CHƯƠNG VIII ĐÔNG DƯƠNG C ỘNG SẢN TẢ PHÁI ĐỐI LẬP CHỐNG CHỦ NGHĨA STALINE XUẤT HIỆN TẠI PHÁP
Thử nghiệm đè xuất lý luân chính trịÝ nghĩa cuộc khởi nghĩa Yên Báy
Từ tháng 4 năm 1930, hai cơ quan ngôn luận của Liên minh cộng sản ở Pháp là Đấu Tranh Giai C ấp (La Lutte de classes) và Sự Thật (La Vérité) dành riêng những cột báo cho Nhóm xuất dương Đồng Dương sử dụng. Huỳnh Văn Phương đăng bài ‘’Cuộc kinh doanh xứ Đông Dương và giai cấp tư sản An Nam’’ trên tờ Đấu tranh Giai Cấp, trong đó Phương hạ nhục giai cấp tư sản - đại diện là Đảng Lập Hiến - về ý thức cầu lợi của họ, lợi dụng phong trào cách mạng quần chúng đang lên để đòi cho được những thuận lợi cơ bản cần thiết cho sự phát triển của họ. Còn Tạ Thu Thâu, anh viết trên tờ Sự Thật từ tháng 4 tới tháng 6, bài ký tên là Một người cộng sản Đông Dương, nghiên cứu về cuộc khởi nghĩa Yên Báy và những triển vọng cách mạng hiện thời.
Tạ Thu Thâu điểm lại các phong trào chống thực dân, nhấn mạnh tính chất phản động của phong trào chống Pháp xâm nhập và đô hộ, từ buổi đầu tới năm 1900 (mưu sát, khởi nghĩa du kích và binh biến do các quan lại và sĩ phu trung thành với chế độ vua chúa cầm đầu). ‘’Nguyên nhân chủ yếu là họ phản kháng chống lại cách thức sinh hoạt mới, kiểu sản xuất mới’’. Thâu nói từ năm 1900 trở đi, các phong trào ấy tuy có khác nhau về nội dung xã hội và về tổ chức, nhưng tất cả đều có tính chất tư sản trong các điều đòi hỏi như quyền tự do về kinh tế và độc lập.
Thâu cho rằng cuộc khởi nghĩa Yên Báy là ‘’sự nghiệp của tả phái quốc gia, tập hợp những sinh viên chịu ảnh hưởng Cách Mạng Trung Hoa và theo học thuyết Tôn Dật Tiên- một học thuyết tổng hợp nên dân chủ, dântộc chủ nghĩa và có đôi chút xã hội chủ nghĩa-, họ là phái tán thành lật đổ chủ nghĩa đế quốc bằng bạo lực, ngược với phái hữu, tức là Đảng Lập Hiến.
Trong khi chúng tôi tuyên bố đứng về phía 52 người (chiến sĩ Việt Nam Quốc Dân Đảng) bị tử hình, 50 người bị khổ sai cũng như 5 người bị lưu đày, chúng tôi vẫn dành cho mình cái quyền của người cách mạng để phê phán phong trào này. Chúng tôi xem đấy là một cuộc nổi dậy tổ chức đơn sơ, phần lớn dân chúng vẫn giữ thái độ bình lặng (nhiều nông dân vẫn sẵn sàng giúp đỡ bọn lính đi đàn áp). Đấy là một thứ quốc gia chủ nghĩa thần bí, dựa trên nền tảng lý tưởng mơ hồ, trừu tượng, làm cho ta không thấy rõ được những quan hệ giữa các giai cấp, cùng mối liên hệ thực sự giữa giai cấp tư sản bản xứ với chủ nghĩa đế quốc Pháp. Vấn đề khẩn cấp phải trù hoạch là việc đào tạo chiến sĩ cách mạng theo chủ nghĩa Karl Marx.
Sau Yên Báy phải làm gì?
Tạ Thu Thâu đáp phải đào tạo ở các xứ thuộc địa một đội tiên phong có ý thức về vấn đề xã hội, không còn bị chủ nghĩa quốc gia xúc động, một thứ ‘’chủ nghĩa chủ quan chính trị’’làm cơ sở lý luận không những cho Việt Nam Quốc Dân Đảng mà cả ‘’chủ nghĩa cộng sản duy danh’’ của Đảng Thanh Niên cũng sở cậy vào nó. Chủ nghĩa quốc gia chỉ đưa đến thất bại. Phải tập hợp quần chúng công nhân và nông dân, làm cho họ giác ngộ về quyền lợi chung của họ, về khả năng đoàn kết của họ, và lôi cuốn họ đấu tranh có suy nghĩ. Phái Tả Đối Lập phải ‘’chinh phục số quần chúng chưa nhiễm phải những luận điệu theo xu hướng Staline’’.
Tiếp đó Thâu phân tích xã hội Đông Dương đã tiến hóa theo con đường tư bản chủ nghĩa do thực dân xâm nhập, đại khái quan hệ các giai cấp trong xã hội Đông Dương như sau:
Một bên là: Tầng lớp vô sản mới mẻ (hầm mỏ, các công ty tư bản lớn - tàu vét, tạo tác công trình công cộng, điện lực, xi măng, nấu rượu, vận tải - nói chung là những công nghệ mới) bị bóc lột thậm tệ, chưa có kinh nghiệm chính trị; một tầng lớp nông dân bị bóc lột, tước đoạt đất đai (bị tầng lớp đại địa chủ, bị các công ty nhượng địa lớn cùng Hội Truyền Giáo). Ba phần tư dân số Đông Dương là nông dân. Bên cạnh lớp vô sản công nghiệp, một tầng lớp công nhân nông nghiệp và công nhân các đồn điền cao su còn phát triển một cách nhanh chóng ngạc nhiên. Còn một bên là giai cấp tư sản ChâuÂu và Trung Hoa, chúng lôi kéo giai cấp tư sản bản địa, và đồng thời lệ thuộc một phần giai cấp tiểu tư sản bằng cách sử dụng họ trong bộ máy quân sự và hành chánh tương đối quan trọng. Giữa hai tập đoàn đó thì có những tầng lớp trung gian (tiểu nông, tiểu viên chức, trí thức) xao động khá đông đảo, quá trình phân hóa giai cấp còn chưa kết thúc.
Thế giới, mặc dù về chính trị còn bao gồm nhiều quốc gia khác nhau, đang hướng tới một tổng thể về kinh tế, cuộc cánh mạng tư sản thế giới được tiến hành song song với sự phát triển bản thân chủ nghĩa tư bản. Thế nên trong thế giới cuộc cách mạng dân chủ không còn là vấn đề. Hiện nay chỉ phải thực hiện cách mạng vô sản xã hội chủ nghĩa. Phải nhập làm một vấn đề giành độc lập với cuộc cách mạng vô sản.
Vấn đề lưỡng nan độc lập hay nô lệ ngày nay đuợc đạt ra dưới một hình thức cụ thể hơn: Hoặc hướng về chủ nghĩa xã hội hoặc theo chủ nghĩa quốc gia.
Qua bài viết này người ta đã thấy bộc lộ sự phân hướng cơ bản giữa lý luận ‘’cách mạng tư sản-dân quyền’’ mà đảng cộng sản Đông Dương chấp nhận với cái lý luận gọi là ‘’cách mạng thường trực’’, cơ sở lập trường của Tả Phái Đối Lập.
Quốc Tế Cộng Sản ra chỉ thị định nghĩa ‘’cách mạng tư sản dân quyền’’ là giai đoạn đầu của cuộc cách mạng ở Đông Dương, giai đoạn lịch sử nhằm giải phóng dân tộc, thông qua chính thể ‘’công nông dân quyền chuyên chính’’, sẽ hoàn thành những nhiệm vụ cách mạng tư sản dân quyền trong đó gồm cải cách ruộng đất, mà không động đến các phương pháp sinh sản thuộc quyền sở hữu của giới chủ tư bản. Trong chương trình năm 1932, đảng cộng sản Đông Dương tỏ bày một cách cụ thể quan điểm của đảng như sau:
Tịch thu không bồi thường toàn bộ đất đai và rừng rú, toàn bộ tài sản của bọn đế quốc, bọn địa chủ, bọn cho vay nặng lãi, của các gia đình vua chúa, quan lại, hào lý. Phân chia các đất đai ấy có cho các công nhật nam nữ, cho nông dân nghèo và những trung nông không bóc lột sức lao động của người khác. Trả lại cho người cày những công điền và công thổ mà họ đã bị tước đoạt.
Đối với công nhân, ngày làm 8 giờ và cải thiện căn bản những điều kiện lao động. Bảo hiểm xã hội do giới chủ và Nhà nước chịu chi phí. Quyền tự do hoàn toàn về lập hội và hoạt động cho các nghiệp đoàn giai cấp (74).
Còn lý luận cách mạng thường trực, do Trotski thuyết minh năm 1905, vừa mới được diễn đạt tại năm 1929 lúc Trotski bị lưu đày ở Prinkipo:
Lý luận cách mạng thường trực đối với những nước lạc hậu đang phát triển theo xu hướng tư bản, và đặc biệt đối với những xứ thuộc địa và bán thuộc địa, có nghĩa là cái giải pháp chân chính và đầy đủ để giải quyết những nhiệm vụ dân chủ và giải phóng dân tộc chỉ có thể là chuyên chính vô sản (vô sản độc tài) kéo quần chúng nông dân theo cùng vô sản. Giai cấp vô sản một khi nắm chính quyền, thành một lực lượng lãnh đạo cuộc cách mạng dân chủ, sẽ không sao tránh khỏi và rất nhanh chóng thấy mình đứng trước những nhiệm vụ buộc họ phải tiến hành những cuộc đột nhập sâu vào quyền sở hữu tư sản (nghĩa là xâm phạm tài sản của giai cấp tư bản).
Cuộc cách mạng dân chủ, trong quá trình phát triển của nó, sẽ chuyển trực tiếp thành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa và như vậy trở thành cuộc cách mạng thường trực. Cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa không thể hoàn thành được trong phạm vi quốc gia. Cuộc cách mạng ấy bắt đầu trên phạm vi quốc gia, phát triển trên trường quốc tế và hoàn tất trên toàn thế giới, giữa thắng lợi quyết định của xã hội mới trên toàn quả địa cầu (75).
Đó là một cuộc cách mạng liên tục, do giai cấp vô sản công nghiệp và nông nghiệp lãnh đạo, dựa vào lực lượng những tầng lớp nghèo nhất trong giai cấp nông dân.
Cộng sản đối lập tả phái ở Đông Dương tuyên bốtháng 8 năm 1930
Trong khi Tạ Thu Thâu và các bạn bị trục xuất khỏi nước Pháp, Phan Văn Hùm và Hồ Hữu Tường từ Toulouse và Lyon đến Paris vào tháng 5, họ tham dự biểu tình phản đối vụ kết án tử hình Yên Báy nhưng thoát khỏi lưới cảnh sát. Trú ngụ ở Bruxelles (xứ Belgique), họ sắp đặt ra một tờ báo in polycopiée, tờ Tiền Quân, để thanh minh về vấn đề cách mạng Đông Dương trước khi nhóm ‘’An Nam Cách Mạng Xuất Dương’’ họp đại hội. Trong báo đó, họ triển khai những ý tưởng đồng như Tạ Thu Thâu trong tờ Sự Thật, nhấn mạnh sự nguy hiểm khi bám vào chủ nghĩa Tam Dân (của Tôn Dật Tiên) theo khuynh hướng ‘’cựu học’’, và cũng nguy hiểm không kém khi tin tưởng như ‘’một vài anh tân học’’, rằng chỉ sau vài tháng học tập ởMoscou thì đã thấm nhuần những lời chỉ dạy của Karl Marx và Lénine.
Đêm 13 rạng ngày 14 tháng 7, Hùm và Tường, cùng đi với hai đồng chí Pháp Naville và Molinier, trở lại Paris không bị trở ngại gì. Họ gây dựng lại Nhóm người xuất dương cùng với La Văn Rớt (bí danh Léon) và Nguyễn Văn Nhì, từ tỉnh lên tới, Trần Văn Sĩ (Ernest) và Nguyễn Văn Lịnh (René), sau đó có thêm một số người khác như Nguyễn Văn Nam (Antony), sinh viên, và Nguyễn Văn Cử, vô tuyến hàng hải.
Đồng chí Rosmer mời họ tự do trình bày quan điểm của họ trên tờ Sự Thật, dầu họ không đồng ý với tất cả những thâm tín chính trị của phái Tả Đối Lập. Pierre Frank tổ chức cùng họ đi dạo trong các khu rừng quanh Paris: Frank hướng dẫn họ hiểu biết tình hình suy luận về cách mạng trên thế giới; họ cũng thảo luận tiếp tục tại nhà trọ Ernest, 65 phố Monsieur le Prince. Chẳng bao lâu, họ lập thành Nhóm người Đông Dương trong Liên minh cộng sản (Phái Tả Đối Lập Pháp).
Vào tháng 8, khi cuộc đàn áp đã tàn sát phong trào nông dân trong nước, họ xác định thái độ của họ qua việc phát hành tờ Tuyên bố của những người phái Tả Đối Lập Đông Dương, một mặt tuyên bố trung thành với Quốc Tế Cộng Sản, mặt khác biểu đạt những phân hướng tách họ khỏi Quốc Tế Cộng Sản và đảng cộng sản Đông Dương, theo đây một vài đoạn trích:
Quốc Tế Cộng Sản là tổ chức quốc tế của chúng tôi, đảng cộng sản là đảng của chúng tôi. Quốc Tế Cộng Sản là một tổ chức cách mạng duy nhất của giai cấp vô sản, dù đã bị mắc những sai lầm to lớn. Vì kỷ luật, chúng tôi tuân theo những quyết định của Quốc Tế Cộng Sản, đồng thời vẫn khẳng định quan điểm của chúng tôi.
Ban lãnh đạo hiện nay của Quốc Tế Cộng Sản (nhóm trung phái theo Staline), với chính sách giáo điều đối với các nước thuộc địa, hỗn hợp chủ nghĩa Tam Dân tiểu tư sản với quan điểm theo chủ nghĩa Karl Marx về cuộc đấu tranh giải phóng của giai cấp vô sản, đã đưa phong trào ở các xứ thuộc địa từ sai lầm này tới sai lầm khác. Ở Trung Hoa sau chính sách nhập cục bốn giai cấp lệ thuộc đảng cộng sản trong Quốc Dân Đảng, tới việc phản đối thành lậpSô-viết trong cao trào cách mạng Trung Hoa, rồi đến việc tung ra khẩu hiệu thành lập Sô-viết trong thời kỳ cách mạng thối triều. Rốt hết là cuộc đảo chính ở Quảng Châu. Chính sách đó làm cho cuộc cách mạng Trung Hoa bị thất bại năm 1927. Chính sách đó làm hại cho việc thành lập những đảng cộng sản ở Đông Dương. Phái Tả Đối Lập đang phát triển cốt để xây dựng lại Quốc Tế Cộng Sản.
Ở Đông Dương, Quốc Tế Cộng Sản chủ trương luận thuyết làm ‘’cách mạng tư sản dân quyền quốc gia trước đã’’ với lý do sau đây:
Nền kinh tếĐông Dương còn lạc hậu, công nghiệp còn ít phát triển và ít tập trung, do đó giai cấp vô sản Đông Dương còn yếu, thiếu kinh nghiệm và không có khả năng thiết lập nền chuyên chính vô sản.Quốc Tế Cộng Sản đã chủ trương một đường lối trung gian là lập một đảng gồm cả hai giai cấp công nhân và nông dân, bởi lẽ:
a.- 95% dân số là nông dân,
b.- Tiềm năng cách mạng của giai cấp nông dân, do tình trạng bị bóc lột, cũng ngang với mức tiềm năng cách mạng của giai cấp vô sản, nếu không nói là cao hơn.
Quốc Tế Cộng Sản đã mắc phải một sai lầm rất nghiêm trọng, là phân chia chương trình cách mạng thành giai đoạn:
1.- Giải phóng dân tộc;
2.- Giành các quyền tự do dân chủ;
3.- Làm cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Khẩu hiệu của chúng ta là lật đổ chủ nghĩa đế quốc và giành lấy các quyền tự do dân chủ bằng chuyên chính vô sản.
Vào lúc này, ở Đông Dương các xu hướng cách mạng khác nhau đang nhập khối thành một đảng duy nhất là đảng cộng sản Đông Dương. Nhiệm vụ của chúng ta là phải làm tỏ rõ hệ thống tư tưởng của đảng, phải chống lại những khuynh hướng quốc gia và khủng bố chủ nghĩa trong nội bộ đảng, chống lại thái độ quan liêu và chủ nghĩa kinh nghiệm mơ hồ theo lối Staline. Quốc Tế Cộng Sản đã đánh giá quá cao lực lượng cách mạng xu hướng quốc gia. Bao giờ chủ nghĩa quốc gia cũng là một hệ thống tư tưởng phản động. Chủ nghĩa quốc gia rốt cuộc chỉ rèn đúc một xiềng xích mới trói buộc giai cấp công nhân (76).
(Các bạn xuất dương trẻ tuổi này dường như không biết rằng lúc đó đảng cộng sản Đông Dương non trẻ chủ trương ‘’giai cấp chống giai cấp’’ chứ không phải xu hướng ‘’quốc gia chủ nghĩa’’).
Molinier tự lãnh trách nhiệm chuyển giao bản tuyên bố nguyên tắc đó cho Trotski, cùng với một bài khái lược của Hồ Hữu Tường về tình hình chính trị và xã hội ở Đông Dương, trong đó Tường nhấn mạnh đặc biệt đến những điều kiện cực kỳ bí mật bất hợp pháp của phong trào cách mạng, nó làm trở ngại cho việc liên hệ và làm cho việc thông tin khó chính xác và kịp thời.
Bản tuyên bố trên gửi từ Paris tới Đảo Prikipo, gần d'Istanbul (xứ Turquie), tới tay ông già cách mạng lưu ly, thất bại về chính trị ở Nga, bị khai trừ khỏi đảng cộng sản Liên Sô và Quốc Tế Cộng Sản, bị áp giải từ Moscou đến Alma-Ata, rồi cuối cùng bị trục xuất ra khỏi Liên Sô.
Trotski hoan nghênh ‘’lời tuyên bố về mặt tư tưởng được rõ ràng đồng nhất’’.
Đối với việc những người thanh niên mới nhập cuộc này lên án quyết liệt chủ nghĩa quốc gia, Trotski nhận xét rằng không phải lúc nào chủ nghĩa quốc gia cũng mang tính phản động, và nếu tháp tùng chủ nghĩa quốc gia với vấn đề ruộng đất thì có thể sử dụng nó như một động lực then chốt trong cuộc giành độc lập quốc gia, động lực rất ‘’cần thiết cho cuộc cách mạng Đông Dương’’, đồng thời cũng cần thuyết minh cho quần chúng hiểu rõ ‘’nếu chỉ duy nhất giải phóng quốc gia thì sự giải phóng chỉ là một ảo tưởng’’.
Phải chăng Trotski đánh giá quá cao năng động lực một cuộc vận động quốc gia giữa khối nông dân nghèo chiếm 90% dân số. Vả lại họ đâu biết gì là chủ nghĩa quốc gia dân tộc, một dân tộc trong đó tầng lớp địa chủ và phú nông bóc lột sức lao động của nông dân đều là người đồng một xứ sở cũng như tầng lớp hào lý, chức dịch của một chính quyền thực dân, chính quyền ấy đè nén, áp bức họ nhưng họ ít khi thấy hình dạng. Khái niệm về quốc gia dân tộc chỉ là sản phẩm sở hữu riêng của tầng lớp trí thức, của những ông giáo làng, của những thầy đồ, những sĩ phu nho nhỏ khét mò dân túy.
Tổ quốc, đối với người nông dân nghèo, chính là nơi chôn cất mồ mả ông bà, cha mẹ gần gũi túp lều tranh mình đang ở, là mảnh đất đang cày dù thóc gạo từ đó không đủ nuôi sống gia đình. Còn đối với những người không mảnh đất cắm dùi, chỉ có đôi bàn tay lao động làm thuê, thì làm sao mà họ tưởng tượng được mình là đồng bào (cùng chung một bào thai) với những kẻ trực tiếp áp bức bóc lột họ? Cái ý nghĩ thường trực của họ là làm sao có được bát cơm ăn hàng ngày, nộp được món thuế thân kịp thời để khỏi bị đóng trăng giam ở nhà làng, làm sao thoát khỏi thói tham lam của bọn chủ.
Cuộc phát động nông dân trong phong trào 1930-1931 không cần thiết phải dóng trống quốc gia dọng chuông dân tộc; đấy là một cuộc đấu tranh giai cấp chống lại địa chủ và chính quyền đế quốc.
Trotski ngỏ lời xin lỗi vì người kém hiểu biết về tình hình Đông Dương, bởi người phát biểu không được cụ thể cho lắm.Trotski khuyên nhóm cộng sản tả phái nên phô bày tư tưởng cụ thể hơn để tránh ‘’những ngộ nhận có thể xảy ra’’. Người gợi ý cho họ nên từ một bản tuyên ngôn về nguyên tắc, tức là một thứ thảo án, chuyển thành những chỉ trích xác đáng hơn, và những hướng dẫn rành mạch chỉ đạo hành động.
Không nên bác bỏ tất cả mọi sự hợp tác giữa các giai cấp. Trái lại, có một sự hợp tác giai cấp mà chúng ta đang tìm mọi cáchđể thực hiện, đó là: Sự hợp tác giữa giai cấp vô sản với bộ phần nghèo nhất giữa giai cấp nông dân cùng với những người bị áp bức bóc lột nhiều nhất trong các tầng lớp dưới thấp trong giai cấp tiểu tư sản thành thị. Sự hợp tác giai cấp theo lối cách mạng đó chỉ áp dụng trong cuộc đấu tranh không thỏa hiệp chống lại các khối liên minh của các giai cấp có của và chủ nghĩa đế quốc, sự hợp tác mang tính chất tạo cho giai cấp vô sản trở thành lực lượng lãnh đạo thực sự của dân tộc.
Cần phải nói rõ hơn, các quyền tự do dân chủ gợi ra nơi đây là những tự do nào. Nói chinh phục các quyền tự do dân chủ bằng chuyên chính vô sản là một cách tỏ ý kiến không rõ ràng. Ngoài các quyền tự do tư sản (tự do tư tưởng, báo chí, hội họp, v.v...) nền chuyên chính vô sản đặt vào tay giai cấp vô sản những phương tiện và những công cụ vật chất để tự giải phóng, đặc biệt là các nhà in, các gian phòng hội họp. Ngày làm việc ngắn hơn, đó là cái duy nhất để cho người công nhân có thể tham gia thực sự vào sinh hoạt xã hội trong xứ. Đối với nông dân, cuộc cách mạng dân chủ trước hết là giải quyết vấn đề ruộng đất và giải thoát khỏi gánh nặng thuế má và binh dịch. Nhưng chúng ta không thể thiết lập được nền chuyên chính vô sản nếu chúng ta chưa trãi qua thực nghiệm mà đã khước từ dân chủ quyền (77).
CHÚ THÍCH
74.- Chương trình hành động của đảng cộng sản Đông Dương năm 1932 chữ Quốc Ngữ được bí mật lưu hành dưới hình thức một tập mỏng khổ nhỏ, Chuyện tình non. (Xem bản dịch tiếng Pháp đăng trên tạp chí Partisans số 48, Paris 1969, trang 56-69).
75.- L. Trotski, La révolution permanente (Cách mạng thường trực), Paris 1964, trang 228.
76.- Thư viện tài liệu quốc tế hiện đại, B.D.I.C. Nanterre, F*455.
77.- Chính văn tiếng Anh, trong International Socialist Review, New York, tháng 9. 1973, do Sophie Moen dịch ra tiếng Pháp.