CHƯƠNG V THANH NIÊN CÁCH MẠNG ĐỒNG CHÍ HỘI MẦM MÓNG QUỐC GIA CHỦ NGHĨA CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN ĐÔNG DƯƠNG
Chương trước đã nói tới Đảng Thanh Niên, gắn với lịch sử thành lập các tổ chức chính trị bí mật trong xứ. Bây giờ chúng ta hãy theo dõi từng bước phát triển của tổ chức nầy, từ bản luận văn nhuộm màu Bolshevik trên nền tảng quốc gia chủ nghĩa, cho tới khi chuyển thành đảng cộng sản vào năm 1930.
Trong các nhóm quốc gia chủ nghĩa bí mật chỉ một mình nhóm nầy có trụ sở an toàn ở nước ngoài, do đó tổ chức Thanh Niên không bao giờ bị mất ban chỉ đạo, đã thành công trong việc tạo cơ sở trong nước suốt từ Bắc chí Nam bắt đầu từ năm 1925.
Nguyễn ái Quốc, người sáng lập
Tới Moscou vào mùa Hè năm 1923, Nguyễn ái Quốc hấp thụ được một quá trình huấn luyện rõ ràng theo lối quan liêu hóa, lối mà bộ máy đảng Bolshevik đang tiến triển(53). Từ năm 1922 Staline đã trở thành tổng bí thư của đảng Bolshevik, rồi đẳng cấp bí thư trở thành một tầng lớp xã hội mới, ngày càng xa rời ý thức công nhân. Bộ máy nầy đã ăn tiêu phần lớn trong số thu nhập toàn quốc. Lénine từ tháng 11 năm 1922 đã đề nghị Trotskij tổ chức chống lại nguy cơ nầy. Sự phản kháng nầy đã thành việc cụ thể từ tháng mười năm 1923. Trotskij can thiệp gay gắt tại b ộ chính trị, rôi năm 1924, phát hành quyển Giòng Nước Mới (Cours nouveau).
Đường lối chính trị mà Điện Kremlin đề ra cho đảng cộng sản Đức vào năm 1923 bị chỉ định theo quyền lợi quốc gia Nga: Cuộc cách mạng ở Đức bị hy sinh để Nga được giao thiệp thân thiện với Stresmann. Vào mùa Xuân, khi Stresmann hướng làm dịu tình hình giữa Nga và Đức thì Điện Kremlin ra lệnh cho đảng cộng sản Đức đứng im. Qua tháng 10, khi Stresmann tiếp cận với nước Anh, Điện Kremlin giục đảng cộng sản Đức lao vào cuộc bạo động phiêu lưu, nhanh chóng bị tàn sát.
Sau khi Lénine chết năm 1924, đẳng cấp hưởng đặc quyền do Staline đứng đầu đã chiếm ưu thế rõ rệt đối với những người ủng hộ Trotskij, những người chưa rời bỏ viễn cảnh cách mạng xã hội chủ nghĩa toàn địa cầu. Nếu như vào tháng tư, trong lần xuất bản đầu tiên cuốn Những vấn đề về chủ nghĩa Lénine, Staline đã trình bày tư tưởng của Lénine như sau: ‘’Đối với thắng lợi cuối cùng của chủ nghĩa xã hội những nỗ lực của một nước duy nhất, nhất là đối với một nước nông dân như nước Nga, là không đủ nữa; phải có nỗ lực của những lực lượng vô sản ở nhiều nước tiên tiến’’, thì qua tháng 10, trong lần tác phẩm xuất bản thứ nhì (Staline ra lệnh thu hồi những ấn bản lần thứ nhất), rồi tuyên bố thẳng rằng nước Nga có thể xây dựng chủ nghĩa xã hội riêng một mình, với điều kiện là xứ Nga phải được ủng hộ chống lại các cường quốc đế quốc tái can thiệp.
Đẳng cấp quan liêu theo Staline tìm đến ‘’những lực lượng cách mạng sẵn có ngoài lực lượng vô sản, vì vậy đã vượt giai cấp mà bắt tay với Quốc Dân Đảng’’ (Trotskij, Quốc Tế Cộng Sản sau Lénine). Đẳng cấp quan liêu lấy lý do tránh vượt qua các giai đoạn, mà ứng dụng một chính sách thỏa hiệp với giai cấp tư sản quốc gia ở các xứ thuộc địa và bán thuộc địa. Đệ Tam Quốc Tế đang quan liêu hóa, liền theo chính sách thỏa hiệp ấy, và tự chuyển hóa thành một bộ phận phụ thuộc trợ lực chính sách ngoại giao của Nga, chỉ định các đảng cộng sản đóng vai trò ‘’quân đề phòng biên giới’’ Liên Sô. Vì thế đảng cộng sản còn trẻ trung ở Trung Hoa được lệnh trở thành một bộ phận phụ trợ Quốc Dân Đảng, một đảng quốc gia tư sản mà Liên Sô muốn tìm cách biến thành tường lũy chống các đế quốc chủ nghĩa.
Ở đây nên nhắc lại vào tháng 8 năm 1920 Lénine đã từng lưu ý Quốc Tế phải đề phòng đối với một sách lược như thế:
Nhiệm vụ của Quốc Tế chính là phải ủng hộ những phong trào cách mạng trong các xứ thuộc địa và những xứ lạc hậu, nhưng không phải vì thế mà xen lẫn vào phong trào đó, ngược lại, phải bảo vệ tính chất độc lập của phong trào vô sản, dù phong trào đó chỉ mới có mầm mống (54).
Khi chưa đến mức thúc giục đảng cộng sản Trung Hoa phải phụ thuộcvào Quốc Dân Đảng, Quốc Tế Cộng Sản đã tuyên bố ngày 10 tháng giêng năm 1923 rằng cái đảng còn non trẻ này (thành lập năm 1920) không thể mãi xem mình là ‘’một lực lượng hoàn toàn độc lập’’. Thế rồi Staline liên kết giao đặc huệ với Tôn Dật Tiên, người sáng lập Quốc Dân Đảng. Vào tháng 10, Staline cử Borodine sang làm cố vấn cho Tôn Dật Tiên, với nhiệm vụ tổ chức lại Đảng Quốc Dân theo kiểu tập trung như đảng Bolshevik, với một chương trình vừa quan tâm đến quyền lợi công nhân và nông dân, vừa đồng thời tránh vi phạm tới lợi quyền cơ bản của giai cấp tư sản và địa chủ.
Borodine thuyết phục Tôn Dật Tiên dựa vào lực lượng công nhân và nông dân, bằng cách ban hành Bộ Luật Lao Động và giảm địa tô 25%, hai việc này đã hứa với họ thực hiện từ đầu năm 1924.
Vào tháng 5, Borodine dùng tiền trợ cấp, vũ khí và các huấn luyện viên Nga, sáng lập một trường quân sự để tăng cường lực lượng cho Quốc Dân Đảng, tại Hoàng Phố, cách Quảng Châu 20 km.
Nguyễn ái Quốc, gia nhập vào phân Ban Thuộc Địa của Quốc Tế Cộng Sản kỳ đại hội thứ 5, được cử sang Trung Quốc, chính thức coi như thư ký kiêm phiên dịch cho Borodine, chủ yếu cốt để khuấy động phong trào cách mạng trong xứ mình, từ nơi ‘’thánh địa’’ này, một phong trào quốc gia thân cộng, chống lại chủ nghĩa đế quốc Pháp.
Nguyễn ái Quốc đến Quảng Châu khoảng 6 tháng sau vụ Phạm Hồng Thái ném bom. Tổ chức Tâm Tâm Xã mà Phạm Hồng Thái là một thành viên, đang suy thoái. Những người sáng lập tổ chức này như Lê hồng Sơn, Hồ tùng Mậu, Lâm đức Thụ...mới vừa đua ra lời kêu gọi tập hợp một lực lượng đông đảo hơn, mở rộng cho ‘’tất cả những ai là người thông minh mẫn tuệ không phân biệt đảng phái để phục hồi nhân cách người Việt’’. Một khi tổ quốc được giải phóng thì ‘’ý nguyện của đa số’’ sẽ quyết định tính chất chế độ tương lai.
Nguyễn ái Quốc lập tức liên hệ với nhóm mới này, gọi Tân Việt Thanh Niên Đoàn, với ý đồ chỉ đạo.
Ngày 19 tháng chạp, trong bản báo cáo đầu tiên của ông về ban chấp hành quốc tế cộng sản, ông than phiền những chàng trai đầy nhiệt tình yêu nuớc này ‘’không hiểu biết chi về chính trị’’. Ông hứa sẽ huớng họ chuyển dần theo chủ nghĩa Bolsheviks. Qua ngày 2 tháng 2 năm 1925, ông báo cáo về những kết quả buớc đầu trong bản tường trình thứ 2 của ông như sau:
Lúc này, tôi không phải là một người An Nam mà là một người Tàu.Vì thế tên tôi là Lý Thụy chứ không phải Nguyễn ái Quốc. Chúng tôi lập được một nhóm gồm 9 người hoạt động bí mật. Hai trong số đó đã gửi về nước; ba người ra tiền tuyến (trong quân đội của Tôn DậtTiên), còn một người làm nhiệm vụ quân sự (giúp quân Quốc Dân Đảng). Năm người trong số đó đang chuẩn bị kết nạp vào đảng cộng sản. Hai người đã được gia nhập đoàn thanh niên cộngsản (55).
‘’Nhóm bí mật’’ trên đây tự gọi Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội, trụ sở tại số 13 đường Wang Ming ở Quảng Châu, ở đó Nguyễn ái Quốc tổ chức trường học đào tạo cán bộ tương lai cho xứ An Nam.
Từ tháng 6 năm 1925, Nguyễn ái Quốc phát hành tờ tuần báo Thanh Niên (56) bằng chữ Quốc Ngữ, in bằng Roneo, tuyên truyền hai xu hướng: Vừa khuyến khích kích động tinh thần nòi giống An Nam, vừa động viên đi theo con đường của đảng Bolshevik. Số 1 tờ Thanh Niên xác định rõ lý do phát hành báo này và kêu gọi đồng bào chuẩn bị đứng lên làm cách mạng:
Trong đất nước chúng ta, chúng ta đều bị người Pháp kiểm soát chặt chẽ; ở nước ngoài, chúng ta lại xa cách nhau.Vì lẽ đó phải xây dựng tờ báo này để chúng ta trao đổi những kinh nghiệm thực tế, để cùng nhau hiệp lực tiến hành sự nghiệp đó. Hỡi anh em cách mạng! Từ nay trở đi, chúng ta hãy vất bỏ nhữngmong ước hão huyền về danh vọng và giầu sang. Vì lòng yêu quê hương đấtnước, yêu đồng bào, chúng ta hãy đoàn kết lại! Các bạn hãy làm hết sức mình cho sự nghiệp cách mạng.
Ngày 28 tháng 6, tờ Thanh Niên định nghĩa về cách mạng và cung cấp một tự điển nhỏ, một công cụ trí tuệ mới trong việc thành lập một đảng theo con đường của Lénine ở Việt Nam:
Cách mạng, đó là sự thay đổi cái xấu thành cái tốt, là sự bao gồm những hoạt động do đó một dân tộc bị áp bức trở thành mạnh mẽ:
Lịch sử toàn các xứ cho chúng ta một bài học là bao giờ họ cũng nhờ làm cách mạng mà tiến tới một chính phủ hình thức tốt hơn, mà tăng tiến về giáo dục, về công nghệ, về tổ chức xã hội.
Ngôn ngữ cách mạng được hướng dẫn một cách đơn giản phỏng theo Trung Hoa, khó hiểu đối với những ai chưa nhập môn:
Tiến bộ: Có những bước tiến phát triển.
Tản văn: Chuyện ngắn.
Tả phái: Những người đại diện phái Tả. Trong từng quốc hội, người ta phân biệt ba nhóm: Phái hữu, phái trung và phái tả. Nhóm thuộc phái Hữu thì hèn nhát, nhóm thuộc phái Trung thì lưỡng lự, nhóm thuộc phái Tả thì kiên quyết.
Tự do: Không bị bó buộc. Nước Nhật chẳng hạn là một nước tự do. Việt Nam không được tự do, bị người Pháp cai trị.
Tiền phong: Người đi trước, làm gương. Người Nga chẳng hạn, là những người tiên phong trong công cuộc cách mạng.
Đế quốc chủ nghĩa: Những nước dùng gươm súng chiếm đất đai của người khác, là những nước theo chủ nghĩa đế quốc. Nước Pháp là một nước đế quốc chủ nghĩa vì nó chiếm đoạt đất nước ta.
Tư bản chủ nghĩa: Nhà tư bản, những kẻ không làm gì, chỉ lợi dụng sức lao động của người khác. Chủ tàu chẳng hạn, là một nhà tư sản. Không bao giờ người ta thấy chủ tàu làm ra sắt thép, tham gia vào công việc đóng tàu, cho than vào lò, nhổ neo. Hắn chẳng làm gì cả nhưng thu toàn bộ lời lãi, chứ không đem chia cho thợ thuyền là những người lao động suốt đêm ngày.
Tại sao dân tộc An-nam chịu để người Pháp đè nén áp bức trong hơn năm mươi năm nay? Người dân Việt phải chịu thuế khóa quá nặng nề, tình cảnh khốn cùng của họ quá cực khổ. Tại sao họ còn chưa rũ bỏ cái ách nô lệ? Bởi vì cái lý tưởng về tổ quốc còn xa lạ đối với họ, bởi lẽ họ tưởng rằng cách mạng là một điều nguy hiểm, bởi lẽ họ không hiểu rằng mỗi người dân phải có nhiệm vụ đối với tổ quốc, bởi vì họ thiếu sáng kiến chủ động và trông thấy người Pháp còn run sợ.
Ngày 19 tháng 7, tờ Thanh Niên chỉ ra một thần phương: ‘’Nếu nhân dân muốn đòi quyền của mình thì phải có những đảng chính trị. Muốn vậy, họ phải đoàn kết lại’’. Cũng số báo đó có đăng Bản Tuyên Ngôn của Hội Liên Hiệp các Dân Tộc bị áp bức ở Á Châu, hội do Nguyễn ái Quốc cùng Roy, người Ấn Độ vừa mới thành lập nhằm tập hợp những người An Nam, Trung Hoa, Triều Tiên, Đài Loan, Ấn Độ và Philippins. (Hội này, cũng giống như Hội Liên Hiệp Dân thuộc địa ở Paris, vẫn chỉ dừng ở mức dự án).
Ngày 26 tháng 7, việc hướng dẫn nhập môn lại tiếp tục:
Người ta phân biệt ba loại cách mạng:
- Cách mạng chính trị: Người dân ở những nước bị chính quyền độc đoán áp bức nổi dậy giành lấy tự do và trở thành những nước độc lập. Nước An Nam phải bắt đầu bằng cuộc cách mạng chính trị để giành lại nền độc lập.
- Cách mạng xã hội: Nông dân và công nhân đều bị giới chủ trả tiền công rẻ mặt. Người dân lao động cực khổ suốt đời, giới chủ chẳng làm gì mà thu mọi mối lợi trong tay. Cách mạng là cần thiết để xóa bỏ sự bất công đó và phân phối lại số thu hoạch giữa tư bản và vôsản. Công nhân và nông dân Nga đã hoàn thành một cuộc cách mạng xã hội. Nông dân và công nhân các nước khác cần tổ chức lại để làm như anh em mình ở Nga.
- Cách mạng thế giới: Sau khi có những cuộc cách mạng chính trị và cách mạng xã hội thành công, vẫn còn có những nước bị áp bức, vẫn còn có sự phân biệt giữa các dân tộc. Cần phải có một cuộc cách mạng thế giới. Sau đó, các dân tộc trong bốn biển sẽ đoàn kết như anh em một nhà, khi đó sẽ là kỷ nguyên đoàn kết tương thân tương ái toàn thế giới.
Sau đó Nguyễn ái Quốc trình bày những phong trào chính trị hiện hành trên thế giới như vô chính phủ, cộng sản, bảo thủ, Ku Klux Klan, Phát-xít (fascistes), cần lao, dân chủ, tự do, quốc gia, cộng hòa, bảo hoàng và xã hội chủ nghĩa.
Ngày 9 tháng 8, ông trình bày về phong trào cách mạng Trung Hoa. Ngày 12 tháng 9, tung ra lời kêu gọi lòng yêu nòi giống, hòa lẫn tinh thần tự hào dân tộc:
Chúng ta hãy yêu thương lấy nòi giống của ta. Anh em cùng chung giòng máu hãy yêu thương lẫn nhau! Chúng ta, hai mươi triệu con người máu đỏ da vàng, đều là con cháu Vua Hùng. Biết bao anh hùng đã sinh ra trên đất nước này! Đất nước ta rực rỡ hơn bốn ngàn năm văn hiến. Bao lần quân ta đánh bại quân Nguyên quân Minh.
Chúng ta khuếch trương thanh thế đến tận đất Chàm, đất Miên, và vinh quang của chúng ta vang dội khắp Viễn Đông (57).
Thế thì Nguyễn ái Quốc đã tôn vinh tổ tiên của mình trong công cuộc ‘’Nam tiến’’, một danh từ dè dặt để nói về sự chinh phục dân Chàm ở Trung Kỳ và người Khmer ở Nam Kỳ vào thố kỷ 17. Đó là những giai đoạn lịch sử chiến tranh đen tối đã để lại trong lòng người Khmer ở Cambodge nỗi lo sợ và thù nghịch đối với ‘’kẻ thù truyền kiếp’’.
Ngày 20 tháng 9, Nguyễn ái Quốc cho tái đăng Hải Ngoại Huyết ThưcủaPhan Bội Châu, sách đã phát hành từ lâu. Đây là một lời kêu gọi thiết tha dân chúng nổi dậy, năm 1908. Lúc này Phan Bội Châu vừa mới bị bắt cóc ở Thượng Hải ngày 30 tháng 6 năm 1925, từ đây người có uy tín kêu gọi đồng bào tập hợp này sẽ không trở lại Trung Hoa nữa. Những người xuất dương ở Quảng Châu sống vào tình trạng rắn không đầu, lúc nào họ cũng giữ tình cảm lưu luyến với con người khích động đầu tiên và bất hạnh của họ. Tình thế đó tạo cho Nguyễn ái Quốc một triển vọng lớn để tuyển mộ tại chỗ.
Xu hướng về chủ nghĩa Bolsheviks trở nên rõ rệt:
Những người Bolchevisme giúp đỡ cho các dân tộc bị áp bức giành lại tự do và họ không ngừng nhắc lại: Các bạn hãy luôn luôn học tập; các bạn chớ để mình bị mê hoặc bởi những bài diễn văn đường mật và hay ho của bọn đế quốc; các bạnlà những người bình đẳng đối với chúng tuy rằng thuộc các chủng tộc khácnhau. Như vậy nên chúng ta phải yêu mến người Bolchevisme và căm ghét những kẻ thù của họ là bọn đế quốc.
Thật ra, ngày 18 tháng 10 năm 1925, tờ Thanh Niên in tiêu đề, ở trang hai, ‘’Vô sản toàn thế giới, hãy đoàn kết lại!’’, lời kêu gọi trong bản tuyên ngôn cộng sản năm 1848: Với hình ảnh búa liềm, biểu trưng nước Nga Bolshevik. Ngày 8 tháng 11, tờ báo kỷ niệm cuộc Cách Mạng Tháng Mười. Ngày 22, trong phần kết luận của bài tường trình về những cuộc cách mạng và phong trào chính trị các nước khác nhau, Nguyễn ái Quốc lên án những người theo khuynh hướng xã hội và vô chính phủ, - tuy nhiên ông thận trọng để khỏi mất lòng những kẻ theo hai xu hướng ấy - và ông tuyên bố chỉ tán thành cộng sản mà thôi.
Các thủ lĩnh Đảng Xã Hội đều có liên hệ với bọn đế quốc và tư bản, sau khi được chúng dành cho vinh dự và tiền bạc thì họ khuyến khích những người bạn của họ nên kiên nhẫn hoặc là im lặng một khi họ nhờ sự ủng hộ của công nhân đưa lên nắm chính quyền...
Những đảng viên xã hội Pháp đã giúp sức cho chính phủ trong những cuộc chiến tranh chống Maroc và Syrie, và đã cử những người lãnh đạo có uy tín nhất của họ đi cai trị các thuộc địa, như trườnghợp ông Varenne.
Những người theo phái vô chính phủ có tư tưởng và mục đích cao thượng,nhưng họ không hề có tổ chức, không có chương trình hành động và không có hệ thống cấp bậc nào, như thế thì làm sao có thể gây được phong trào cách mạng?
Những người cộng sản được tổ chức một cách rất chặt chẽ, những mục tiêu củahọ được xác định rõ ràng, hơn nữa, họ dồn hết sức lực của họ đi tiêu diệt bọn đế quốc và chủ nghĩa tư bản, hai thảm họa của nhân loại.
Ngày 22 tháng 8 năm 1926, sau mười bốn tháng kiên trì hướng dẫn nhập môn bằng những công thức tương tự như những câu thần chú, Nguyễn ái Quốc tung ra câu hỏi cho lớp thanh niên yêu nước: ‘’Chúng ta phải gianhập đảng nào?... chỉ duy nhất một đảng kiên quyết có khả năng thực hiện, đó là đảng cộng sản’’. Chúng ta hãy lưu ý rằng cái ‘’đảng’’ đó sẽ ra đời một cách chính thức bốn năm sau.
Ngày 20 tháng chạp, ông lập lại những lời trong tuyên ngôn cộng sản - những người lao động không có tổ quốc - ông tiến thêm một bước trong việc phân biệt hẳn với những khuynh hướng quốc gia chủ nghĩa khác, rồi hướng thanh niên chỉ nên gia nhập tổ chức của ông; đó chính là một cú sét đánh vạch ngang bầu trời ái quốc, lòng yêu nước của ông và lòng yêu nước của những đối thủ:
Cái danh từ tổ quốc là do các chính trị gia tạo ra để đè đầu nhân dân dưới pháp luật và buộc những người vô sản phải cầm vũ khí bảo vệ tài sản của địa chủ và lợi quyền của giai cấp tư sản. Thực ra, chẳng có tổ quốc, cũng chẳng có biên giới. Tất cả những người cách mạng đem hết sức mình ra để cải thiện số phận của toàn nhân loại đều là anh em, và tổ quốc duy nhất của họ chính là trái đất này. Việc chứng minh cho thái độ đó chính là việc các đồng chí người Phápcùng đứng về phía chúng ta chống lại đồng bào của họ kẻ theo chủ nghĩa đế quốc đã cướp nước ta.
Nền giáo dục thân cộng đa tạp do Thanh Niên phổ biến không những bao hàm trong việc hòa hợp về mặt học thuyết giữa chủ nghĩa quốc gia tư sản với chủ nghĩa quốc tế vô sản, mà còn hàm chứa trong sự hòa đồng về mặt văn hóa: Chủ nghĩa Lénine cùng Khổng Giáo, người ta kỷ niệm Cách Mạng Tháng Mười nhưng cũng không quên Khổng Tử.
Ngày 20 tháng 2 năm 1927, kỷ niệm Khổng Tử, Nguyễn ái Quốc viết: Nếu ông thày tư tưởng của Trung Quốc còn sống vào thời đại này thì có lẽ ông đã nhanh chóng trở thành đảng viên xứng đáng của Lénine. Rồi Nguyễn ái Quốc khuyên nên đọc Khổng Tử để tu thân trở thành con người chân chính và đọc Lénine để chuẩn bị đứng lên làm cách mạng.
Ngày 29, Nguyễn ái Quốc nhắc lại những cuộc đấu tranh quá khứ chống lại chính quyền thuộc địa không thể thành công được do thiếu sự giáo dục về chính trị, rồi ông kêu gọi đồng bào hãy tập hợp lại và ‘’tuân theo mệnh lệnh của đảng cách mạng’’.
Tháng chạp năm 1927, báo Thanh Niên mở ra một diễn đàn phụ nữ. Trong mục này người ta bày tỏ lòng bi phẫn đối với tình cảnh phụ nữ An Nam và lên tiếng khuyến khích chị em có điều kiện thuận lợi và có trình độ tiến bộ hơn nên giúp đỡ chị em công nhân và nông dân nghèo thoát vòng hủ bại quá khứ. Mục diễn đàn này bao gồm một loạt những tiểu sử những phụ nữ được lựa chọn không những trong số những người tham gia cáchmạng như Louise Michel, Rosa Luxemburg, Clara Zetkin, Bà Lénine (nguyên bản viết như vậy), mà có cả những phụ nữ yêu nước mang tính chất thần bí, như Jeanne d'Arc.
Thanh Niên nhằm mục đích giáo dục đường lối chính trị cho các đảng viên trong nước, cho in lại những bài giảng ở Quảng Châu. Phần cốt yếu được trình bầy trong tập sách Đường Cách Mệnh, xuất bản vào đầu năm 1927 dùng cho đảng viên. Đây là tóm lược nội dung: Cách mạng Việt Nam là một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, có nhiệm vụ lật đổ đế quốc Pháp và bè lũ tay sai của chúng là vua quan phong kiến. Cuộc cách mạng này do một đảng theo chủ nghĩa Karl Marx và Lénine lãnh đạo, sẽ là sự nghiệp của đa số quần chúng chứ không phải là kết quả của một cuộc đảo chính, một cuộc âm mưu binh biến hay những hành động khủng bố cá nhân. Dưới sự lãnh đạo của Quốc Tế Cộng Sản, cuộc cách mạng này sẽ đi theo con đường Cách Mạng Tháng Mười Nga 1917.
Đường đi Quảng Châu
Nguyễn Đình Tú, một thanh niên 17 tuổi, sau khi đọc Cuộc Đời của Phan Bội Châu, Hồi Trống Tự Do của Trần Hữu Độ, cùng một số sách cấm do anh giáo Hà huy Tập - một chiến sĩ đảng Tân Việt - đưa cho, chàng bị kích động, bèn bỏ học để đi vào Cách Mệnh’’ (58) Ta hãy nhớ lại thuở ấy đảng Tân Việt đang gửi các thanh niên được tuyển mộ sang Quảng Châu để được đào tạo trong trường của tổ chức Thanh Niên.
Cuối tháng 9 năm 1926, Tú cùng với năm thanh niên nữa được bí mật tuyển chọn vì tinh thần cách mạng, rời đất nước, cùng nhau trốn trong sút chứa hành lý dưới hầm một chiếc tàu buôn Trung Hoa. Hành trình suốt bốn ngày từ Hải Phòng sang Quảng Châu. Lâm Đức Thụ đón họ và xếp chỗ trọ trước cửa trường Đại Học Trung Sơn (Tôn Dật Tiên), trong một ngôi nhà lầu, nơi đó đã có một số người trọ từ trước. Đấy là: Ngô, làm bếp và in báo; Quang, sau đó được cử sang phân bộ Xiêm năm 1927; Lý Phương Đức và Lý Phương Thuần từ Xiêm tới, hai nữ đồng chí sinh viên Trường Đại Học Trung Sơn; A Trân, trước kia sang Trung Quốc cùng với Phan Bội Châu.
Người ta phân phối cho họ các tập sách chính trị. Ngày hai buổi sáng chiều, họ nghe giảng về các cuộc cách mạng Trung Hoa và Nga, lịch sử phong trào công nhân ở Châu Âu và Châu Mỹ, những cuộc đấu tranh chống đế quốc ở các nước thuộc địa Châu Á và Châu Phi. Trong số giảng viên có: Trương Văn Lênh, mặc quân phục Thiếu Úy Quốc Dân Đảng; ông Vương (Nguyễn ái Quốc), trên ngực áo có gắn huy hiệu búa liềm bằngđồng; Lâm Đức Thụ, Lê Hồng Sơn, Quí...Các giảng viên hướng dẫn họ học chủ nghĩa Tam Dân của Tôn Dật Tiên, chủ nghĩa cộng sản của Karl Marx và Lénine, chủ nghĩa vô chính phủ, chủ nghĩa Gandhi, phân tích những cuộc đấu tranh chống thực dân ở An Nam. Họ được hướng dẫn phê phán quan điểm quân chủ của Cường Để và ảo tưởng của Phan Bội Châu, về hành động khủng bố của ông trù tính vô hiệu quả. Nhưng các giảng viên không nhắc gì đến Tân Việt, để tránh làm một điều không khôn khéo.
Sau mỗi bài học, học sinh viết thu hoạch về những điều vừa được nghe giảng. Giảng viên chữa ngay bài và nhận xét trình độ từng người để sắp xếp họ vào cuộc hoạt động tương lai.
Người chiến sĩ cách mạng học hỏi lý luận xong, được bổ túc huấn luyện về mặt thực hành cần yếu trong việc hoạt động bí mật, nhầm tạo cho họ có khả năng tuyển chọn những đồng chí mới khi về nước. Làm cách nào để hướng dẫn công nhân thành lập nghiệp đoàn, tổ chức những cuộc bãi công đòi tăng lương hoặc rút ngắn ngày lao động; làm thế nào để thuyết phục người nông dân hợp đoàn tương tế, gây sức mạnh để cùng nhau đứng lên đòi giảm sưu thuế, giảm địa tô; làm thế nào để thâm nhập vào giới lính tập, giới học sinh? Những vấn đề trên được đề cập đến tỉ mỉ từng chi tiết, đồng như phổ biến cách tổ chức một cuộc họp (khai hội), và những điều cần thận trọng về phương diện an toàn. Nếu bị bắt anh chớ có khai gì, dù bị tra tấn. Nếu không, anh sẽ bị tử hình.
Sau ba tuần lễ học tập và thảo luận, lớp nhập môn kết thúc, những thành viên mới chỉ được coi là đồng chí sau khi đã tuyên thệ trước mộ Phạm Hồng Thái, trên đồi Hoàng Hoa Cương, nơi chôn cất ‘’72 vị anh hùng của cuộc Cách Mạng Trung Hoa’’ năm 1911.
Các giảng viên (trong đó có ông Vương) chứng kiến khi làm lễ kết nạp vào đảng. Nguyễn Đình Tú và bốn đồng chí khác đã tuyên thệ và hứa nếu họ phản lại đảng hoặc làm trái lời thề thì sẽ chịu sự hình phạt của đảng, kể cả tử hình.
Trong nghi lễ thần bí về sự hiến mình cùng việc chấp nhận hình phạt cao nhất nếu phạm ‘’lỗi nặng’’, đấy là một nghi thức thừa hưởng từ những hội kín xưa kia, gắn bó cả thể xác lẫn tinh thần người gia nhập vào Đảng Thanh Niên, một tổ chức đòi hỏi phải ‘’hy sinh cho đảng về cả ý nghĩ, quyền lợi và đời sống của mình’’.
Trong trường hợp tuyên án tử hình mà người thi hành án vắng mặt, thì hai người đỡ đầu, chịu trách nhiệm về người bị kết án, phải tự lãnh trách nhiệm hành hình.
Sau lễ kết nạp, các đảng viên phải nhớ thuộc lòng chương trình và điềulệ của đảng. Trước khi lên đường trở về nước, Lâm đức Thụ chụp ảnh Tú và ghi vào sổ đăng ký bí danh của Tú là Văn Cẩm. Cuối cùng Vương và Lâm đức Thụ dặn dò Tú:
Hãy giữ bí mật những gì mà đồng chí biết: Không được nói cho ai hay, kể cả bố mẹ, vợ con, họ hàng, bạn bè, và cả những đảng viên Cách Mệnh...Trong vòng sáu tháng, đồng chí xây dựng ở Quảng Trị một chi bộ từ hai đến mười người và gửi về tổng bộ bản báo cáo viết bằng nước gạo trong một lá thư bình thường viết bằng chữ Nho gửi cho cô Lý Huệ Quỳnh, học sinh trường thuốc Quang Hoa ở Quảng Châu. Khi một người của chúng ta đến gặp đồng chí giơ tay lên trán làm hiệu và gọi tên Cẩm thì đồng chí phải thi hành mệnh lệnh của người đó. Hãy làm tròn nhiệm vụ một cách hăng hái và tận tâm, nếu không đồng chí sẽ bị Tổng Bộ Cách Mệnh trừng phạt.
Vào tháng chạp năm 1926, Tú trở về nước cùng hai đồng chí cũng theo cách thức như khi ra đi.
Ở Vinh, Hà huy Tập đưa Tú đến gặp ban lãnh đạo của Tân Việt (Lê Huân, Trần Mộng Bạch và Phạm Kim Huy) để báo cáo tình hình du học ở Quảng Châu. Tú tường trình những nguyên tắc chung của chương trình ‘’đảng ở ngoài nước’’ đề ra: Đoàn kết mọi người dân An Nam chống thực dân Pháp để thực hiện cuộc cách mạng dân tộc và tuyên bố nền Cộng Hòa; chính phủ mới tùy thuộc vào trình độ tiến hóa của nhân dân. Một cuộc tiến triển tốt đẹp sẽ có thể đưa tới chế độ cộng sản, nhưng nếu những người cộng sản còn thiểu số thì đảng Cách Mệnh sẽ thành lập một chế độ khác.
Hoạt động của đảng Cách Mệnh bao gồm ba giai đoạn: Bí mật, với việc tổ chức các chi bộ; nửa bí mật, với việc phát truyền đơn và có thể ngẫu nhiên huy động bạo hành mưu sát để ‘’kích động quần chúng’’; khi đảng đã có đảng viên ở trong mọi tầng lớp và rộng khắp đất nước đảng sẽ hoạt động công khai, sẽ đoạt chính quyền, huấn luyện quần chúng, tổ chức lại xã hội theo sự chỉ đạo của ban lãnh đạo tối cao.
Tú mắc lời thề với Thanh Niên, cảm thấy mình như không còn dính dáng gì với Tân Việt. Cùng với người em tên là Cường, nhân viên Ty Công Chính Quảng Trị, anh lập ra một chi bộ gồm 4 người: Một bí thư (chính anh), một thủ quỹ (Cường), một phụ trách tuyên truyền và một chịu trách nhiệm điều tra.
Ban lãnh đạo Tân Việt cử một cựu đảng viên là Tú Kiên đến thuyết phục Tú không nên bỏ Tân Việt. Họ những tưởng thực hiện hợp tác với Thanh Niên khi giao cho tổ chức này một số thanh niên để đào tạo, và họ đã bị lúng túng trước tình hình đó.
Nguyễn ái Quốc gửi trở về nước phần lớn số thanh niên đã được huấn luyện cấp tốc, nhưng trong số đó, ông đưa một ít vào học Trường Quân Sự Hoàng Phố (59): Khi thời cơ tới, ở Việt Nam họ sẽ là những người tổ chức các nhóm tự vệ và những người chỉ huy hoạt động quân sự.
Những người ‘’từ Quảng Châu về’’ không chỉ tuyển mộ đảng viên từ môi trường riêng của họ là giới học sinh, mà còn tuyển mộ trong số những hào lý nhỏ ở nông thôn, trong giới thợ mỏ và công nhân các ngành công nghệ ở Bắc Kỳ, trong giới nông dân Trung Kỳ, đồng ruộng Nam Kỳ và trong số các phu đồn điền cao su. Sách báo biên soạn ở Quảng Châu được bí mật đưa về nước, qua các thủy thủ tuyến Hải Phòng-Quảng Châu và qua những người đưa người vuợt biên giới Trung Hoa với Bắc Kỳ (60). Ngoài báo Thanh Niên, tờ báo lý luận, có hai tờ báo cổ động được đua vào trong nuớc từ tháng 2 năm 1927 là Báo Công Nông và Lính cách mệnh kêu gọi lính mới nhập ngũ đừng bắn giết đồng bào khi xảy ra hỗn loạn.
Ở Xiêm (Thái Lan) từ năm 1926, có tờ Thân Ái kết mối liên hệ giữa 30.000 người trong cộng đồng Việt Kiều và trở thành tờ báo hữu nghị của ‘’Xiêm La An Nam Thân Ái Hội’’
Trong bóng tối, song song với bộ máy thống trị thực dân, Đảng Thanh Niên dần dần xây dựng bí mật một mạng lưới cách mệnh, một chính quyền phôi thai. Tổng Bộ đặt ở Quảng Châu là đầu não của đảng và là tòa án tối cao. Ở mỗi kỳ (Bắc, Trung và Nam Kỳ) có một Kỳ Bộ. Các Kỳ Bộ chỉ định ở mỗi tỉnh một Tỉnh Bộ, rồi lần lượt xuống dưới là Huyện Bộ hay Quận Bộ nắm các Chi Bộ hay các Tổ ở làng, cơ sở của cả một hệ thống kim tự tháp, trong đó gồm cả các Thành Bộ nắm các Chi Bộ đường phố và nhà máy.
Yếu tố hỗ trợ đắc lực cho Thanh Niên xây dựng được các tổ chức của đảng ở trong nuớc không phải chỉ nhờ sự giúp đỡ về vật chất của Kremlin, cùng vì trụ sở được an toàn ngoài tầm mật thám Pháp. Mà chính là do lòng yêu nuớc thiết tha theo khuynh huớng quốc gia đã nung nấu và khơi dậy bầu nhiệt huyết của tầng lớp thanh niên học sinh ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ sau vụ án Phan Bội Châu, nhà cách mạng già khuynh hướng khủng bố, hồi năm 1925, và của giới thanh niên Nam Kỳ sau các vụ án Nguyễn An Ninh, một con người yêu nước theo khuynh hướng vô chính phủ lãng mạn những năm 1926 và 1929.
Được tổ chức chặt chẽ, Đảng Thanh Niên phát triển mạnh mẽ nhờ kết nạp những phần tử còn sót lại của các đảng quốc gia trong nuớc khi các tổ chức này bị tan vỡ.
Vào năm 1927, Bắc Kỳ và Nam Kỳ đã có Kỳ Bộ, còn ở Trung Kỳ vẫn thuộc ảnh huởng của Tân Việt. Tổng Bộ quyết định triệu tập một cuộc đạihội toàn quốc ở Quảng Châu, và vào tháng 10, Nguyễn Đình Tú được lệnh vào Huế liên lạc với Lương Béo, con rể của Phan Bội Châu. Ở Huế Tú được biết là mình được cử làm một trong hai đại biểu Trung Kỳ đi dự đại hội. Lương Béo trao nhiệm vụ cho Tú trình bày trong đại hội ba đề nghị, đó là: Lập một Kỳ Bộ cho Trung Kỳ, thúc dục tăng số người gửi sang học Trường Quảng Châu, và thường xuyên gửi về nước những sách báo của Thanh Niên.
Tú lên đường vào tháng chạp cùng với Quốc Anh. Người phụ trách vượt biên giới là Hoàng Lùn chờ họ ở Hà Nội. Từ đó họ lên tàu hỏa đi Đồng Đăng ở biên giới, rồi xuyên rừng tới làng Vĩnh Miên của người Thổ, trọ tại nhà một thổ dân địa phương có vợ là người Việt theo Cách Mệnh. Cải dạng ra người Tàu-Quốc Anh biết nói được tiếng Tàu - họ tới Long Châu sau ba giờ đi bộ. Tại đây Tú gặp lại A Trân, rồi sau hai tuần lễ vượt sông bằng thuyền bè, họ tới Quảng Châu lúc đó đang khuynh động trong tình trạng máu lửa.
Vương (Nguyễn ái Quốc) và Lâm đức Thụ không còn ở đó nữa. Ở đây đã xảy ra chuyện gì từ lần du học đầu tiên của Tú đến giờ? Anh không biết gì về cuộc thất bại lớn lao của công nhân và nông dân, mà màn cuối đang diễn ra ở Quảng Châu.
Trong nước Trung Hoa ngập lửaQuốc Dân Đảng và giai cấp công nhân Trung Hoa sau cuộc Cách Mạng Cộng Hòa 1911.
Triều đại phong kiến cuối cùng cai trị Trung Hoa tỏ ra bất lực trước những yêu sách và lấn lướt của các nước đế quốc. Tầng lớp trí thức thanh niên khuynh hướng duy tân thừa thế lật đổ triều đại đó năm 1911. Xuất phát từ Vũ Hán, phong trào cách mạng đã lan nhanh từ miền trung tới miền Nam Trung Hoa. Tôn Dật Tiên được bầu làm Tổng Thống lâm thời nước Cộng Hòa ngày 29 tháng mười hai năm 1911, lại nhượng quyền cho Tướng Viên Thế Khải, kẻ thống lĩnh quân đội miền Bắc dưới triều phong kiến, y hứa sẽ buộc Hoàng Đế cuối cùng thoái vị. Nhưng Viên Thế Khải ý đồ tự xưng Vương, bèn đem quân xuống đánh quân cộng hòa ở miền trung và miền Nam, làm những năm 1912 tới 1914 là những năm đề kháng chóng bị thất bại, những năm bắt bớ, ám sát và lưu đầy lung tung. Cuộc bạo loạn mãnh liệt bất ngờ hồi tháng chạp năm 1915 làm đảo điên Viên Thế Khải, y bị các Tướng lĩnh bỏ rơi, không được trông thấy cái ‘’năm thứ nhất của triều đại’’ mình mà y đã công bố một cách kiêu hãnh. Y chết trong thời thất bại ngày 6 tháng 6 năm 1916.
Trải qua những năm tháng bạo tàn đó, nước Trung Hoa vẫn ở trong chế độ Cộng Hòa nhưng rã rời từng mảnh. Bọn quân phiệt thoái hóa vẫn tiếp tục cai trị từng vùng, từng tỉnh. Các nuớc ngoài càng ngày càng tăng cường lấn ép để khuếch trương khu vực ảnh hưởng.
Tôn Dật Tiên sau đợt lưu vong dằng dưa ở Nhật, trở về Trung Hoa thành lập Quốc Dân Đảng năm 1919. Tướng quân phiệt Chen Jiong Ming - bấy giờ chủ tể Quảng Châu - cho phép ông thành lập một chính phủ ở đô thành này. Chính phủ Tôn Dật Tiên tuy còn yếu ớt nhưng đã mường tượng đến cuộc Bắc phạt, nói cách khác, mơ mộng một nuớc Trung Hoa tái thống nhất bằng quân lực võ trang, một quốc gia có khả năng chống lại sức ép của nuớc ngoài về chính trị, kinh tế và văn hóa.
Ở đây, một giai cấp công nhân năng động ra đời, do nhu cầu kinh tế của một Châu Âu đang chinh chiến. Từ trước năm 1919 đã từng có nhiều cuộc bãi công nho nhỏ. Năm 1920, công nhân đường sắt Quảng Châu đã thắng lại trong một cuộc bãi công lớn. Năm 1922, thủy thủ Hương Cảng bãi công chống người Anh đòi được tăng lương, nghiệp đoàn của họ được chấp nhận. Một Tổng liên đoàn lao động phát sinh, thợ thuyền và phu phen muốn thoát khỏi chế độ nô dịch (một từ ngữ được áp dụng một cách đích đáng).
Trong các công xưởng của người Trung Hoa hoặc thuộc quyền người nước ngoài ở Quảng Châu, Thượng Hải, Hán Khẩu, Thiên Tân và nhiều thành phố khác, thợ thuyền trong nhà máy sống và làm việc trong những điều kiện tương đương với nhân công nô lệ làm công trong các nhà máy, ở giai đoạn đầu cuộc cách mạng công nghiệp ở Anh. Người lớn, trẻ em, phụ nữ phải làm việc hàng ngày 12, 14, 16 giờ như họ đang tiếp tục hiện nay (những năm 30) để đổi lấy đồng lương 8 xu một ngày mà không hề có chút biện pháp nào để bảo đảm an toàn lao động và sức khỏe cho họ. Một số nhân công trẻ em đông đảo phải làm việc từ 18 đến 20 tiếng đồng hồ một ngày để đổi lấy bát cơm và tấm ván ngủ.(61)
Tổng Liên Đoàn Lao Động họp đại hội lần thứ nhất tại Quảng Châu tháng 5 năm 1922. Đại biểu của 230.000 đoàn viên tới dự. Tôn Dật Tiên đã tuyên bố hợp pháp hóa các nghiệp đoàn. Những cuộc bãi công lan tràn tới miền Trung và miền Bắc Trung Hoa.
Vào năm 1923 Borodine thúc đẩy Quốc Dân Đảng dựa vào lực lượng dân chúng. Nhờ sách lược đó mà tháng 7 năm 1925, đảng này nắm được chính quyền vững chắc trong tay toàn hai Tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây.
Ngày 1 tháng 5 năm 1924, 100.000 công nhân tuần hành ở Thượng Hải cùng một số gấp đôi số công nhân đó tuần hành ở Quảng Châu để đòi cảithiện điều kiện làm việc, tôn trọng sinh hoạt, giáo dục con cái và quyền nghiệp đoàn.
Tại Đại hội lần thứ hai của Tổng Liên Đoàn Lao Động ngày 1 tháng 5 năm 1925, 570.000 đoàn viên cử đại biểu tới dự. Những cuộc bãi công vĩ đại nổ ra ngay sau đó tại các cảng quan trọng ở phía Nam, như Hồng Kông, Quảng Châu, Thượng Hải và những thành phố công nghiệp khác, lên tới cả Bắc Kinh, chủ yếu là chống chủ nghĩa đế quốc Anh mà sự tàn bạo đã gây mầm nổi loạn (tàn sát 12 sinh viên ở Thượng Hải ngày 29 tháng 5 năm 1925, 8 sinh viên ở Hán Khẩu ngày 11 tháng 6, 52 người ở Quảng Châu ngày 23). Phong trào tẩy chay hàng hóa Anh cùng với các cuộc bãi công làm tê liệt Hồng Kông, thành lũy của chủ nghĩa đế quốc Anh ở Trung Hoa. Hơn 250.000 công nhân bãi công rời bỏ Hương Cảng và Sa Diện (Shameen), nhượng địa thuộc Anh-Pháp, rút tới Quảng Châu theo chính phủ Quốc Dân Đảng.
Công nhân sung công các tiệm thuốc phiện và các sòng bạc để biến thành phòng ngủ và làm căng tin. Họ tổ chức các ban củ sát bãi công, toàn thể cấu thành một đội quân thường trực 20.000 người, bày bố một vành đai ngăn chận chặt chẽ bao quanh Hương Cảng và Sa Diện. Cứ 5 công nhân tham gia bãi công cử 1 đại biểu dự cuộc họp đại biểu, cuộc họp này chọn ra ban chấp hành gồm 13 người.
Đấy là mầm mống đầu tiên một chính quyền công nhân ở Trung Quốc. Ban chấp hành bảo trợ xây dựng được một bệnh viện và mười bảy trường học cho công nhân nam nữ và con cái của họ. Có những ủy ban đặc biệt quản lý các quỹ, tổ chức các cuộc bán đấu giá những hàng hóa tịch thu và thành lập các kho lưu trữ tại liệu (62).
Phải chăng đấy là bước đầu thực hiện ‘’quyền tự quyết của những người bị áp bức’’?
Vào tháng giêng năm 1926, trong các tỉnh mà Quốc Dân Đảng quản trị, có độ 800.000 công nhân tổ chức trong nghiệp đoàn và khoảng 600.000 nông dân gia nhập nông hội. Trên những tuyên cáo của Phòng Thương Mại ở Quảng Châu người ta thấy kết thúc bằng khẩu hiệu ‘’Cách Mạng muôn năm!’’. Chính quyền lúc ấy nắm trong tay Uông Tinh Vệ, một người thuộc cánh ‘’tả’’ Quốc Dân Đảng, vừa là Chủ Tịch Đảng, vừa là Thủ Tướng chính phủ kiêm Thanh Tra Quân Đội. Lúc đó Tưởng Giới Thạch mới chỉ là Hiệu Trưởng Trường Quân Sự Hoàng Phố và Chỉ Huy Trưởng Quân Đoàn I.
Trong thời kỳ này, Quốc Tế Cộng Sản thường mô tả Quốc Dân Đảng như một ‘’lực lượng cách mạng bao gồm công nhân, nông dân, trí thức và giớidân chủ thành thị’’, dường như họ không thấy tính chất cơ bản tư sản giai cấp của đảng này.
Giai cấp tư sản Trung Hoa, bọn mại bản, bọn lái buôn lớn, các chủ thầu, và cả các chủ ngân hàng, quyền lợi chúng mật thiết gắn bó với tư bản ngoại quốc, chúng lo sợ trước cuộc vận động công nhân ngày càng cấp tiến. Đồng thời giai cấp địa chủ cũng hoảng hốt trước hoạt động của nông dân. Tưởng Giới Thạch chính là người mà họ đang cần. Tưởng làm yên tâm giới tư sản, hướng lên nắm chính quyền.
Sớm ngày 20 tháng 3 năm 1926, Tưởng cho bắt 50 chính ủy trong các đơn vị quân đội của y, phần đông là đảng viên cộng sản. Y đưa quân chiếm trụ sở Ủy ban bãi công ở Quảng Châu-Hương Cảng, tước vũ khí hai ban củ sát bãi công. Tưởng chiếm cơ quan hành chính của Quốc Dân Đảng (Uông Tinh Vệ trao ấn triện quyền lực cho y rồi trốn sang Âu Châu). Ngày 14 tháng 5, Tưởng ra lệnh thiết quân luật, qua ngày 15 nắm trọn quyền hành.
Tưởng ra lệnh phe cộng sản phải giao cho Quốc Dân Đảng bản danh sách đầy đủ những người là thành viên của hai đảng phái, họ không được quyền giữ những chức vụ quan trọng nữa và cũng không được quyền chiếm quá một phần ba số chức vụ bực thấp trong bộ máy Nhà nước. Y buộc những người cộng sản phải ủng hộ y trong chiến dịch tấn công các lực lượng miền Bắc. Và trong thời gian đó mọi cuộc đình công đều coi là bất hợp pháp. Tóm lại, chính phủ Quảng Châu đã trở thành một chế độ độc tài quân sự chống cộng trong tay Tưởng Giới Thạch.
Staline không bộc lộ thái độ. Hơn thế nữa, y ra lệnh cho báo chí im tiếng. Ngay đến Quốc Tế Cộng Sản một năm sau mới biết được tình thế nói trên.
Cũng trong tháng đó, Tưởng Giới Thạch được mời dự Đại Hội Lao Động toàn quốc lần 3, một lần nữa y lại đội lốt cộng sản. Kết thúc bài diễn văn y giơ nắm tay lên hô ‘’Cách mạng muôn năm!’’, những tràng pháo tay làm rền vang phòng họp. Đảng cộng sản Trung Hoa không thông báo cho các nghiệp đoàn biết cái tin Tưởng Giới Thạch đảo chính.
Vào tháng 7, quân đội của Tưởng bắt đầu tiến lên phía Bắc, giao quyền cai trị Quảng Đông cho Tướng Lý Tế Thâm. Bọn cường hào gian ác trong vùng, thừa cơ bọn quân phiệt sở cậy nơi chúng bèn tập hợp lại, thành lập ‘’Liên đoàn lao động trung ương’’ được tung ra để chống lại Tổng Liên Đoàn Lao Động. Thợ thuyền đứng lên tự bảo vệ. Từ ngày 3 đến 9 tháng tám, 50 công nhân bị giết. Những quyền lợi đoạt được sau nhiều năm tranh đấu mất hết. Cờ bạc lan tràn, các sòng bạc lại mở ra. Trong hai Tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây, nông dân đã từng chiến đấu hỗ trợ Quốc Dân Đảng nay bị đội quân thô bạo của Tưởng tấn công, ám sát những người lãnh đạo, triệt hạ các nông đoàn.
Còn về cuộc bãi công ở Hương Cảng bắt đầu từ tháng 6 năm 1925 khí thế mãnh liệt như thế, bị chính phủ mới ở Quảng Châu nhận chìm hoàn toàn để gây mối quan hệ thân thiện với Thống Đốc Anh ở Hương Cảng.
Đó là đoạn đầu trong cuộc thất bại của giới lao động Trung Hoa mà người chứng kiến tận mắt là Harold Isaac đã mô tả trong Tấn bi kịch của cuộc cách mạng Trung Hoa.
Tấn bi kịch Trung HoaThượng Hải, tháng 2 đến tháng 4.1927.
Khi quân Tưởng Giới Thạch tiến lên phương Bắc thì chính quyền ở Thượng Hải nắm trong tay bọn quân phiệt miền Bắc. Tổng Liên Đoàn Lao Động dưới ảnh hưởng cộng sản, vẫn có uy thế để kêu gọi lực lượng công nhân 350.000 người đứng lên tổng bãi công. Tên quân phiệt chỉ huy đạo cảnh binh sở tại tung bọn sát thủ ám sát công nhân. Chúng cầm trường kiếm gieo kinh khủng khấp đường phố. Lực lượng cảnh sát ở các khu vực nhượng địa ngoại quốc cũng tiếp tay tham gia bắt bớ.
Tưởng Giới Thạch hạ lệnh dừng cuộc tiến quân.
Ngày 21 tháng 3, Lao Động lại kêu gọi bạo động vũ trang. Chiều ngày 22, công nhân tự vũ trang súng trường và liên thanh, khí giới tước đoạt nơi đồn quân cảnh vệ, bày bố kiểm soát khắp Thượng Hải.
Ngày 26, Tưởng xung quân nhập thành, được hoan nghênh bằng những tiếng hô ‘’Cách mạng quốc gia muôn năm! Hoan nghênh Tưởng Giới Thạch!’’. Rồi trong khi ban lãnh đạo Tổng Liên Đoàn Lao Động hoan hỉ và tuyên bố sẽ đòi các đế quốc phục hồi ngay các nhượng địa, thì Tưởng đưa người của y nắm các chức vị then chốt, tuyên bố thiết quân luật và buộc công nhân nộp vũ khí.
Ngày 31, Tưởng trấn an các đế quốc: Hắn sẽ không dựa vào bạo lực của quần chúng để làm thay đổi chế độ các cơ sở thuộc nước ngoài. Cùng ngày hôm đó, Moscou nhắc lại chỉ thị là phải tránh tạo ra một phong trào công nhân độc lập: Phải cất dấu vũ khí, nói một cách khác là khoanh tay phó mặc chúng tàn sát mình.
Ngày 12 tháng 4, vào 4 giờ sáng, Tưởng giục thả bầy thú dữ săn người, 3.000 quân bắt tay cùng lũ côn đồ đàn em phái Lục Lâm đang trấn giữ cửa sông Dương Tử. Bên cạnh họ còn có lực lượng cảnh sát của các khu vực nhượng địa của Pháp, Anh và Nhật Bản. Các đội hành quyết không ngưng nổ súng. Tên ‘’Pilsudski Trung Hoa’’ đã chuyển từ ‘’cuộc cách mạng quốc gia sang chủ nghĩa Phát-xít quốc gia’’, như Trotski đã nói trước từ ngày 3 tháng tư.Thế mà ngày 21 Staline còn tuyên bố rằng cácbiến cố vừa xảy ra xác nhận hoàn toàn đường chính trị Quốc Tế Cộng Sản là đúng đắn.
Vũ Hán, 15 thắng 7.1927
Đảng cộng sản Trung Hoa bị loại ra ngoài vòng pháp luật ở Thượng Hải, những người lãnh đạo chạy đến Vũ Hán trú chân một thời gian ngắn. Nơi đó Uông Tinh Vệ sau khi lưu vong trở về, bèn cùng một số Tướng lĩnh đầy tham vọng xây dựng lại một chính phủ mà Moscou vẫn cứ gọi là thuộc phái tả. Các Bộ Lao Động và Nông Nghiệp trong chính phủ đó do cộng sản nắm, nhưng Uông Tinh Vệ vẫn cứ để quân sĩ của mình treo cổ nông dân khốn khổ tập hợp trong các nông hội. Nối gót Tưởng Giới Thạch, Uông ra lệnh cấm bãi công, chiếm đóng 25 trụ sở nghiệp đoàn và hạ lệnh cho đảng viên Quốc Dân Đảng tuyệt giao với đảng cộng sản Trung Hoa.
Sau cùng, Moscou phản ứng: Ngày 14, Điện Kremlin tuyệt giao với Quốc Dân Đảng của Tưởng Giới Thạch. Ngày 27, trong lúc các lãnh tụ cộng sản phải chạy trốn, máu của công nhân đang đổ ra ở Vũ Hán, những chùm người bị treo cổ ngày càng nhiều ở nông thôn các tỉnh miền Trung, thì đặc phái viên Nga là Borodine được nghinh tống trong lúc ông rời bỏ thành phố. Người ta phải dành cho ông ta vinh dự đó, lẽ cố nhiên: Phải chăng ông đã từng tuyên bố rằng ‘’trong giai đoạn hiện thời những người cộng sản phải làm phu phen cho Trung Hoa Quốc Dân Đảng’’?
Trên đường trở về Nga, Borodine thổ lộ cùng bà Louise Strong, người cùng đi với ông, sự nhận định cuối cùng của ông về cuộc cách mạng Trung Hoa:
Giai cấp đại tư sản chẳng bao giờ có thể thực hiện được việc thống nhất Trung Hoa, bởi lẽ họ không thực sự chống lại chủ nghĩa đế quốc. Họ là đồng minh của đế quốc và chia lợi nhuận với đế quốc.
Giai cấp tiểu tư sản không thể thống nhất Trung Hoa, bởi họ lưỡng lự, đứng giữa một bên là lực lượng công nhân và nông dân và bên kia là tư sản, để rồi cuối cùng sẽ liên kết với tư sản. Công nhân và nông dân cũng không thống nhất được Trung Hoa bởi lẽ họ quá tin tưởng vào giai cấp tiểu tư sản (63).
Borodine bị hạ ngục ở Moscou vào tháng 2 năm 1949, chết trong một sà lim nhà tù Loubianka tháng 3.1951.
Những cuộc nổi dậy tuyệt vọng
Ngày 7 tháng 8.1927, Quốc Tế Cộng Sản đánh điện gọi đảng cộng sản Trung Hoa ‘’tổ chức công nhân và nông dân nổi dậy dưới bóng cờ tả phái Quốc Dân Đảng’’.
Đảng cộng sản Trung Hoa phát biểu một số ý kiến phản bác (chủ yếu là của Trần Độc Tú, người bị đổ lên đầu những lỗi lầm gây nên tổn thất) chống lại chủ trương phiêu lưu đó bị gạt đi. Hướng theo chỉ thị Quốc Tế, hai tướng cộng sản chỉ huy đạo binh ‘’Bắc phạt’’ gần ba ngàn người tại Nam Xương, Tỉnh Giang Tây, phất cờ khởi nghĩa, huy động quần chúng nông dân nổi dậy với triển vọng thiết lập chế độ Sô-viết. Liền theo đó, họ bị quân đội tả phái Quốc Dân Đảng đánh tan. Nông dân nổi dậy liền theo đó lần lượt bị thất bại ở Hồ Bắc, Hồ Nam, cũng như ở Quảng Đông, Quảng Tây.
Quảng châu, 11 tháng chạp 1927
Hàng ngàn đảng viên cộng sản vong mạng trong cuộc đàn áp và khủng bố. Vào tháng 11, Moscou chỉ thị cho các đồng chí trung thành ở Quảng Châu phát động khởi nghĩa dưới khẩu hiệu ‘’Tất cả chính quyền về tay các Sô-viết đại biểu công nhân, nông dân và dân nghèo’’. Ngày khởi nghĩa được ấn định vào hôm 13 tháng chạp, ngày khai mạc đại hội lần thứ 15 đảng cộng sản Liên Sô; nếu Quảng Châu mà được thành công thì có thể loại trừ Trotskij và phái Tả Đối Lập rất dễ dàng.
Tương quan lực lượng thật nguy hại: Các tổ chức công nhân bị Lý Tế Thâm tấn công vào tháng 4, rồi lần thứ hai lại bị đối thủ của Lý Tế Thâm là Trương Phát Khuê đàn áp. Qua tháng 10, ủy ban cách mạng thành phố chỉ còn trông cậy ở lực lượng cựu thiếu sinh quân trường Hoàng Phố trong đó 500 người chịu ảnh hưởng đảng cộng sản Trung Quốc, cùng với khoảng 500 công nhân còn sống sót sau cuộc bãi công ở Hương Cảng, bị đuổi ra khỏi ký túc xá và chỉ được trang bị một số vũ khí quá ít ỏi: Ba chục khẩu súng lục, năm chục khẩu súng trường và hai trăm lựu đạn.
Sau đây là đại lược những gì đã xảy ra qua câu chuyện kể lại trong cuốn Bạo Động Vũ Trang của A. Neuberg (Heinz Neuman), người cộng sản Đức được giao nhiệm vụ chỉ huy các chiến dịch.
Âm mưu khởi nghĩa bị lộ, cần phải quyết định hành động sớm; những thiếu sinh quân cộng sản nổi dậy đêm 10 và 11 tháng chạp giết chết tên chỉ huy và một số sĩ quan, rồi cùng với nhóm chỉ huy công nhân có vũ khí, chuyển sang tấn công những phân đội Quốc Dân Đảng đóng rải rác trong thành phố. Nhờ họ đánh bất ngờ mà những người bạo động làm chủ phần lớn thành phố sau một ngày dài chiến đấu ác liệt trên đường phố. Những phân đội Quốc Dân Đảng bị tước vũ khí và bị giải tán.
Cơ quan ‘’Sô viết đại biểu công nông binh’’ đặt trụ sở hành chính tại Tổng hành dinh quân cảnh sát và tuyên bố thành lập Công Xã Quảng Châu.
Công xã phóng thích hàng ngàn tù chính trị, họ liền gia nhập cáclực lượng khởi nghĩa. Công xã hạ lệnh tịch thu tài sản của giai cấp tư sản và các chủ ngân hàng, biến các nhà cửa của những người giàu có thành cư xá cho công nhân, quốc hữu hóa đất đai của đại địa chủ, hủy bỏ những khoản nợ của bọn cho vay nặng lãi, công bố tự do báo chí, ngôn luận và hội họp cho quần chúng công nhân, quyền bãi công..., tóm lại là cả một chương trình lẽ ra có khả năng tập hợp được đông đảo dân nghèo nếu như họ không bị thường xuyên lừa dối từ một năm rưỡi nay.
Chiều ngày 13, Công Xã Quảng Châu khởi đầu đối diện cuộc khủng bố vô cùng quyết liệt. Chiến sĩ khởi nghĩa ngã gục trước làn đạn của quân Lý Tế Thâm và Trương Phát Khuê hợp sức đàn áp. Những khẩu đại bác của quân Anh, quân Nhật và Trung Hoa bắn chặn để mở đường tiến cho các đội quân tiếp viện.
Bọn sát nhân lập ra những tòa đặc biệt để tiếp tục giết người. Tất cả những ai tàng trữ sách cấm, vũ khí và đạn dược đều bị xử bắn. Những kẻ tố giác được thả tự do. Những người bị tình nghi bị đưa vào những ‘’trại trừng giới’’ trong 2, 3 năm, trừ phi những kẻ thuộc về những gia đình ‘’danh giá’’. Những người An Nam, Triều Tiên, Nga, nếu xác nhận là cộng sản đều bị hành hình; những người Âu thì trao trả cho sứ quán và bị trục xuất.
Tờ Thanh Niên ngày 17 tháng chạp năm 1927 phác họa tổng kết tình hình đó như sau, trong lúc thây người vẫn còn chất đống trên các đường phố:
Theo gương Công Xã Paris, ngày 11 tháng chạp, công nhân, nông dân và binh lính đó ở Quảng Châu đã cầm vũ khí lật đổ chính phủ quốc gia và thiết lập chế độ Sô-viết. Chiến thắng to lớn đầu tiên này của giai cấp vô sản là sự kiện nổi bật nhất trong lịch sử cách mạng ở Viễn Đông. Nhưng chẳng may, ba ngày sau chiến thắng, những người cộng sản phải chịu thất bại nặng nề và phải từ bỏ chính quyền. Tổn thất bên cộng sản như sau: Bị giết 10.000 người, bị xử bắn 2.500 người, người Nga bị ám sát 18 người. Ngoài ra vô số phụ nữ, trẻ em và những người cách mạng nước ngoài đã vong mạng trong những ngày đẫm máu đó.
Những rắc rối nhỏ trong tổ chức Thanh Niên
Vào tháng 4 năm 1927, trong lúc Tưởng Giới Thạch vừa mới công bố thiết quân luật ở Thượng Hải và Lý Tế Thâm trở về Quảng Châu để săn lùng giết hại những công nhân nghiệp đoàn, thì Nguyễn ái Quốc không còn ở Quảng Châu. Ông ở Moscou trong mùa Hè, trong khi Tổng Bộ Thanh Niên vẫn đóng tại chỗ mà không có gì lo lắng nghiêm trọng, mặc dù họ có liên hệ mật thiết với đảng cộng sản Trung Hoa. Lâm đức Thụ được thả sau một tháng bị tù, đến trú tại Hương Cảng.
Khi Nguyễn Đình Tú tới số5 phố Nhân Hưng tuy không gặp được Vương và Lâm Đức Thụ nhưng lại gặp được những đồng chí mới, đó là:
Nguyễn Sĩ Sách và Trần Hậu Toàn, người của Tân Việt phái sang để thương lượng việc thống nhất hai đảng. Sau đó Sách gia nhập Thanh Niên, còn Toàn một mình trở về Trung Kỳ mang theo mình những đề nghị của Tổng Bộ. Năm 1929, Sách bị lính ngục ám sát ở Lao Bảo.
Hồ Lan Sơn, một Thiếu Sinh Quân Trường Hoàng Phố, 5 năm sau, dưới tên là Phạm Kim Sơn, là bị cáo số 41 trong vụ án 122 đảng viên đảng cộng sản tại Sài Gòn.
Bàng Thông, sinh ở Bắc Kỳ, chiến đấu ở Nam Kỳ, là người sau này được đảng bộ phân lập ở Bắc Kỳ vào năm 1929 giao cho nhiệm vụ kết hợp với phân bộ Nam Kỳ để thành lập một đảng cộng sản.
Nguyễn Trung Nguyệt, một nữ đồng chí trẻ ‘’da rất trắng mặc theo