương thảo việc liên minh với phong trào trên. Nhưng đề nghị đó không đặt được kết quả khi Nguyễn An Ninh bị bắt vào tháng 10.
Trong lúc đó Tân Việt bắt đầu bị đàn áp. Những người sáng lập ở Vinh, Trần mộng Bạch và các đồng chí, bị đày lên vùng Tây Nguyên. Đào Duy Anh, một đại biểu mới gia nhập Đảng Tân Việt, được giao phó chức vụ bí thư xứ ủy Trung Kỳ. Vào cuối tháng 6, ông triệu tập xứ ủy tại nhà riêng ở Huế để thảo luận về việc thay đổi bộ mặt bên ngoài của đảng vì từ nay Sở Mật Thám rất quan tâm đến đảng. Tân Việt đề ra một chương trình thành lập một khối đoàn kết quốc gia, chương trình cho thấy rõ xu huớng tách khỏi Thanh Niên, và được chứng tỏ rõ ràng qua lời khai của Đào Duy Anh viết lúc ông bị bắt:
Đảng chúng tôi không thể dựa trên một giai cấp duy nhất: Không dựa vào giai cấp công nhân còn quá ít ỏi; cũng không dựa vào giai cấp nông dân là một khốikhông đồng nhất, bảo thủ và phân tán đối với phong trào của chúng tôi; cũng không dựa vào giai cấp tư sản mà quyền lợi thường đối lập với quyền lợi củacách mạng; cũng không dựa vào giai cấp tiểu tư sản không có lực lượng và không thống nhất. Chúng tôi phải tuyển lựa vào đảng những phần tử tiến bộ của mọi giai cấp xã hội. Chúng tôi tránh mọi ảnh hưởng của chủ nghĩa cộng sản,đường lối chính trị của chúng tôi hoàn toàn là quốc gia chủ nghĩa.
Khuynh hướng xã hội chủ nghĩa của Tân Việt còn mơ hồ nhưng có thực. Điều này được xác định qua lời khai của những người do Ủy ban Morché chất vấn (Morché, tên quan tòa điều tra những sự biến đẫm máu ở Trung Kỳ 1930-1931)(44). Đặc biệt là lời khai của hai nhà giáo Ngô Đức Diên và Hoàng Đức Thi, bị kết án 7 năm tù chỉ vì tham gia Tân Việt và bị khám thấy trong nhà có lưu giữ tờ Người Cùng Khổ (Le Paria) và tờ Việt Nam Hồn(L'Âme annamite) từ Paris bí mật gửi về:
Chúng tôi không có ý định vận động quần chúng, mà chỉ vận động những người có học. Tân Việt là một đảng của trí thức. Đảng này được thành lập nhằm xây dựng một nền cộng hòa xã hội chủ nghĩa.
Chủ nghĩa cộng sản là một học thuyết lý tưởng đơn thuần và không áp dụng vào được thực tế (của đất nước). Chúng tôi mong muốn xây dựng một nền cộng hòa xã hội chủ nghĩa.
Đến tháng chạp năm 1928 Tân Việt bị đàn áp ở Nam Kỳ. Sau vụ ám sát ở phố Barbier-Lý Trần Quán (xem phần dưới) mật thám tổng ruồng bố tiếp liền làm tan vỡ xứ ủy: Nguyễn duy Trinh 20 tuổi, và Đào xuân Mai, 27 tuổi, bị bắt. Trần ngọc Danh, Phan đăng Lưu và một số người khác trốn sang Moscou hoặc sang Trung Quốc; sau này lại thấy họ ở trong đảng cộng sản Đông Dương. Còn hai đại biểu cử đi công tác thì Tú Kiên bị bắt, còn Hà huy Tập thoát được, sau đó sang Moscou.
Hai người trong xứ ủy bị kết án người thì 10 năm tù, người thì 18 tháng. Tú Kiên bị 5 năm tù treo, bị giải về làng ông ở Trung Kỳ và quản thúc ở đó. Đến chặng dừng chân tại nhà tù Cap Saint-Jacques (Vũng Tàu), con người đấu tranh không mệt mỏi này - đã bao lần thất bại - Tú Kiên bị giam cùng với những kẻ thất bại khác, những nạn nhân khốn cùng nhất của chế độ thực dân: Những phu đồn điền cao su Nam Kỳ trốn ra khỏi cái địa ngục đó nhưng bị bắt.
Cuộc tổng ruồng bố tháng 7 năm 1929 ở Trung Kỳ quyết liệt phá tan Tân Việt. Lê Huân bị chết trong tù, Đào Duy Anh bị giam một năm. Rồi trong khi Thanh Niên bị phân liệt thành hai đảng cộng sản cạnh tranh nhau, thì một nhóm Tân Việt còn sót lại đề ra việc thành lập Đông Dương cộng sản liên đoàn, đối lập với đường lối xây dựng khối quốc gia chủ nghĩa. Dự định này bị phá vỡ từ trong trứng: 8 đại biểu - 2 ở Nam Kỳ, 5 ở Trung Kỳ, và 1 ở Bắc Kỳ - tập hợp tại Huế bị bắt ngày 1 tháng giêng năm 1930. Sau hai tháng giam giữ họ bị kết án: 1 người bị 3 năm tù, mấy người kia bị quản thúc(46). Tân Việt ngừng lên tiếng.
Sau khi ra tù, Đào Duy Anh, cựu bí thư đảng Tân Việt bị đảng cộng sản Đông Dương quy là chống cộng sản, ông khước từ mọi hoạt động chính trị.
Hội kín Nguyễn An Ninh
Ngày 4 tháng 10 năm 1928, tờ Đồng Pháp Thời Báo đăng ‘’thông cáo của chính phủ’’ như sau:
Nguyễn An Ninh trước kia là một nhà làm báo, hồi năm 1926 đã bị án mười tám tháng tù, qua ngày tháng Janvier 1927, nhờ ơn của quan Toàn Quyền tạm tha cho ra ngoài. Mới bữa 28 Septembre vừa rồi, Nguyễn An Ninh diễn thuyết ở gần ga xe lửa Bến Lức, trước mặt lối sáu chục người. Nhơn mấy người lính đến hỏi tụ hội để làm chi, thì Nguyễn An Ninh lại đánh một người lính, đến nỗi phải cho vào nhà thương. Hiện nay quan trên đã có ra lệnh bắt Nguyễn An Ninh, nhưng y đã đi đâu mất. Người ta đương tìm kiếm dữ lắm.
Nguyễn An Ninh từ Pháp trở về nước hồi tháng Giêng, sống ở Sài Gòn, một châu thành khuấy động do các tổ chức cách mạng bí mật khai sinh ở miền Bắc tiến nhập: Việt Nam Quốc Dân Đảng ở Bắc Kỳ, Tân Việt ở Bắc Trung Kỳ, Thanh Niên ở Quảng Châu đang biến Sài Gòn thành nơi tranh giành vai trò giáo dục về chính trị. Nhóm nầy thuyết giảng về chủ nghĩa Tam Dân, nhóm kia giải thích về lịch sử những cuộc cách mạng Pháp, Nga hoặc Trung Hoa. Tất cả đều theo chủ nghĩa quốc gia một cách hăng hái, nhằm vận động chủ yếu là tầng lớp tiểu tư sản, trí thức, thợ thủ công ở các thành phố. Lĩnh vực kinh tế rất thuận lợi cho việc tuyên truyền của họ: Những độc quyền do tư bản Pháp đào tạo ra, như độc quyền thương cảng Sài Gòn, các hầm mỏ ở Trung và Bắc Kỳ bóp nghẹt sáng kiến công nghiệp của người bản xứ.
Trong cảnh êm tịnh bên ngoài, những tổ chức chính đảng sơ khai thành lập ở Sài Gòn, ẩn núp ngụy trang bằng các cửa hàng cửa hiệu (giặt là, cắt tóc, xưởng cơ khí). Lứa thanh niên chịu ảnh hưởng của Ninh thời kỳ ‘’Mùa Xuân Sài Gòn’’, những học sinh bị đuổi học những năm 1926-1927 dường như biến đâu cả. Tuy nhiên, một số vẫn đi tìm đường một cách bí mật.
Nguyễn An Ninh không quên lời Phan Chu Trinh khuyên Nguyễn ái Quốc, hãy về sống chen lộn với dân nghèo đói và dốt nát để giúp họ thoát vòng trì trệ, để làm chất men gây mầm đạo lý cách mạng về tình tương thân tương ái và tinh thần trách nhiệm chung trong công cuộc giải phóng chính trị trước mắt và trong việc tổ chức lại đất nước tương lai. Nguyễn An Ninh cho đó là sứ mạng của mình.
Vả lại, tờ L'Annambị cấm và Phan Văn Trường bị kết án, vấn đề tái bản tờ Chuông Rè không thể đặt ra được nữa, Ninh liền bán nhà in để giúp Nguyễn Thế Truyền với vợ và các con về Bắc. Sau đó Ninh về quê anh ở Mỹ Hòa cùng Mỹ Hòa cùng với bố, lúc bấy giờ tàn tật hầu như không làm gì được mà vẫn kiên trì thiết tha với việc phát triển chữ Quốc Ngữ (ông Nguyễn An Khương đã dịch cuốn tự điển Khang Hi, bộ sách nổi tiếng của Trung Quốc).
Ninh bỏ kiểu tóc dài để bù xù, cạo trọc đầu như các nhà sư, mặc bộ bà ba đen như hàng xóm láng giêng. Giống như những nông dân có tín ngưỡng, anh lập một bàn thờ Phật trong nhà, tiêu biểu cho tấm lòng từ bi khấn trong hoàn vũ, và một bàn thờ Quan Công, một anh hùng huyền thoại thời Tam Quốc, con người hiển thánh được nhân dân Trung Quốc thờ phụng trong các ngôi đền dân gian. Thân thế Quan Công tượng trưng đạo đức Khổng Mạnh thống truyền, nhân, nghĩa, lễ, trí, tín, đời đời không cổ hủ như Phan Chu Trinh đã gợi trong cuộc nói chuyện về đạo lý năm kia.
Khi anh xuất bản quyển Tôn Giáo, một số người tưởng anh đã ngã về chủ nghĩa thần bí. Sự hiểu nhầm đến mức nguy hiểm khiến anh giật mình khi anh đến thăm một gia đình nông dân, thấy bên cạnh bàn thờ tổ tiên có một bàn thờ có ảnh của anh đằng sau bát hương. Điều mà anh định trình bày trong cuốn Tôn Giáo là một quan niệm khách quan về hiện tượng tôn giáo. Khi anh gợi lại những người ở Pháp, những góa phụ, những người già cô đơn, trở lại với nhà thờ Thiên Chúa sau cuộc thảm sát chiến tranh 1914-1918, anh không phê phán họ...Đối với anh, lòng tin nguởng của họ chỉ là ‘’tiếng thở dài của kiếp nhân sinh chĩu nặng khổ đau, là linh hồn của một thế giới vô nhân ái’’ Karl Marx. Đối với anh, việc đi ‘’tìm một niềm an ủi nơi cõi trời kỳ bí’’ chỉ là chỗ yếu của con người.
Anh cũng viết một vở kịch: Hai Bà Trưng, kể lại lịch sử đấu tranh của hai chị em bà Trưng đầu thế kỷ thứ nhất, đánh đuổi được tên tướng Tàu ra khỏi lãnh thổ, nhưng cuối cùng hai bà thất bại. Dường như Ninh tỏ ý chí mình trong lời nói của một bà:
Từ xưa, những ai theo đuổi một lý tưởng cao thượng bao giờ cũng chịu khổ đau; họ chịu đều bất hạnh chỉ vì tính cách cao cường của họ.
Anh mang về nhà 5.000 ấn bản có đánh số rồi tự mình phát hành để tránh bị lợi dụng như hồi ăm 1926. Thời ấy, thừa lúc anh ngồi tù, có kẻ đoạt những ấn bản Cao vọng của bọn thanh niên An Nam, Dân Ước (47) của anh rồi dối rằng bán ra để giúp đỡ vợ con anh.
Cùng Phan Văn Hùm, người bạn và cũng là môn đệ của anh, kém anh hai tuổi, hai người đạp xe đạp khắp các vùng Gia Định, Chợ Lớn, Tây Ninh, tuyên truyền tư tưởng giải phóng. Anh kêu gọi dân cày tập họ thảo luận, cố mở rộng tầm nhìn của họ ra khỏi lũy tre xanh, để biến chuyển lực lượng sản xuất lúa thóc trở thành lực lượng cách mạng. Anh gây liên hệcảm tình chặt chẻ và thông đồng ý chí trong các vùng quê xa xôi, mưu đồ vạn sự cùng các bạn như Lê Văn Từ ở Trà Vinh, Mai Văn Ngọc ở Mỹ Tho, ông Giáo Giai, ông Thanh Tra Tiểu Học Dinh...
Nông dân tin tưởng anh xem anh như một vị thần bí. Nhiều người cảm thấy mình sẵng sàng theo anh mà không cần biết đích xác là sẻ đi đâu và đi cách nào. Như vậy, năm 1928, trong bóng tối im lìm, Ninh tạo nên một phong trào nông dân tiềm thế, không giống chi với một phong trào có tổ chức và có kỷ luật (theo Lê Văn Thử, Hội kín Nguyễn An Ninh). Uy tín của Nguyễn An Ninh làm cho chính quyền thực dân chủ ý. Phải chăng anh ta đang núp sau cái đời sống khổ hạnh và thiên về văn học để ngấm ngầm xây dựng một hội kín kia giống như Thiên Địa Hội, có năng lực lúc nào đó thình lình xúc động nông dân nổi dậy như lửa bừng lên thiêu hủy bộ máy thống trị?
Ngày 28 tháng 5 năm 1928, một bọn côn đồ trong đó có Thầy Lang Gạo và bạn hắn tên Nghĩa, gây rối vùng Củ Chi (Gia Định) vừa la lên xưng mình là môn đệ của Nguyễn An Ninh.
Chúng ấu đả, đập bể chén bát trong một quán cơm ở Tân An Tây, chửi rủa và khêu khích hương chức làng khi các người nầy can thiệp. Cả thảy bị bắt giam. Xét xử tại Tòa Thẩm Phán Sài Gòn, chúng được tha liền sau đó. Ngày 29 tháng 6, tờ Diễn Đàn Đông Dương(La Tribune Indochinoise,báo Đảng Lập Hiến), sau khi thuật sơ lược những việc đã xảy ra, lại bàn rằng có thể đây là Sở Mật Thám sử dụng bất chính bọn vô lại để hạ uy tín của Nguyễn An Ninh:
Trong vùng Hóc Môn và lân cận, có nhiều người tụ họp lại tự xưng là người của Nguyễn An Ninh để đe dọa dân cư ở nông thôn. Chúng tôi nghĩ rằng ông Ninh chắc hoàn toàn xa lạ với những hành động trên vì nó chỉ làm giảm uy tín củaông mà thôi; nhưng điều kỳ lạ nhất trong vụ này là chính quyền dường như ngoảnh mặt làm ngơ trước những việc làm ác hại của kẻ vô lại mắng chửi hương chức làng và đánh đập dân cư.
Chúng ta nhớ rằng báo lập hiến ấy không phải bênh vực một đảng viên, họ lên tiếng che chở một người đã từng phê phán lập trường chính trị của họ trên tờ Đông Pháp Thời Báo ngày 21 tháng 5.
Bốn tháng sau, chiều ngày 28 tháng 9 năm 1928, ở Bến Lức, Phan Văn Hùm bị lính lưu động gọi lại để xét giấy tờ. Hùm phản đối, bị người cai là Trần Văn Nên đập roi gân bò trên đầu. Hùm chưa kịp đánh trả, Ninh đã vung tay đấm đá Cai Nên. Trong đêm tối bọn lính không biết ai là ai đã ra tay, họ cứ dẫn Hùm tới cùm tại nhà hội làng Long Phú. Khi giải tới Tòa ÁnSài Gòn, Hùm bị gán tội một cách tưởng tượng, là đã ‘’đánh bị thương nhân viên làm công vụ, làm kẻ ấy không làm việc được một thời gian dài’’, rồi anh bị tống vào Khám Lớn (Maison Centrale). Vài hôm sau, khi xuất hiện bản thông cáo của chính phủ, Ninh quyết định theo bên Hùm, anh liền cạo trọc và mặc đồ trắng. Thế là cả hai trở thành phạm nhân PJI (Prévenu Juge d'Instruction - bị giam phòng bồi thẩm), theo dấu ghi số trên thẻ gỗ đeo nơi khuy áo.
Chính đây lại thấy tên Nghĩa và Gạo chường mặt một lần nữa. Lần này chúng bị bắt và bị tố cáo là thuộc hội kín Nguyễn An Ninh. Sở Mật Thám tra tấn, bỏ đói chúng, bắt một bà mẹ 68 tuổi, một ông bố 60, và thế là chúng phải tố cáo hoang mang. Sở Mật Thám biến chúng trở thành những kẻ buộc tội.
Dường như mật thám tin rằng có một hội kín Nguyễn An Ninh đang chuẩn bị vũ trang, tuyển mộ theo tập quán uống máu thề thọ tử theo lối các hội kín xưa kia, một kiểu thề chẳng ăn nhập chút nào với con người lý trí Nguyễn An Ninh (48).
Hàng trăm người bị bắt bớ liên tiếp khoảng tháng 10, tháng 11 và tháng chạp 1928. Trong Khám lớn, gian khám tập trung những người bị giam người ta gọi ‘’khám hội’’. Mỗi buổi sáng, hàng trăm vợ con những người bị giam từ bỏ thôn quê làng xóm đến trước cửa ngục từ 3 giờ sáng, chờ đợi được thăm nuôi một người cha hay người con trai của mình. Sau khi thăm nuôi, họ cũng được yên lòng vì giờ đây người bị giam đã dứt bị tra tấn, được chuyển khỏi những xà lim Sở Mật Thám sang Khám Lớn. Một số người chỉ được tha ra sau khi đã bị thương tật nặng nề, như hương trưởng Trần Văn Tiên ở Tân Trụ, còn hương chủ Cang thả về ít lâu thì chết.
Ngày 27 tháng 11, theo báo Đuốc Nhà Nam, hơn 160 người bị bắt vì nghi có chân trong Hội kín được thả ra tự do tạm thời. Ngày 13 tháng chạp, tờ Đông Pháp Thời Báo cho đăng lời công bố của một người tên là Võ Văn Ngân, vô cớ bị bắt giam trong vòng hơn một tháng:
Lúc tôi mới bị bắt thì còn giam tại bót để tra. Nghĩ lại lúc tra mà bây giờ tôi còn khiếp. Trong khi tra thì chân trói, tay buộc, thôi mặc sức đánh đập, không biết bao nhiêu mà kể, đánh đã rồi hỏi: Vậy chớ mày có vô hội kín Nguyễn An Ninh không? Tôi trả lời không, rồi đánh nữa, đánh mệt rồi nghỉ, nghỉ rồi lại hỏi, hỏi rồi dỗ tôi rằng:Mầy khai đi, nói có vô hội kín Nguyễn An Ninh. Tôi trả lời: Nào có biết Nguyễn An Ninh đâu mà khai, dầu có đánh tôi cho lắm tôi cũng không biết việc gì mà khai cho đặng. Thì biểu tôi khai như vậy:
Mầy nói lấy kim đâm vô đầu ngón tay, chảy máu ra rồi hòa với rượuuống chung với Nguyễn An Ninh, thề thốt với nhau, rồi tao tha mày.Chủ ý tao chỉ cốt bắt Nguyễn An Ninh chớ không cần chi mầy. Tôi nói: Trời đất ơi! Người ta không có mà ông biểu tôi nói có sao đành.
Ôi! lúc đó rồi đánh tôi không biết bao nhiêu mà kể cho xiết? Đánh rồi đem vô khám mà nhốt thì tôi nằm trong khám nghĩ rằng: Chánh phủ xưa nay lập cò bót để tra khảo những người gian trá chớ tôi không ngờ cò bót gian trá hơn những người bị tra khảo.
Ngày 14 tháng chạp, Phan Văn Hùm được thả. Lập tức anh viết ngay những ngày bị nếm trải trong ngục, vạch trần cảnh ‘’sầu thành một bức, nhốt lại ngót ngàn người, cách tuyệt cõi đời, cảnh tình thống khốc’’. Đến lúc giờ thành sầu vẫn còn là một nơi huyền bí mặc dầu ở tại Trung Tâm Sài Gòn, bao quanh bằng bốn bức tường cắm đầy mảnh chai và đầu tường có ba vọng gác. Cổng vào nhà ngục này - ở đường Lagrandière - làm cho những ai đi qua phải lạnh lưng sởn gáy vì cái tượng đầu quỷ Gorgone. (theo thần thoại xứ Hy Lạp, tóc nữ quỷ là bầy rắn chằng chịt, quỷ nhìn ai người đó hóa đá-Chú thích người dịch).
Hùm đăng hồi ký này trên báo đều đặn, từ tháng giêng đến tháng 2 năm 1929, văn thể theo lối mới. Độc giả hoan nghênh, trước tác xuất bản thành sách nhan đề Ngồi Tù Khám Lớn. Tiêu đề ‘’Trong ngục thất lòng phải ngấu như tương hoặc phải rắn như đồng’’ (Nguyễn An Ninh). Lập tức sách bị cấm lưu hành. Trong cuốn sách này, Hùm phản bác rằng không có ‘’Hội kín Nguyễn An Ninh’’ theo như mật thám đã bịa đặt. Trong đó anh tố cáo những đòn tra tấn dã man và kích động mối xúc cảm lớn trong dư luận. Sự việc đó diễn ra trong hoàn cảnh khủng bố dữ dội suốt từ Nam chí Bắc.
Tháng giêng năm 1929, anh lính tập Lê Văn Lợi lấy trộm hai khẩu liên thanh và bốn khẩu súng ngắn nòng trong Trại Ô-ma (Camp des Mares), giao cho Hồ Văn Hẹ và Nguyễn Văn Lép (người đã lộ mặt trong cuộc phá khám lớn Sài Gòn năm 1916), cả hai đều có chân trong phong trào ‘’Hội kín Nguyễn An Ninh’’. Lê Văn Lợi sẽ bị đưa ra tòa trong vụ án 122 đảng viên Đảng cộng sản Đông Dương năm 1933.
Ngày 22 tháng 3, Phan Văn Kim, 35 tuổi, cải trang làm Hoa kiều, bắn Thẩm Phán Nadaillat tại Tòa Án Sài Gòn. Khi bị bắt, y khai là bởi vì Nadaillat đã phát lệnh quá lạm dụng để bắt ba bốn trăm người An Nam ‘’thuộc hội kín’’, y còn nói không những là định giết Nadaillat, mà còn giết cả Chưởng Lý Duzenat và Phó Chưởng Lý Lafrique) (49).
Ngày 26 tháng 3, báo Thần Chung đăng bản báo cáo của viên sen đầm Crépin, đề ngày 27 tháng giêng năm 1927, tại Mỹ Tho, dịch ra chữ Quốc Ngữ. Đấy là một văn kiện chính thức phát lộ những sự tra tấn sử dụng từ lâunhưng không bao giờ chính quyền phủ nhận. Viên sen đầm-Gendarme khai rằng vì lóng nghe ‘’những tiếng đánh đập trên da thịt người ta và những tiếng kêu la đau đớn’’, y liền trông thấy trong trại của mình một con người khốn khổ ‘’nằm sấp mặt, tay bị trói quặt ra đằng sau lưng, chân cũng bị trói bằng dây thừng, miệng đầy máu’’, đang bị hai tên lính kín dùng gậy tre lớn đánh vào hai gan bàn chân. Viên sen đầm-Gendarme ra lịnh ngưng hành hạ. Quan chủ tỉnh và viên cò mật thám được báo đã tới tận nơi. Sau khi ra lệnh cởi trói cho nạn nhân, viên cò hứa sẽ sa thải hai thằng bạo ngược.
Trong số dân quê bị bắt một cách ác độc, làm họ phải bỏ công ăn việc làm hằng mùa, rồi bị xô ngã vào cái thế giới phi lý đó, Nguyễn An Ninh gặp được hai người bạn cùng xu hướng chính trị là Võ Công Tồn và Nguyễn Hòa Hiệp. Anh liên lạc với những người tù đã bị mật thám tra tấn mà họ không ‘’thú nhận một cách đột nhiên’’, và cả những người đã chịu khai nhưng sẽ phản cung khi xử án. Anh gặp một ông thầy thuốc nam, ông nầy xé áo lót treo cổ, để hết bị lính kín ép tố cáo kẻ khác. Có hai người phi thường là Sáu Chiếu, một anh chị 40 tuổi, anh ta đã bị nhiều người tố cáo, và ông hương thân Ngà, kẻ bắt các sòng bạc phải cúng tiền, cả hai sẵn sàng khoe khoang kể lại những chuyện phản kháng của họ như thế nào. Khi người ta tát vào má phải, Chiếu cũng tự tát vào má trái; khi người ta đánh y một loi, y tự loi hai cái mạnh hơn, khi người ta lấy điếu thuốc đang cháy dí vào các ngón chân thì y từ chối không nói rằng Ninh là thủ lĩnh của y, y đòi có người chứng. Y khước từ không ký vào tờ khai viết bằng tiếng Pháp, y chỉ ký sau khi y viết ‘’nó nói láo’’ bằng chữ Quốc Ngữ. Những câu chuyện như thế làm cho người bị nhốt trong ngục đỡ buồn. Tinh thần cứng rắn cùng nhu nhược, hài hước cùng chán nản, đó là vũ trụ thu nhỏ trong đám người tập hợp ở ‘’khám hội’’. Từ bên ngoài cũng có vài sự việc an ủi. Ninh được biết hàng ngày có nông dân ở Gia Định, Chợ Lớn, Tân An, mặc dù bị khủng bố vẫn ký tên thỉnh nguyện xin ân xá cho mình, và biết rằng một giáo viên ở Bến Lức là Nguyễn Văn Tiếp xin ở tù thế cho Ninh.
Ngày 8 tháng 5 năm 1929 là ngày xử Nguyễn An Ninh. Người dự thính tràn ngập phòng xử. Khi bắt đầu phiên tòa, họ bị đuổi ra ngoài. Lời khai của Ninh thật rõ ràng:
Nếu như các ông thấy tôi vi phạm pháp luật của chính phủ thì các ông đưa ra những chứng cớ không thể chối cãi được, không còn nghi ngờ gì, và sau đó sẽ kết án tôi như một tội phạm không được miễn giảm. Song, nếu như sau khi đãnghe những lời khai của người này, những lời mớm cung của người khác rồi kết luận tôi là kẻ tội phạm, thì không có công lý, cũng chẳng có chân lý. Tôi thề rằng tôikhông có chút quan hệ nào đối với 115 người đứng trước mặt các ông; nếunhư có một người nào trong số đó phạm tội gì, tôi cũng chẳng hề có dính líu gì.Họ bị bắt, nhiều người đã vơ cả tôi vào trong công việc của họ; nếu tòa tin tưởng vào lời khai của họ mà kết án tôi, thì có phù hợp với công lý hay không? Hội kín theo chiều Thiên Địa Hội ở đất An Nam này bao giờ cũng vẫn có, đó không phải là do sáng kiến của tôi, và tôi đoán chắc với các ông rằng, những hội đó không bao giờ có thể bị tiêu diệt hết được.
Chánh án đáp lại, giọng trắng trợn và phán quyết:
Trong hội kín của ông, điều lệ rất nghiêm khắc: Người ta đã lấy máu ăn thề và kẻ nào làm lộ bí mật của hội sẽ bị tử hình. Ông chối không thú nhận là thủ lĩnh của hội đó để khỏi mất thể diện và không phản bội lời thề độc. Vì vậy, tôi vẫn giữ ý kiến trong cuộc thẩm vấn này. (50)
Án quyết: Nguyễn An Ninh, 3 năm tù, 1000 francs tiền vạ và 5 năm mất quyền công dân, vì tội lập hội kín; Phan Văn Hùm, 8 tháng tù và 500 francs tiền vạ; những người khác từ 2 tháng đến 4 năm tù, trong đó 91 người xử án treo.
Ngày 17 tháng 7, 25 người bị án ra trước tòa phúc thẩm xử lại. Trong tòa tràn ngập người. Người Pháp đến cũng nhiều. Ninh đi chân trần, mặc bộ bà ba đen kiểu nông dân An Nam; Hùm mặc âu phục. Những người bị cáo bị hỏi cung từng người một. Ba trong số đó là Gạo, Cội, Nghĩa lại khẳng định một lần nữa là ‘’Hội kín Nguyễn An Ninh’’có thực và Ninh đã ra lệnh cho họ phải phủ nhận. Công chúng ngạc nhiên vì tòa lại chọn bọn chúng đóng vai buộc tội. Phóng viên tờ Đuốc Nhà Nam ngày 20 tháng 7 gọi người chủ ý ba thằng đó không có nghề nghiệp và đã bị kết án nhiều lần. Ngược lại, những bị cáo trong khi thẩm vấn đã thú nhận là hội viên ‘’hội kín’’bấy giờ họ lại khẳng định rằng họ nhận vì họ bị tra tấn.
Ninh lại phản đối một lần nữa việc bị cáo thành lập một hội kín. Nếu những hội như thế có thể thành lập thật thì trong vụ án này người ta chỉ lợi dụng cái tên của anh mà thôi. Nếu tòa án, trong cái lôgic (logique) quanh co của mình, lại đem gán tội trọng cho anh mỗi khi có việc gì có gợi tên anh, thì tòa án có thể quy trách nhiệm cho anh về một nhóm lấy tên là ‘’Thanh niên cao vọng đảng’’. Họ đã tập hợp nhau dưới danh nghĩa bài diễn thuyết của anh phô ra năm 1923, tựa là Cao vọng của bọn thanh niên An Nam.
Sau khi sáu trạng sư người Pháp biện hộ Ninh - trong đó Trạng Sư Loye là người theo xu hướng xã hội - tòa quyết định y án Nguyễn An Ninh. Thế là Ninh sẽ bị khóa mồm hơn một ngàn ngày. Phan Văn Hùm 4 tháng tùtreo. Gạo và Nghĩa giảm còn 2 năm. Mười chín người khác: Từ 3 đến 18 tháng tù. Hai người được tha bổng.
Các ông lập hiến liệu có hối tiếc vì bài báo Diễn Đàn Đồng Dương tháng 6 năm 1928 (biện hộ cho Ninh) hay không? Chỉ biết rằng từ đó họ im tiếng. Diệp Văn Kỳ viết tờ Thần Chung ngày 31 tháng 5, đả kích thái độ lẩn tránh của họ và tuyên bố: Chân lý buộc tôi phải nói rằng Nguyễn An Ninh vô tội.
Ninh sau đó bị đưa đi Hà Tiên đập đá sỏi. Nhưng hai ngày sau khi anh tới, chủ tỉnh lo ngại ảnh hưởng của Ninh lan rộng trong tù, liền tống anh trở về Khám Lớn Sài Gòn.
Ngày 3 tháng 9 năm 1929, Phan Văn Hùm lên tàu L'Athos II đi tìm chân trời mới. Anh sống ở Pháp rồi chuyển từ chủ nghĩa quốc gia tiểu tư sản sang chủ nghĩa quốc tế vô sản.
Trong thời đó, đảng Tân Việt bị xóa tên khỏi lịch sử. Phần bộ Nam Kỳ Đảng Thanh Niên tan vỡ. Việt Nam Quốc Dân Đảng lần đầu bị phá hủy. Chính quyền thực dân chắc tưởng tượng đã thắng các lực lượng phiến loạn phải chăng? Năm 1930 họ sẽ thấy rằng việc đàn áp khủng bố chỉ tạo nên một thế tình êm lặng trước cơn bão tố.
Việt Nam Quốc Dân Đảng
Năm 1925 ở Pháp, giữa không khí tương đối tự do, Đảng Việt Nam Độc Lập thành lập, thì ở Bắc Kỳ, Việt Nam Quốc Dân Đảng ra đời trong bóng tối. Nhà xuất bản Nam Đồng Thư Xã gây dựng ở Hà Nội cũng năm 1925, do Nhà Giáo Phạm Tuấn Tài, làm tấm bình phong tập hợp một số người như Nguyễn Thái Học, sinh viên Trường Sư Phạm Hà Nội, Phó Đức Chính, Nguyễn Thế Nghiệp và Hoàng Phạm Trân bí danh Nhượng Tống. Họ cảm hứng nơi cao vọng Cách Mạng Pháp và Quốc Dân Đảng Trung Hoa, thời kỳ đó đảng nây đang sôi nổi. Mục đích của Việt Nam Quốc Dân Đảng trùng với mục đích của Đảng Việt Nam Độc Lập: xây dựng một nước Cộng Hòa tư sản độc lập. Tháng 2 năm 1929, khi Việt Nam Quốc Dân Đảng bị phát giác và phá hủy thì ĐảngViệt Nam Độc Lập ở Pháp cũng bị giải tán.
Nếu như Việt Nam Quốc Dân Đảng, cũng như Việt Nam Độc Lập, không chấp nhận quan điểm đấu tranh giai cấp là nền tảng hành động, họ cũng không phải là ít quan tâm tới vấn đề xã hội. Song song với hoạt động bí mật, chương trình của họ cũng gồm công khai ủng hộ thợ thuyền trong các cuộc đình công và lập những lớp học cho công nhân hết mù chữ. Việt Nam Quốc Dân Đảng mở một trường tư giảng dậy bằng chữ Quốc Ngữ, mở rộng ảnh hưởng đến tầng lớp tiểu tư sản có học và đến cả tầng lớp nông dân đông đảo ở đồng bằng sông Hồng. Mặt khác, họ xuất bản bí mật, in bằng Roneo, những tác phẩm như Hồn Cách Mệnh, TamDân Chủ Nghĩa(51) và những cuốn khác về Cách Mạng Trung Hoa. Họ dự định âm mưu binh biến và khủng bố cá nhân. Để cướp được chính quyền, rồi sau khi đó, họ tin rằng lẽ tất nhiên với thiện chí dân tộc sẽ cải thiện được xã hội An Nam trong hòa bình.
Bấy giờ nhân việc mộ phu đi các đồn điên cao su ở Nam Kỳ, ở Cao Miên (Cambodge), ở Nam Trung Kỳ, ở Calédonie và Nouvells Hébrides, họ gặp cơ hội cổ động dễ dàng. Họ thông tin lan rộng về cuộc sống vô nhân đạo ở các đồn điền cao su, để kêu gọi hàng ngàn phu phen khốn khổ hảy coi chừng bị người dụ dỗ bằng những lời hứa hẹn hão huyền. Thế nên số phu phen tầu chở tới Sài Gòn sụt từ 17606 người năm 1927 còn 7428 người năm 1929. Qua năm 1930 cựu Đại Úy bộ binh thuộc địa Paul Monet, còn đưa vụ buôn người nầy ra tố cáo trong cuốn Bọnlái buôn người da vàng, câu chuyện thật (Les Jauniers, histoire vraie -‘’Gallimard’’), để báo động dư luận Pháp. Trong đó ông bày biện bản tường trình nổi tiếng của Delamarre. Những sự bất công quá bê bối ở Nam Kỳ đã vượt khỏi biên giới. Ngay đến cả một tờ báo khuynh hữu Bạn Dân(L'Ami du Peuple) - liệu có thể sẽ mất thuộc địa chỉ vì sự tàn ác ngu ngốc của những kẻ cai trị ở đó hay không? - đã đăng bài của Charles Bellan cựu Công Sứ Pháp ở Đông Dương, viết ngày 14 tháng 9 năm 1928, vạch trần bộ mặt của chính quyền thực dân, qua bản liệt kê những tội ác của chúng ở thuộc địa từ năm 1917. Bài báo công kích Khâm Sứ Baudouin, một ‘’kẻ bạo ngược’’ bị kết tội là ‘’tham nhũng, giả dối, ăn hối lộ và sát nhân, công kích tên Công Sứ Darles bạo dâm, kẻ tổ chức những đòn tra tấn và những cảnh cùng khốn trong 8 năm ở Bắc Kỳ. Bài báo nhắc lại cuộc nổi dậy ở Thái Nguyên ngày 31 tháng 8 năm 1917, sự căm thù đè nén trong lòng dân chúng, nguyên nhân các vụ bùng nổ.
Thiếu chi biến động sắp xảy ra.
Ngày 7 tháng giêng năm 1929, Toàn QuyềnPierre Pasquier bị ám sát hụt.
Ngày 9 tháng 2, lối 8 giờ tối, Bazin, Giám Đốc văn phòng mộ phu cho các đồn điền cao su, vừa ra khỏi nhà số 110 phố Huế ở Hà Nội, ngã chết dưới ba phát súng lục. Hắn làm một nghề tàn khốc. Phu phen chịu đi phải ký giao kèo trói buộc họ trong những điều kiện vô cùng khắc khổ. Ở các đồn điền điều kiện sinh hoạt và làm việc quá khốc liệt, số người chết 40% hàng năm. Bazin lĩnh 10 đồng bạc Đông Dương mỗi đầu phu mộ được.
Ngày hôm sau Lê Văn Sanh bị bắt bởi tình nghi có nhúng tay trong vụ này. Anh là một học sinh đã bị theo dõi vì rải truyền đơn chống mộ phu. Mật thám thu được quyển ghi danh sách trong nhà anh, do đó họ túm thêm 221 người có chân trong Việt Nam Quốc Dân Đảng hoặc bị tình nghi: 40 lính khố đỏ, 36 giáo viên trường công, 4 giáo viên trường tư, 2 thầy dạy chữ Hán, 36 thư ký hành chính Pháp, 13 nhân viên văn phòng hành chính bản xứ, 10 nhân viênthư ký thương mại và kỹ nghệ, 4 nhà báo, 39 nhà buôn và thợ thủ công, và 37 người khác gồm dân cày, thày lang, địa chủ (52). Những nhân vật chủ chốt của đảng còn ngoài vòng.
Ngày 3 tháng 7 năm 1929, Tòa Đại Hình Hà Nội kết án 83 người trong số bị cáo từ 2 năm tù tới 20 năm lưu đày về tội ‘’âm mưu làm cách mạng để thành lập một chính phủ Cộng Hòa’’. (Ta hãy nhớ lại cũng tháng này đảng Tân Việt hoàn toàn bị tiêu diệt trong đợt khủng bố lớn này ở Trung Kỳ).
Việt Nam Quốc Dân Đảng hành tội những kẻ phản đảng. Nguyễn Văn Kinh, họ tin chắc chắn nhiều người mới bi bắt trong tuần tháng 8 là tại Kinh. Anh ta bị đâm chết bằng dao găm trên ghế đá Vườn Bách Thảo Hà Nội đêm 5 rạng ngày 6 tháng 10.1929
Trước đó, ngày 31 tháng 5, hai phụ nữ trẻ đảng viên Đảng Thanh Niên, Thị Nhu và Thị Uyển, bị nghi ngờ định giao nộp Nguyễn Thái Học để cứu lấy người anh bị bắt, đã bị chung số phận trong một đường phố nhỏ ở Hải Phòng.
Việt Nam Quốc Dân Đảng sôi sục tuyển mộ đảng viên trong khi lưới mật thám thắt chặt vòng vây. Ngày 20 tháng 11.1929 mật thám phát hiện được một cái chum có chứa 78 quả tạc đạn tại đám ruộng gần trại lính des Sept Pagodes (7 ngôi chùa) (?). Ngày 23 và 26 tháng chạp, lại thu được 150 quả tạc đạn ở làng Nội Viên và 250 quả ở Thái Hà; bắt sáu người tình nghi chế tạo tạc đạn. Ngày 10 tháng giêng năm 1930, mật thám tìm thấy ở Bắc Ninh những chum chứa đầy truyền đơn cách mạng. Một tháng trước đó, Nguyễn Thái Học, Nguyễn Khắc Nhu, Phó Đức Chính, Đoàn Trần Nghiệp, các thủ lĩnh Việt Nam Quốc Dân Đảng tập hợp ở Võng La, suýt bị bắt. Họ cảm thấy đúng lúc cần phải nổi lên bạo động.
Chiến sĩ Thanh Niên và sinh viên Trường Võ Bị Hoàng Phố trước mộ Phạm Hồng Thái ngày 19.6.1928.
Hàng trước, Lý Tự Trọng người thứ hai từ bên tả, sẽ bị chém ở Sài Gòn ngày 20.11.1931.
CHÚ THÍCH
44.- Louis Marty, Contribution à l'histoire des mouvements politiques en Indochine française (Góp vào lịch sử các phong trào chính trị ở Đông Dương thuộc Pháp), Hanoi 1930-1935, Tập I, tiếng Pháp.
45.- Archives Outremer, Aix-en-Provence. NF 332.
46.- Tạp chí cộng sản, Hanoi, tháng 2.1983, trang 40.
47.- Dân ước là bản dịch những chương I đến chương V của Quyển I Le Contrat social của J.J. Rousseau, mở đầu bằng nhận xét cay đắng: ‘’Con người sinh ra là tự do, nhưng ở mọi nơi họ đều bị cùm xích’’. Nguyễn An Ninh kết thúc bản dịch này bằng lời diễn đạt hy vọng sẽ có người tiếp tục dịch ra.
48.- Archives Outremer, Aix-en-Provence. Slotfom III 48.
49.- Đuốc Nhà Nam số 71, 26.3.1929.
50.- Đuốc Nhà Nam số 94,14.5.1929.
51.- Do Tôn Dật Tiên đặt ra nhằm giành chính quyền bằng quân sự. Nguyên tắc đầu tiên, Dân Tộc, nhấn mạnh sự cần thiết phải chấm dứt những nhượng bộ liên tiếp của Triều Đình Mãn Thanh đối với yêu sách của ngoại quốc trong Chiến Tranh Nha Phiến và những nhượng bộ khác cho nuớc ngoài. Nguyên tắc Dân Quyền là một giai đoạn quá độ trong đó quần chúng khốn khổ và thất học sẽ được giáo dục và hướng dẫn dần dần họ tham gia chính quyền, không cần phải bạo động cách mạng. Nguyên tắc thư ba, Dân Sinh, liên quan tới kinh tế, dự kiến và ‘’hạn chế tư bản’’ (việc bóc lột công nhân phải được giới hạn) và ‘’bình quyền về đất đai’’ (Cách nào cho những chủ đất từ trước đến giờ khỏi bị thiệt thòi).
52.- Louis Marty, Contribution à l'histoire des mouvements politiques en Indochine française (Góp vào lịch sử các phong trào chính trị ở Đông Dương thuộc Pháp), Hanoi 1930-1935, Tập II, tiếng Pháp.