← Quay lại trang sách

CHƯƠNG IX PHONG TRÀO NÔNG DÂN -1930-1931-

Sau cuộc khởi nghĩa Yên Báy thất bại, sau khi nhiều làng mạc ở Bắc Kỳ bị dìm trong máu lửa và các lãnh tụ của Việt Nam Quốc Dân Đảng bị đưa lên máy chém. Trong lúc những vụ bắt bớ giam cầm, những vụ xét xử kết án lưu đày đang tiếp diễn, thì tinh thần vùng dậy cách mạng vẫn không ngưng biểu thị mãnh liệt hơn bao giờ cả, và một cuộc bùng nổ thứ nhì đã diễn ra, đó là Phong Trào Nông Dân 1930-1931.

Trong vòng hơn một năm, chính quyền đế quốc thực dân phải đương đầu, không còn phải với tầng lớp trí thức yêu nước bất mãn âm mưu nổi dậy, mà phải đương đầu cả một phong trào rộng lớn nảy sinh từ trong giới bị khốn khổ bần cùng thúc dục, phát khởi từ trong phần đông quần chúng dân cày nghèo, dân không mảnh đất cậm dùi, những người công nhật, những người ở đợ.

Đảng cộng sản huy động họ và tổ chức những cuộc biểu tình quảng đại quần chúng lúc đầu có tính cách hòa bình, để đòi thỏa mãn những yêu sách về kinh tế cấp bách. Sau đó đảng cộng sản hướng họ vùng lên lật đổ chính quyền đế quốc thực dân, đoạt lấy chính quyền, thiết lập một chế độ Sô-viết công nông.

Thời đó tầng lớp thợ thuyền và phu phen trong các xí nghiệp mới chỉ là một lực lượng vừa phôi thai và do dự, còn chính quyền thực dân thì không có một biểu hiện nào tỏ rằng nó đang lần hồi bại hoại. Đỉnh cao phong trào này là Sô-viết Nghệ Tĩnh, vừa thiết lập nhanh chóng bị dìm trong bể máu.

Đó là một thất bại có tiếng vang lừng. Sách luợc về ‘’thời kỳ thứ ba’’của Quốc Tế Cộng Sản đã dẫn đến thảm trạng vô số nông dân bị tàn sát còn đảng cộng sản thì hoàn toàn bị phá hủy.

Vào năm 1929, cơn bão tháng bảy, nắng hạn, nạn châu chấu đã tàn phá cả ba kỳ. Tháng giêng năm 1930, tại Trung Kỳ, mùa lúa mới bị sương giáphá hại. Giá bán lẻ một cân gạo tăng từ 10 xu lên 17 xu. Nông dân nghèo đang mấp mé chết đói. Làm sao họ trả nổi thuế thân đây, một loại thuế quá nặng đánh theo đầu người, cùng với thuế ruộng đất, thuế chợ, thuế câu cá, thuế hái củi...đã tước đoạt của người nông dân nghèo số sản phẩm mà họ phải lao động trong một hai tháng mới làm ra. Thêm vào nỗi khốn khổ của họ lại còn có thuế gián thu về rượu, thuốc lào, diêm, và nhất là thuế muối làm cho giá muối cũng đắt như gạo.

Nông dân hiệp nhau tuần hành, kéo đến các trung tâm hành chính để xin giảm thuế thân và xin hoãn kỳ nộp thuế. Phong trào bắt đầu, chủ yếu ở Nam Kỳ và Trung Kỳ, vào ngày mùng 1 tháng Năm năm 1930, thời hạn cuối cùng phải nộp thuế thân.

Ở Bắc Kỳ

Có lẽ vì bị khủng bố dữ dội từ tháng hai trở đi còn tiếp tục, nên rất hiếm người cùng khổ ở đồng ruộng đáp ứng lời kêu gọi đấu tranh của đảng cộng sản. Trong Tỉnh Thái Bình, vào ngày 1 tháng Năm chỉ có vài trăm người tuần hành đến tỉnh lỵ không vũ khí và không bạo lực. Tuy vậy họ cũng bị lính gác An Nam giải tán và bị viên công sứ bắn vài phát súng lục. Một người bị thương. Cũng thế, nhà cầm quyền không tiếp kiến dân biểu tình vào tháng chín và tháng mười ở Hải Phòng, Thiên Ái và Nam Định, nơi có truyền đơn và cờ đỏ xuất hiện và có một chiến sĩ cách mạng hô hào thợ thuyền đang trên đường đi làm, kêu gọi họ ủng hộ phong trào nông dân.

Ở Nam Kỳ

Ở vùng ngoại ô Sài Gòn, nơi ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Đông Dương bí mật đóng trụ sở, không khí hoạt động sôi nổi từ trước ngày 1 tháng Năm.

Một cuộc động viên đấu tranh ngấm ngầm tiến hành mặc dù có những cuộc bắt bớ giam cầm hệ trọng tiếp sau vụ ám sát ở đường Barbier. Một bài hát mới lưu hành trong dân chúng theo một điệu dân ca xưa:

Mỗi năm đến ngày 1 tháng Năm

Khắp cả Năm Châu, anh em lao động

Biểu tình thị oai, nơi nơi đều tổng bãi công

Để kỷ niệm cái ngày đấu tranh

Của dân thợ Chicago.

Ngày xưa nổi lên bắt buộc chính phủ Hoa Kỳ

Phải thi hành luật ngày làm tám giờ,

Cùng luật bảo hộ nhân công.

Cuộc tranh đấu được thắng lợi hoàn toàn...

Trong các ngõ xóm ở ngoại ô Sài Gòn, ở Gia Định, ở Gò Vấp, cũng như ở ngay trong Thành Phố Sài Gòn phất phới nhiều băng khẩu hiệu và truyền đơn xuất hiện tại Khu Chợ Bến Thành, tại Công Xưởng thành phố, tại Nhà Bè, trước các trạm dầu hỏa của hãng Pháp-Á (Franco -Asiatique) và Standard Oil, kêu gọi đấu tranh chẳng những đòi ngày làm tám giờ lại còn hô hào ‘’đánh đổ đế quốc Pháp’’.

Vào ngày 1 tháng Năm, công nhân hưởng ứng rất kém: 250 phu và thợ nhà máy điện Chợ Quán (Chợ Lớn) tiến hành bãi công xung quanh anh Cai Nguyễn Thái, đảng viên đảng cộng sản Đông Dương và là người khởi xướng tổ chức bí mật Liên Đoàn Công Hội Nam Kỳ. Ở Trạm Hỏa Xa Dĩ An, gần Biên Hòa, các xưởng thợ vắng người. Chánh Mật Thám Nadaud hạ lệnh bắt những người đốc xuất làm reo.

Những trung tâm đầu não chế độ thuộc địa không bị xáo động, ngay cả ở Thủy Binh Xưởng Ba Son, nơi đã bị một cuộc bãi công lớn làm liệt bại hồi năm 1925. Ở các sở như Sở Hỏa Xa đường sắt cùng Xưởng Kỷ Nghệ FACI (Forges, Ateliers & Chantiers d'Indochine) công nhân cũng không rụt rịt. Các nghiệp đoàn hoạt động cực kỳ yếu ớt trong vòng bí mật. Kinh tế khủng hoảng, nạn thất nghiệp đe dọa, gây nên tình trạng do dự trong hàng ngũ thợ thuyền. Nông thôn càng thất vọng vì không được thợ thuyền hỗ trợ chút nào.

Chúng ta không thể xem như thợ thuyền tranh đấu để phò trợ nông dân, hai cuộc bãi công đã kể trên cùng các cuộc bãi công khác vào tháng mười như 150 thợ và cu-li hãng Đông Á và 80 phu đồn điền Phước Hòa ngưng việc, như qua tháng chạp 150 phu đồn điền cao suMichelin ở Phú Riềng làm reo, và cả một vài cuộc bãi công không có kết quả vào năm 1931.

Tại Nam Kỳ, nông dân bắt đầu quần hiệp tuần hành từ ngày 1, 3 và 9 tháng năm, trong các tỉnh trồng lúa ở trung tâm, ở Cao Lãnh (Sa Đéc), ở Chợ Mới (Long Xuyên). Dân biểu tình xin hoãn nộp thuế thân, thứ thuế đánh vào mỗi người dân bản địa từ 18 đến 60 tuổi, rồi họ tự giải tán, tin tưởng yêu cầu của mình sẽ được xem xét.

Ngày 13, tại Tân Dương (Sa Đéc), một ngàn dân làng không thỏa mãn vì bị thất hẹn, bèn bắt lý trưởng phải mời quan chủ tỉnh người Pháp là Esquivillon tới để họ trực tiếp đưa yêu sách: Giảm thuế thân một đồng bạc, bỏ thuế sát sinh, trả tiền công những ngày đi sưu dịch. Esquivillon đối phó bằng cách hạ lệnh bắt hàng trăm người, trong đó có anh Bảy, cựu học sinh trước kia có tham gia bãi khóa, và Thầy Giáo Tư, hai người dẫn đầu đoàn biểu tình.

Tỉnh Cần Thơ, một phong trào đưa yêu sách tiến hành: Ngày 12, ba làng bị buộc phải đi đắp con đường từ Cái Vồn đến Tân Phong, khước từ không cung ứng nhân công lao dịch bắt buộc. Ngày 20, 500 dân cày tuần hành tới Ô Môn, đàn bà trẻ em đi đầu. Cuộc diễu hành mang dáng dấp chính trị: Cờ đỏ xuất hiện với biểu hiện búa liềm, và những biểu ngữ đòi thả những nông dân bị bắt. Vài loạt đạn cảnh cáo, khoảng hai chục người bị bắt, đám đông giải tán.

Tờ báo Cờ Đỏ bí mật in bằng bản kẽm, mang tiêu đề Học lý thuyết Karl Marx mà không hành động thì cũng như không, kêu gọi nông dân nghèo gia nhập vận động và chào mừng những dân làng biểu thị tình đoàn kết với những người biểu tình đã mang thức ăn và đồ uống để khuyến khích họ. Tờ báo ca ngợi những sự kiện có khả năng đưa tới thắng lợi cuối cùng (nhưng than ôi chỉ là ảo tưởng mà thôi!).

Từ đây chỉ những loạt đạn từ những khẩu súng Musketoon, những khẩu súng lục bắn ra là tiếng trả lời duy nhất cho những đòi hỏi của nông dân.

Ngày 28, Chợ Mới lại nổi dậy lần nữa vì thấy không có gì đáp lại yêu sách hoãn nộp thuế đề nghị từ đầu tháng. Cuộc diễu hành tiến bước được ba trăm mét. Tên cò mật thám Nadaud không ngăn cản nổi bước tiến của đoàn biểu tình, tốp lính tùy tùng nổ súng. Bốn người chết và một số bị thương. Ba người trong số bị thương chạy trốn được, nhưng hôm sau bị bọn hương chức giao nộp. Hàng chục người bị bắt.

Ngày 29, đoàn biểu tình kéo đến Quận Ô Môn: 3.000 nông dân đòi thả những người bị bắt ngày 20. Lính lưu động giải tán họ, bắt ba chục người. Họ bị xử tại chỗ. Đó là vụ kết án ‘’đầu tiên’’ mở đầu hàng loạt những vụ kết án những người bị bắt tại trận ‘’những hành động phá hoại an ninh công cộng’’, án quyết lên tới 5 năm tù.

Một truyền đơn ký tên Tổng Nông Hội Nam Kỳ phân phát trong Tỉnh Gia Định ca ngợi tinh thần chiến đấu của nông dân, kêu gọi ‘’Đả đảo đế quốc Pháp, quan làng (78), địa chủ!’’ (79) Hoài niệm vong linh anh em bị tàn sát ở Vinh, ở Thái Bình. (80)

Nổ súng, bắt bớ, không chặn được những đoàn người cùng khốn diễu hành. Họ làm rung chuyển 13 trong số 20 tỉnh ở Nam Kỳ, tương tự năm 1916 khi chính quyền thuộc địa tiến hành tuyển mộ quân ‘’tình nguyện’’ sang Tây đánh giặc.

Ngày 2 tháng sáu, ông Thanh, một cựu hương chức dẫn đầu dân biểu tình ở Vĩnh Long. Hàng trăm người bị bắt và bị kết án liền tại trận như ở Ô Môn vừa rồi.

Phong trào lan rộng ngoại ô Sài Gòn, huy động các vùng dân cư đã từng ủng hộ Nguyễn An Ninh những năm 1926-1929, sau đó người ta mệnh danh là vùng ngoại ô đỏ Thành Phố Sài Gòn.

Trong đêm mồng 3, sáu trăm nông dân do Thầy Giáo Hồ Văn Long dẫn đầu biểu tình ở Bà Hom (Chợ Lớn): 1 người chết, 5 người bị thương. Viên cò mật thám Campana bắn họ bằng khẩu súng trường cỡ 22 (y xứng đáng với biệt danh tên cò 22 long. Hai chục người bị bắt giam tại nhà hội làng Bà Hom; một nhóm thứ hai tới giải thoát họ. Lính lưu động cùng sen đầm-cảnh sát đến tiếp viện bắt thêm ba chục người.

Ngày 4, tại Hóc Môn (Gia Định), nông dân các làng kế cận liên tiếp ba đợt kéo đến quận, đưa ra yêu sách không chỉ về giảm thuế thân và hủy bỏ ngày sưu dịch cùng các thứ thuế chợ, thuế xe giao thông, mà còn đòi bầu cử hương chức làng và đòi bỏ lối hương chức làng tự tuyển nhau, đòi thả những người bị bắt và ngưng đàn áp trả thù. Đó không phải là một tiếng hô xung trận, nhưng cơ quan mật thám ở Thủ Dầu Một và Thủ Đức vẫn đưa viện binh tới; lại thêm 5 người chết, 20 người bị thương và 30 người bị bắt.

Cũng ngày mồng 4 tháng sáu đó, trời vừa sụp tối, lính lưu động bắn vào đám đông vây quanh dinh chủ quận Đức Hòa (Chợ Lớn). Người ta không biết số người chết là bao nhiêu đêm hôm đó. Một ông hương chức làng nói người ta để mặc cho những người biểu tình mang đi những người bị chết và bị thương.

Trưa ngày mồng 5, một đoàn nông dân dài hai trăm mét đi ngang Bến Lức kéo lên Chợ Lớn để trình yêu sách cho quan chủ tỉnh Renault. Nông dân thật kiên nhẫn, họ đứng đợi dưới ánh nắng chang chang. Hôm sau, họ lại đến, và khi Renault tới, họ giao đơn thỉnh nguyện tập thể rồi về luôn để tránh điều thiệt hại có thể xảy ra.

Ngày 11, biểu tình ở Chợ Đệm (Chợ Lớn): 300 công nhân đòi thả những người bị bắt (ruộng lúa đang mùa cày cấy) và đòi bỏ thuế đánh cá. 127 người bị bắt.

Các phiên Tòa Tiểu Hình liên tục nhóm xử ở Sài Gòn, ở Vĩnh Long, Mỹ Tho, tuyên án tù có kẻ bị tới 5 năm.

Nhiều truyền đơn rải rác khắp nơi. Một lá kêu gọi:

Phản đối khủng bố. Hãy chiến đấu lật đổ đế quốc Pháp, địa chủ, quan làng, thành lập chính phủ công nông, tịch thu ruộng đất trong tay địa chủ An Nam và ngoại quốc chia lại dân cày nghèo!

Đảng Cộng sản Đông Dương

Tháng sáu năm 1930, một tháng đáng ghi nhớ:

- Sát nhân chính thức 13 Lãnh tụ Việt Nam Quốc Dân Đảng, ngày 17 tại Yên Bái;

- 19 người bị trục xuất khỏi nước Pháp tới Sài Gòn ngày 24, trong đó có Tạ Thu Thâu, Huỳnh Văn Phương, Phan Văn Chánh...Họ sẽ gây dựng ở Đông Dương một trào lưu cộng sản phê phán, toan thức tỉnh ý thức phu phen thợ thuyền, còn chậm trễ so với tinh thần chiến đấu của nông dân.

- Ngày 25, trên một chiếc tầu thủy dừng lại ở Vũng Tàu thấy một lá cờ đỏ kéo lên. Tàu chở 132 tù nhân bị kết án ở Yên Bái họ kéo cờ trong lúc chuyển sang qua một chiếc tàu khác để đưa ra Côn Đảo.

- Bản công bố của viên chủ tỉnh Lalaurette phát ra tại Cần Thơ, nhắc lại Đạo Luật ngày 7 tháng sáu năm 1841 và Điều khoản 91 Bộ Luật Hình do Sắc Luật ngày 4 tháng mười năm 1927 sửa đổi:

Cấm bất kỳ một cuộc tụ tập nào trên đường sá. Những ai tham gia một cuộc tụ tập trên đường sá, sau khi bị cảnh cáo lần thứ hai, mà vẫn cứ tiếp tục thì sẽ bị phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm hoặc 5 năm tùy theo tụ tập ban ngày ban đêm, và tùy theo người tham gia có mang theo vũ khí hay không. Những kẻ chủ mưu triệu tập cuộc họp sẽ bị kết án ở mức tối đa, hoặc ở mức những tội trạng cao hơn. Tất cả những kẻ nào soạn thảo, phân phát hay dán những bài viết hoặc bài in xúi dục dân chúng làm loạn sẽ bị kết án trên 2 năm tù. Tất cả những kẻ nào cắt đường dây điện thoại và làm tắc nghẽn giao thông dưới bất kỳ hình thức nào cản trở nhà chức trách giao thông trong thời loạn thì có thể sẽ bị kết án nhiều năm khổ sai tại Côn Đảo. (81)

Cố ý trấn an dân chúng, Thống Đốc Nam Kỳ Krautheimer đưa ra những biện pháp trì hoãn: Không đòi thuế thân những năm trước 1930; người An Nam không bị buộc phải nộp thuế thân tại nguyên quán; cho tới ngày 1 tháng 8 họ có thể nộp thuế của mình; những người nộp thuế trễ có thể khỏi bị phạt (5 ngày tù và phạt tiền 15 Franc) nếu họ đóng đủ tiền ngay sau khi chủ tỉnh xem xét trường hợp của họ (82); thuế thân được giảm từ 6-7 đồng còn 5 đồng rưỡi.

Cuối tháng 6, sau vụ bắt bớ 11 nông dân biểu tình ở Bà Quẹo, mật thám càn quét và xét nhà lung tung làm náo động cả vùng.

Tháng 7.1930, đảng cộng sản tuyên chiến công khai với đại biểu tư sản và địa chủ trong Đảng Lập Hiến. Chiều ngày chủ nhật 13, trụ sở của hai tòa báo Đuốc Nhà Nam và Diễn Đàn Đông Dương (La Tribune Indochinoise) của Đảng Lập Hiến bị phá phách: Nguyễn Phan Long gợi ý cho Thống Đốc Nam Kỳ Krautheimer dùng vòi rồng phun nước và hơi cay để giải tán nông dân thay vì dùng súng đạn. Từ đó trong dân chúng gọi y là Long-hơi-cay.

Ngày 14, hai Tỉnh Sa Đéc và Long Xuyên, nơi khởi đầu các cuộc biểu tình, sôi động trở lại: Hưởng ứng lời kêu gọi của đảng cộng sản Đông Dương dân chúng tụ tập để phản đối việc tổ chức ngày lễ 14 tháng 7.

Ở Sài Gòn, ngày 19, nhân tòa kết án trong vụ ám sát đường Barbier đã làm đảng cộng sản mất khoảng ba chục đảng viên, và việc ba người Thanh Niên bị tử hình làm náo động dư luận.

Rạng sáng ngày 1 tháng 8, một lá cờ đỏ phất phới trên nóc nhà máy rượu Bình Tây. 200 thợ bãi công tại hãng dầu hỏa Pháp-Á ở Nhà Bè, trong khi ở các Tỉnh Gia Định, Thủ Dầu Một, Chợ Lớn, Trà Vinh và Sa Đéc nhiều nơi có vài trăm nông dân tụ họp, nhưng họ tự giải tán khi làng lính khởi đầu cảnh cáo.

Ngày 22 tháng 8, thêm hai người bị bắn chết trong cuộc biểu tình ở Cao Lãnh (Sa Đéc), qua ngày 23, ở Hóc Môn, nhiều biểu ngữ đỏ nhắc nhở vụ đế quốc Mỹ ám sát Sique Sacco và Vanzetti ngày 23 tháng 8 năm 1927.

Phong trào còn lan ra các Tỉnh Tân An, Vĩnh Long, Cần Thơ, Bến Tre. Nông dân thị oai rải rác khắp nơi và thường về đêm, tương tự phong trào nông dân dấy loạn. Họ đánh trống (đoạt trong nhà hội làng) kêu gọi tập hợp, tự vũ trang bằng gậy gộc, rựa, và vài khẩu súng săn.

Trong làng mà hào lý địa phương truy nã kẻ tình nghi để nộp cho mật thám, nông dân bắt đầu trả thù. Nhóm tòa án cách mạng, họ xử tử bọn hương chức làng cảnh sát. Vào tháng 7, họ bắn chết tên Huợt, Hương Trưởng làng Tân Tạo, gần Chợ Lớn. Tháng 9, đến lượt Hương Cả Dương và Hương Quản Mây, làng Hựu Thạnh; Hương Cả Nam ở làng Đức Hòa cũng suýt chết. Tổng cộng ba hào lý bị hành quyết.

Qua ngày 24 tháng 8, nông dân phá hủy các nhà hội làng, đốt sạch các giấy tờ lưu trữ, sổ thuế, đốt nhà hương chức làng cảnh sát ở Phước Vân, Hựu Thạnh, Tân Bửu, Lang Sơn (thuộc Tỉnh Chợ Lớn), Xuân Thới Tây (Gia Định), Phan Thới và Châu Bình (Bến Tre). Năm 1931 tháng 3, họ còn thiêu hủy giấy tờ, sổ thuế lưu trữ ở các làng Phước Thuận, Tân Hương, An Hiệp và Châu Bình, rồi đến làng Long Hòa, cũng trong tỉnh đó vào tháng 4.

Nếu số người tham gia các cuộc tập hợp chỉ còn độ vài trăm, thì trái lại, những biểu hiệu của đảng cộng sản lại thấy xuất hiện nhiều hơn, cùng những cờ đỏ và truyền đơn kêu gọi ủng hộ cuộc khởi nghĩa ở Nghệ Tĩnh.

Ngày 19 tháng 9 năm 1930, làng lính săn người và bắt bớ ở miệt Đức Hòa và Thạnh Lợi (Tân An). Xét nhà Nguyễn An Cư, chú của Nguyễn An Ninh ở Hóc Môn rồi bắt tất cả những ai có mặt tại đó. Ban đêm, Sài Gòn tràn ngập truyền đơn in bản kẽm. Liền sau đó, ngày 21, máy in truyền đơn và báo Cờ Đỏ bị khám phá ở Sở Ba Son (xưởngThủy Binh), Nguyễn Hoàng, 21 tuổi, thư ký bị bắt quả tang tại phòng làm việc.

Tháng 10, tháng kỷ niệm Cách Mạng Tháng Mười, nhiều sự biến xảy ra.

Nhiều cuộc phát chẩn lúa ở Cà Mau và Giá Rây (Bạc Liêu), nơi cơn bão vừa phá hủy mùa màng, và cũng là nơi mà số điền chủ 7,2% trong dân số, tập trung trong tay 65% ruộng đất, bọn cầm quyền dùng biện pháp đó để làm yên lòng dân chúng.

Mặc dù mật thám làng lính hàng loạt bắt bớ, tra tấn lung tung, tòa án xét xử kết án không ngưng, truyền đơn vẫn rải đều, kêu gọi kỷ niệm Cách Mạng Tháng Mười Nga năm 1917, thông báo Sô-viết thành lập ở Nghệ Tĩnh (Bắc Trung Kỳ), thúc dục hành động quyết liệt:

Đả đảo đế quốc, tư bản, quan làng, địa chủ! ủng hộ phong trào tranh đấu Nghệ Tĩnh, hãy thành lập chính quyền của công nhân và nông dân! Cách mạng Đông Dương muôn năm! đảng cộng sản Đông Dương muôn năm!

Ủy ban chấp hành lâm thời Nam Kỳ (83)

Trong đêm 11 rạng ngày 12 tháng 10 năm 1930, mật thám còn thâu cả một bộ đồ in sao trong một túp lều tại làng Thuận Kiều (Gia Định).

Chính quyền thực dân không ngăn chặn nổi nông dân ly loạn. Trong tháng đó, nhiều đồn bốt mới xây dựng ở Hóc Môn (84), Bà Điểm, Đức Hòa (Gia Định), ‘’mười tám thôn vườn trầu’’ một vùng nổi tiếng chống Tây từ buổi đầu - cũng như trong Đồng Tháp Mười trên sông Vàm Cỏ, đối diện Bến Lức (Tân An), ở Cao Lãnh (Sa Đéc)...Lính tập An Nam bị tình nghi, lính Cao Mên thay thế.

Từ 13 đến 18, 600 công nhân bãi công năm ngày tại hãng Đông-Á ở Vĩnh Hội. Một dự án luật chống đình công ‘’bất hợp pháp’’ (nhưng cuộc đình công nào mà chẳng bất hợp pháp?) công bố:

Tất cả thợ thuyền và nhân viên người bản địa làm ở các sở tư phục vụ lợi ích công cộng, nếu đình công mà không báo trước từ hai tuần đến một tháng, sẽ bị phạt từ 6 ngày tới 6 tháng tù và phải nộp tiền phạt từ 16 đến 600 Franc hoặc một trong hai hình phạt đó. Bị coi là bất hợp pháp tất cả những cuộc đình công nào có tính chất gây rối ren lâu dài cho công chúng.

Tất cả những ai tham gia hoặc xúi giục bãi công bất hợp pháp sẽ bị phạt tù từ 6 ngày đến 2 năm và phải nộp một số tiền từ 16 đến 2.000 Franc. (85)

Từ đó tới cuối năm nông dân còn biểu tình 7 lượt, dân thành phố họp 3 cuộc mít ting trong các nẻo đường và các khoảng đất hoang ở Sài Gòn (từ 15 đến 200 người tham gia, một người bị thương, nhiều người bị bắt), rải truyền đơn khắp nơi. Nhiều vụ kết án.

Một lần nữa, những người theo phong trào Nguyễn An Ninh lại bị bắt, trong đó có cả Hương Thân Ngà vừa mới được thả ra sau hai năm ngồi tù.

Lý do bắt Ngà: Một người bạn của Ngà đã ra điều giễu cợt, anh ta treo một tấm biểu đề cấm lính cảnh sát vượt qua một ngả tư gần Chợ Bà Quẹo.

Khám Lớn Sài Gòn quá đầy ối, số thặng bị nhốt chật chội trong dãy nhà tù mới cất thêm ở Phú Mỹ xóm Thị Nghè.

Tận cuối năm 1930, lại thêm một cuộc lùng sục săn người: 300 lính lưu động, sen đầm cùng hương chức làng đổ vào khu vực Đức Hòa.

Vào tháng giêng năm 1931, bọn thống trị thiết lập một chế độ trách nhiệm tập thể tại Cao Lãnh (Sa Đéc), buộc 2.300 nông dân phải ký vào một ‘’bản tuyên bố tuân phục’’.

Những người ký tên vào chứng thư này chính thức khước từ học thuyết cách mạng mà họ bị lôi kéo vào, và xin cam đoan bằng cách ký tên hoặc in dấu tay:

1.- Tôn trọng tuyệt đối quyền tối cao của người Pháp;

2. Không phản đối trật tự xã hội hữu hiện;

3.- Bảo đảm tình trạng yên ổn công cộng trong làng xóm;

4.- Tố cáo những hoạt động lật đổ chính quyền Pháp;

5.- Không che dấu và đồng thời cam đoan giao nộp những kẻ đang bị hay sẽ bị pháp

luật truy tố, dù cho kẻ đó đã là người chỉ huy trực tiếp hay là bạn cùng chiến đấu của họ.

Trong bài diễn văn của chủ tỉnh Lalaurette thốt ra với họ, có đoạn:

Nước Pháp, đó là quan chủ tỉnh, quan tòa và lính sen đầm. Nhưng nước Pháp cũng là những cái cầu hiện nay bằng bêtông thay thế cho những cái cầu bằng tre mọt ngày xưa. (85)

Ngày 8 tháng 2 năm 1931, ngày kỷ niệm đệ nhất chu niên khởi nghĩa Yên Bái. Ở Sài Gòn, cổng sân banh tràn nghẹt người kéo nhau ra khi trận đá chấm dứt. Tiếng súng nổ. Thanh Tra Mật Thám Legrand ngã gục khi hắn ta định bắt một diễn giả ca ngợi cuộc khởi nghĩa dân tộc. Người thiếu niên tên Hui (Lý Tự Trọng), 15 tuổi, từ Quảng Châu về, bị bắt giữ, bị xem là thủ phạm rồi bị chém đầu lúc tảng sáng ngày 20 tháng 11 trước cửa khám lớn Sài Gòn. Tù chính trị nổi lên phản đối cuộc sát nhân theo pháp luật này, họ la lên vang dậy ‘’đả đảo khủng bố! Đả đảo đế quốc Pháp!’’ tiếng hô hét vượt khỏi tường nhà ngục náo động phố xá giữa châu thành. Vòi rồng chữa lửa phun nước nhận chìm những tiếng thét của họ, ngục tốt áp vào tung hoành đánh đập đổ máu, đóng chân họ vào cùm sắt.

Ngày 13 tháng giêng 1931, 80 người làm công hãng dầu lửa Standard Oil ở Nhà Bè bãi công khi một người phu ở kho dầu bị đuổi việc. Vào tháng 3, cũng tại kho dầu đó, có kẻ lén phóng hỏa, cắt dây điện tín, điện thoại. Dân thợ tước vũ khí bọn lính lưu động trong lúc chúng cản ngăn mấy người diễn thuyết, trong khi đó một tên lính bị thương, tên Thọ, sau đó hắn chết ở nhà thương.

Trong tuần tháng giêng, tháng 3 và tháng 4, mật thám khám phá ở Sài Gòn ba ‘’nhà in’’ (một ở phố Đại Tá-Colonel Budonnet (Lê Lai), một ở Boulevard Kitchener (Nguyễn Thái Học) và một ở phố Champagne (Yên Đỗ), là những nơi in ấn báo Cờ Đỏ, Cờ Vô Sản, Nhà Quê, và cả những truyền đơn và sách báo của đảng cộng sản Đông Dương, hơn hai chục người bị bắt.

Các ủy viên ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Đông Dương lần lượt lọt vào lưới mật thám. Dương Hạc Đính, người sáng lập báo Cờ Đỏ và Ngô Gia Tự bị bắt ngày 31 tháng 5 năm 1930; Lê Văn Kiệt từ Moscou về, bị bắt vào tháng giêng năm 1931, Bùi Công Trừng vào tháng 2. Ngày 18 tháng 4 đến lượt Trần Phú, tổng bí thư của đảng, cùng với 200 người khác bị tình nghi, trong một trận bố ráp lớn ở Sài Gòn. Trần Phú sau đó bị mật thám tra tấn đến chết ngày 6 tháng 9 năm 1931. Những người bị giam khác đến tháng 5 năm 1933 mới bị xét xử.

Điểm lại trong bốn tờ báo hàng ngày ở Sài Gòn, ta thấy từ tháng 5 năm 1930 đến tháng 6 năm 1931 có tới 124 cuộc nông dân biểu tình. Sở Mật Thám ghi 24 cuộc bãi công ở Nam Kỳ. Từ ngày 9 tháng 12 năm 1929 đến ngày 30 tháng 4 năm 1931, tòa án kết án về tội phạm chính trị: 2791 nông dân, 374 công nhân kỹ nghệ, 28 giáo viên và 18 viên chức, trong số 3552 người bị truy tố. (86)

Ở Trung Kỳ Sô-viết nông dân Nghệ Tĩnh tháng 9 năm 1931

Ngày 1 tháng 5 năm 1931, 1500 nông dân vùng lân cận Thành Phố Vinh lặng lẽ tiến về phía nhà máy diêm Bến Thủy. Đoàn người không mang phù hiệu, không vũ khí, ‘’người ta chỉ nghe thấy ba ngàn tiếng chân trần bước trên đất’’. Không để cho nông dân lôi kéo công nhân vào phong trào, Thanh Tra Petit, phụ trách đội cảnh vệ An Nam, cho ba mươi lính gác trong xưởng, không một ai được động đậy. Đoàn nông dân cứ tiến bước. Petit hạ lệnh bắn. 5 người chết, 15 bị thương. Sau đó Công Sứ Aristide Eugène Le Fol ước lượng khoảng 15 người bị chết và cho đó là ‘’những người cộng sản biểu tình định chiếm nhà máy diêm Bến Thủy’’.

Ngày 3, tại làng Hạnh Lâm (Thanh Chương), nông dân tập hợp nhằm chiếm lại những công điền công thổ bị tên Ký Viện gian hùng thu đoạt. Tên chủ đồn điền nầy khoáng trương vùng đất nhượng của hắn bằng cách lấn sang cả đất làng, theo lời Tổng Đốc Phạm Bá Thọ ở Vinh. Những đơn khiếu nại từ trước tới lúc đó gửi đến công sứ ở Vinh nhưng không kết quả. Thanh Tra Petit, ngày 5, cũng can thiệp một cách tàn bạo như ở Bến Thủy. Hắn cho bắt 9 hương chức, cho họ là kẻ trách nhiệm, đem nhốt trong chùa. Dân làng bao vây ngôi chùa phản đối. Petit hạ lệnh bắn: 16 người chết, 15 người bị thương. Cũng Thanh Tra Petit nầy vào tháng 10, ra lệnh đốt các làng Yên Tha và Yên Phúc (như lời khai của hắn năm 1933 trong vụ án lính Lê Dương). Phạm Bá Thọ sau đó bị cách chức tháng chạp vì không thi hành những lệnh quá dã man trên.

Vào tháng 6 và tháng 7, những cuộc biểu tình đòi hỏi lợi quyền kinh tế lan rộng, tuy không đổ máu nhưng không đạt kết quả: Trong Tỉnh Nghệ An, tại các Huyện Thanh Chương, Nghi Lộc, Đồ Lương, họ đòi bồi thường cho những nạn nhân ngày 1 tháng 5; rồi ở Hà Tĩnh, tại Can Lộc; ở Nha Trang, tại Tân Định. Bắt đầu từ tháng 8, những cuộc biểu tình biểu lộ tính chất chính trị một cách công khai.

Những tỉnh đầu tiên rung chuyển mạnh mẽ nhất là những tỉnh phía Bắc Trung Kỳ, những tỉnh nghèo đói cùng cực Nghệ An và Hà Tĩnh. Đi theo con đường đàn anh đã vạch trong phong trào 1908, nông dân trong hai tỉnh tuần hành nhằm đòi giảm thuế thân, bỏ sưu dịch và canh gác luân phiên, những yêu sách muôn thủa của người bần cùng. Nhưng lần này họ được những trí thức trẻ tuổi đào tạo ở Quảng Châu và Moscou về, tổ chức và lãnh đạo. Ban chấp hành đảng bộ tỉnh của đảng cộng sản huy động lực lượng nông dân đứng lên cướp chính quyền.

Những cuộc tuần hành thị uy cứ bành trướng mạnh lên và biến thành một phong trào bạo động khởi nghĩa vào tháng 9 và tháng 10 năm 1931.

Dân biểu tình tấn công nhiều đợt vào các Huyện lỵ Nam Đàn, Đồ Lương, Thanh Chương, Nghi Lộc (Nghệ An); Can Lộc, Kỳ Anh, Hương Sơn (Hà Tĩnh), cắt các đường dây điện tín, đập tan các trụ sở cảnh sát bản địa, thả các tù nhân, phá hủy các trạm phân phối rượu; phóng hỏa các nhà ga, một số nhà thờ; giết chết những tên quan lại và hương chức mà dân căm ghét.

Trong bản tường trình của viên thanh tra chính trị Trung Kỳ gửi cho khâm sứ ngày 3 tháng 10 năm 1930 có đoạn:

Chức việc cai trị không kiểm soát nổi nhiều nơi thuộc Vinh và Hà Tĩnh. Không còn chính quyền ở đó nữa. Hai Huyện Thanh Chương và Nam Đàn nằm trong tình trạng phiến loạn hoàn toàn. Các quan huyện không bước chân ra khỏi cửa các đồn bốt do lính bản địa bảo vệ họ. Quan trên triệu tập hương chức làng họ không hồi đáp nữa. Các lý trưởng bị buộc phải ký vào tờ khai không công nhận triều đình Huế và chính phủ bảo hộ, chỉ công nhận đảng cộng sản Đông Dương. Lính không dám đi vào các làng. Các tòa án nhân dân bắt đầu xét xử, các nhà giàu phải đóng góp vào quỹ của đảng cộng sản Đông Dương. Các Huyện Anh Sơn, Hưng Nguyên, và Nghi Lộc 50% trong số nhân dân không tùng phục chính quyền. (87)

Vào tháng 10, phong trào khởi nghĩa lan tới miền Trung Trung Kỳ: Phá Huyện lỵ Đức Phổ (Quảng Trị) và Sơn Tịnh (Quảng Ngãi), nơi có những cuộc tấn công ngày càng nhiều.

Trong những làng ở Nghệ An mà hương chức và lính làng đã bỏ chạy, những đoàn tự vệ ủng hộ các tổ chức nông dân. Từ tháng 9, các tổ chức nông dân tự lập thành Sô-viết, nắm trong tay việc quản lý hành chính và tiến hành phân phối công điện công thổ trước nay bị chiếm đoạt, mà không đụng chạm đến quyền sở hữu ruộng đất của địa chủ, tịch thu các kho thóc, phân phát cho những người bị đói, tổ chức cấy cày lao động tập thể, hủy bỏ các thứ thuế, buộc các chủ ruộng đất giảm địa tô, khởi đầu mở lớp dậy học chữ Quốc Ngữ và giáo dục chính trị. Phong trào Sô-viết lan ra các Huyện Can Lộc, Thạch Hà, Hương Sơn thuộc Hà Tĩnh.

Cuộc đàn áp khởi diễn: Máy bay ném bom và bắn liên thanh vào đám đông để giải tán các cuộc tập trung; phóng hỏa các làng và giết người không cần xét xử. Đội quân Lê Dương chủ yếu hành binh, được lực lượng bộ binh thuộc địa và vệ binh bản địa tăng cường, tất cả đóng quân trong 112 đồn trại thiết lập trong hai Tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh (như ở Nam Kỳ số đông bắt đầu xây dựng từ tháng 10). Cuộc đàn áp này lập lại một cách khoáng đại hơn những cuộc ném bom và hành quân tháng 2 năm 1930 ở Cổ Am chống lại Việt Nam Quốc Dân Đảng. Những đội lính bổ sung An Nam ở các hương thôn cũng góp phần vào công cuộc đàn áp.

Một thực dân già ở Bắc Trung Kỳ viết trên báo Tiểu Bình Dân (Le Petit Populaire) ngày 1 tháng 4 năm 1932:

Quân Lê Dương xông vào nhà người ta muốn lấy gì thì lấy, chúng cưỡng hiếp đàn bà con gái. Đàn ông, thanh niên bị bắt rồi bị bắn ngay không cần xét xử.

Một bức điện tín mật của khâm sứ, ghi số 280 RS gửi đi ngày 8 tháng 10 năm 1930:

Khâm sứ Trung Kỳ và Viện Cơ Mật sức cho các công sứ và các quan đầu tỉnh Trung Kỳ như sau: Phải giải tán tất cả mỗi cuộc biểu tình bằng mỗi cách [bằng vũ khí]; mỗi kỳ mục và thân hào có ảnh hưởng thực sự trong làng đều phải chịu trách nhiệm về người và tài sản trong cuộc hỗn loạn trên đất đai làng họ. Coi tất cả những người cộng sản cầm đầu cuộc nổi loạn là kẻ ngoài vòng pháp luật và cần phải lập tức loại khỏi phong trào bất kể bằng biện pháp nào, không cần điều tra trước hoặc bắt một cách hợp lệ. (88)

Lệnh đó ban ra chỉ là thừa nhận cái tình trạng đang xảy ra trên thực địa. Ngay từ ngày 12 tháng 9 năm 1930, sáu quả bom do máy bay ném xuống đám biểu tình ở Hưng Nguyên cách Vinh 3 kilômet, đã giết chết hơn 200 người biểu tình.

Một kỹ sư Pháp kể lại cho bà Andrée Viollis:

Gần Sơn Tịnh (Quảng Ngãi), sau khi đội quân Lê Dương bắt đầu hoạt động, cuối tháng 12 năm 1930, người ta được báo tin cách đó vài kilômet có một đoàn biểu tình không vũ trang đang đi dọc theo bờ sông. Đó là vào lúc 6 giờ sáng. Người ta liền cử một khẩu đội liên thanh đặt tại một góc khuất đầu đường. Lúc hàng ngàn người bản địa tập trung tại ngả tư đó, người ta lia thẳng liên thanh vào đó. Thật là khủng khiếp, những tiếng la hét của những người không có vũ khí tự vệ, đầu óc ruột gan bị bắn tung lên mắc vào bụi cây. Có khoảng ba chục người bị chết. Sau đó ít lâu, cũng tại khu vực đó, một tên quan bản địa đến báo tin một cuộc biểu tình sẽ diễn ra vào đêm hôm sau. Viên quan đó nói: ‘’Lần này không nên bắn, chẳng ích gì’’. Viên công sứ trả lời: ‘’Chớ có nài nỉ vô ích! Đó là bọn cộng sản, phải giết hết bọn chúng’’.

Thế là lại một cuộc ẩu đả, lại những người chết. Đó là vào tháng giêng năm 1931. Tại Tung Ha, người ta báo có một cuộc biểu tình vào đêm hôm sau, trong một khu rừng thưa nào đó. Người ta cử 5 lính cùng một khẩu liên thanh. Họ núp sau bụi tre. Đến nửa đêm, khoảng 700-800 dân làng lặng lẽ tập trung lại. Đó là một đêm sáng trăng. Một vài diễn giả đứng lên, những người khác ngồi xổm xung quanh, chăm chú nghe. Bằng hai tràng súng liên thanh bắn ra, cách 15 mét làm 130 người chết. Người ta lượm những người bị thương và người nào chữa khỏi đều bị bắt giữ. Trong những điều kiện vệ sinh của các nhà tù xây dựng vội vã để ứng phó trong mỗi khu vực rối loạn, thì những kẻ bị giam trong đó cũng gần như bị tử hình. (89)

Trong tháng đó, Tri Huyện Nghi Lộc cùng với lính lệ đi tùy tùng bị đánh chết rồi vứt xác xuống sông. Đối phương trả thù: 30 nông dân bị giết, 200 người bị bắt.

Những người đứng lên không mất can đảm: Họ hành quyết lối mười hai kỳ hào và chức dịch bản địa. Viên Đại Úy Doucin tại bốt Đồ Lương báo cáo ngày 20 tháng 3 năm 1931: ‘’Những kẻ nổi loạn vẫn tiếp tục kiểm soát trong vùng, phải có những biện pháp thật nghiêm khắc mới lập lại trật tự và an ninh’’.

Ở Quảng Ngãi cũng vậy, dân chúng tập hợp và tuần hành đến các huyện lỵ, nhất là ở Sơn Tịnh, Mộ Đức và ở trung tâm tỉnh, ngày càng nhiều đông đảo.

Cuộc tấn công đồn bốt mở đầu ngày 7 tháng 11 năm 1930, ngày kỷ niệm cuộc Cách Mạng Nga: 1500 quân khởi nghĩa tấn công Thành Phủ Diễn (Nghệ An) và 600 tấn công bốt Can Lộc (Hà Tĩnh). Đó là các cựu học sinh Trường Quân Chính Hoàng Phố chỉ huy hàng ngàn người chiến đấu sẵn sàng hy sinh. Ngày 8 tháng 2 năm 1931, họ nhằm tấn công bốt Châu Mỹ Đông (Quảng Ngãi), ngày 14 tháng 4, các bốt Lạc Thiên và Lai Thạch (Hà Tĩnh), ngày 12 tháng 5, lại bốt Lạc Thiên và Hương Khê (Hà Tĩnh), ngày 25 tháng 6, đến lượt bốt Đa Thọ (Nghệ An).

Sở Mật Thám ghi nhận ở Trung Kỳ từ 1 tháng 5 năm 1930, tới 11 tháng 9 năm 1931 có 153 cuộc biểu tình và 8 cuộc tấn công đồn bốt.

Một kế hoạch tấn công lọt vào tay quân nghịch ở Thuận Trung (Đồ Lương ) ngày 30 tháng 4 năm 1931 quy định như sau:

Ngày 1 tháng 5, các Tổng Lang Điền, Đang Sơn, Đồ Lương, Văn Trang, Cát Ngạn sẽ tấn công Đồ Lương (thủ phủ và đồn bốt). Các Tổng Thuận Trung, Đại Đồng, Bắc Hà sẽ tấn công bốt Co Om.

Ngày 30 tháng 4 vào buổi tối, tập họp tại những địa điểm đã định, họp và chuẩn bị khâu cuối cùng, xuất hành để tấn công vào lúc 6 giờ. Đúng 7 giờ tấn công vào tất cả các đồn bốt.

Mỗi đảng viên đảng cộng sản đều phải tham gia cuộc tấn công. Kẻ nào tìm cách chạy trốn sẽ bị tử hình vào hôm sau. (90)

Vào tháng 3 và tháng 4 năm 1931, tại Trung Kỳ và Bắc Kỳ, phần lớn những người khởi xướng phong trào rơi vào tay quân nghịch, các ban chấp hành, các chi bộ bị tan rã. Những người phụ trách thành lập Sô-viết như Nguyễn Đức Cảnh, Nguyễn Phong Sắc, Cao Diệt, Lê Kiên đều bị bắt. Cảnh sẽ bị chặt đầu tại Hải Phòng ngày 31 tháng 7 năm 1932. Tại Quảng Ngãi, Nguyễn Nghiêm bị giao cho tòa án quan lại, bị chém đầu ngay, ngày 22 tháng 4 tại bờ sông Trà Khúc.

Cơ quan mật thám chính trị phá hủy các ban chấp hành mỏ Hòn Gai Cẩm Phả, Uông Bí, cũng như các Tỉnh Nam Định, Hải Phòng (Vũ Đình Châu, Nguyễn Hữu Tạo). Một ủy viên trung ương đảng (Trần Văn Lan) và một trong những người sáng lập đảng (Trịnh Đình Cửu) lọt vào tay quân thù.

Dần dà phong trào tự tan rã. Quần chúng ở địa phương này không phải chỉ chịu sự đàn áp mà còn phải chịu một nạn đói nghiêm trọng: Lúa tháng 5 và tháng 10 năm 1930 bị mất mùa và dân cư đành phải cầm hơi bằng khoai và kê nhập từ các tỉnh khác.

Chỉ riêng trong ngày 1 tháng 5 năm 1931, có gần 500 người biểu tình bị bắn chết tại Trung Kỳ, theo lời phản đối của Luật Sư Charles Cancellieri - thông tín viên của Hội Cứu Tế Đỏ Quốc Tế ở Sài Gòn - trong bài đăng trên báo Thư Tín Đông Dương (La Dépêche d'Indochine) ngày 18 tháng 6 năm 1931.

Ngày 29 tháng 5, viên đội Perrier bị những người nổi dậy giết chết. Quân Lê Dương thề trả thù cho y. Cùng ngày, các viên đội Layon (ở bốt Đồ Lương do Đại Úy Doucin chỉ huy) và Von Bargen (ở bốt Nam Đàn) giết hại dã man hàng chục người dân vô tội bị giam giữ trong bốt Nam Đàn từ một tuần lễ trước đó. Hai tên lính Lê Dương đó mãi hai năm sau mới bị đem ra xét xử, ngày 12 tháng 6 năm 1933, ở Vinh cùng với một tòng phạm khác. Chúng được tha bổng. Phải chăng viên Chưởng Lý Moreau đã biên bản cáo trạng của hắn thành một bài tán tụng? Tán tụng chính quyền (‘’Tôi xin ký cả hai tay vào án lệnh số 280’’, Moreau tuyên bố như vậy). Tán tụng các bị cáo: Y nói họ đã tuân theo lệnh của cấp trên.

Chính sau vụ án này, ‘’vụ bê bối ở Vinh’’ (91) đã làm bộc lộ những mật lệnh của Khâm Sứ Layon năm 1930, và truyền khẩu lệnh của Toàn Quyền Robin năm 1931. Thiếu Tá Lambert công bố:

Chúng tôi nhận được những lệnh đầu tiên khi cuộc nổi loạn lan đến Hà Tĩnh và xa hơn vào tháng 10 năm 1930 (và sau đó nữa), những lệnh ông Toàn Quyền Robin truyền khẩu. ‘’Đàn áp, tàn sát, bắt tù binh càng ít càng tốt.’’

Tên lính Lê Dương Forberg khẳng định rằng công sứ ở Vinh đã nói phải giết 5000 người nếu cần để giữ lại 500 người tốt thôi. Y nhắc lại rằng có những sự việc cũng nghiêm trọng như thể đã xảy ra trước vụ Perrier, mà cũng không hề thấy một điều tra chính thức nào cả. (92)

Phần đông người chứng bộc lộ thái độ vô lương một cách trắng trợn. Đây xin ghi đùa, không chọn lựa, ba lời khai sau đây:

Chánh án: Ông đã cho tra tấn tù nhân.

Trung Úy Lemoanne: Làm thế để cảm ứng dân chúng.

Chánh án: Các bị cáo nói rằng họ đã nhận những chỉ thị truyền khẩu.

Đại Úy Doucin: Nhà tù đã đầy ắp, mà người ta không ngưng bắt bớ.

Mặt khác, có những chỉ thị chính xác đưa ra trong công văn mật số 280 đề ngày 8 tháng 10 năm 1930, ra lịnh phải hạ sát liền tất cả những người cộng sản bị bắt quả tang, hoặc người biểu tình. Tôi vẫn biết rõ lính Lê Dương đã lao vào những hành động đẫm máu. Thế nhưng, theo ý kiến riêng của tôi, họ vẫn chưa bắn giết đủ mức cần thiết!

Cha Gauthier khẳng định liên minh giữa thanh gươm và nước thánh. Trước tòa, ông ta tuyên bố:

Cần phải có người mạnh tay đôi chút đến làm cho họ (những người nổi loạn) hiểu biết phải trái. Những người lính Lê Dương, tôi xin đảm bảo trước tòa rằng những người lính Lê Dương đó đã làm một sự nghiệp tốt đẹp, sự nghiệp yêu nước, sự nghiệp nước Pháp, và mang lại hòa bình cho xứ sở này.

Ta hãy trở lại năm 1930-1931, trong tình hình khởi nghĩa ở phía Bắc Trung Kỳ và cuộc khủng bố bừa bãi. Ở chính quốc, dư luận công chúng và chính phủ tỏ ra lo ngại.

Ngày 1 tháng 6, Toàn Quyền Robin viết cho Bộ Trưởng Bộ Thuộc Địa:

Cuộc khủng hoảng chúng tôi đang chứng kiến rất nghiêm trọng. Chúng tôi không sao đoán trước được sức độc từ (virus) cộng sản thâm nhập vào một giai cấp bao gồm những kẻ mù chữ và những con người năng lực tiềm tàng dường bởi thói quen chịu đựng và thường thất vọng. Các biến cố đã phát lộ cho ta thấy việc đánh thức các giới dân cư ở nông thôn này, làm họ giác ngộ, có ý thức giai cấp, là một việc quá dễ dàng, ta không khỏi ngạc nhiên. Cuộc nổi dậy của nông dân ở Nghệ Tĩnh thực sự là một cuộc đấu tranh giai cấp. (93)

Ngày 2 tháng 6, ngày hôm sau vụ Layon và Von Bargen dã man giết người, Toàn Quyền Robin giao trách nhiệm cho Chánh Án Tòa Thượng Thẩm Hà Nội là Morché lập một ủy ban điều tra về cuộc nông dân khởi nghĩa ở Trung. Bản báo cáo của ủy ban này nêu rõ những nguyên nhân kinh tế và chính trị rồi kết luận về cần yếu cải cách.

Ủy ban điều tra hỏi những người cai trị ở đủ mỗi cấp bậc, từ tác giả văn bản 280,Aristide Eugène Le Fol, đương nhiệm Khâm Sứ Trung Kỳ từ tháng giêng năm 1929, cho tới những quan lại nhỏ hơn, kể cả người bản địa, như tổng đốc, tri huyện, đến cả các công sứ Vinh và Hà Tĩnh là các ông Bottini và Becnay; rồi đến các ủy viên hội đồng các tỉnh, các ủy viên hội đồng dân biểu, Giám Đốc Sở Địa Chánh Vinh, Chủ Tịch Phòng Thương Mại và Nông Nghiệp Bắc Trung Kỳ, đại biểu Trung Kỳ trong Hội Đồng Kinh Tế Tối Cao, Giám Đốc Sở Nông Nghiệp, một Đốc Công trong nhà máy xe lửa Trường Thi, các Kỹ Sư Sở Công chính, một tư vấn thành phố Vinh; cả đến những quân nhân và cảnh sát, có một số người mà chúng ta đã biết như Petit và Lambert, chúng mô tả cảnh sát nhân của chúng một cách tự nhiên; hay như Đại Úy Doucin nhấn mạnh về tình trạng khốn cùng. Những nhà truyền giáo không chỉ dừng lại ở chỗ nêu những điều mắt thấy tai nghe về cảnh khốn cùng mà còn nêu ra những nguyên nhân và những sai lầm của chức việc cai trị, họ nhấn mạnh: Thuế thân là một điều bất công: Những người nghèo cũng phải nộp thuế như người giàu, họ phải được miễn thứ thuế đó. Đức Cha Dalaine tố cáo:

Người ta tăng các thứ thuế 30% năm 1929. Người ta xếp hạng ruộng đất quá mức. Đã nộp được thuế, nông dân phải bán mỗi thứ. Con trâu đáng giá từ 35 đến 45 đồng, chỉ bán được 9 đến 10 đồng. Đàn trâu bị lùa ra Bắc Kỳ trước đây một tháng. Tôi có biết một làng không theo đạo, họ phải trả tới 600 đồng tiền thuế. Cả làng chỉ gom được 340 đồng. Tri huyện gọi chánh tổng lên giao hẹn hôm sau phải mang đủ số tiền nộp là 600 nếu không sẽ bị cách chức và bị tù. (94)

Ông Roule, Thanh Tra nông nghiệp ở Vinh, cũng nêu lên tình trạng thiếu trâu cày và nạn đói, đề ra một biện pháp dễ dàng có thể cứu vãn tình thế:

Công việc dẫn thủy nhập điền sẽ làm tăng thu nhập 50%. Lúa sẽ được cấy kịp thời, mùa gạt sẽ chắc chắn. Từ cuối tháng 4 năm 1931, người dân đã phải bán tất cả mỗi thứ. Họ đã phải bán một phần ba số trâu bò của họ với giá hạ cho lái buôn ở Bắc Kỳ. Lúc trước người dân kêu ‘’đói lắm!’’, còn bây giờ thì ‘’đói chết!’’ (95)

Tù nhân cũng được chất vấn (không ai có thể nói được là cuộc điều tra chỉ tiến hành nửa vời!): Một học sinh Trường Quốc Học Huế bị đuổi, Trương Phong, ủy viên ban chấp hành đảng cộng sản Đông Dương, ba cựu giáo viên, một dân cày, một phu khuân vác, hai người đàn bà nghèo khổ bán gạo ở chợ. Trong số các tù nhân đó, 5 là đảng viên đảng cộng sản Đông Dương, và 2 cựu đảng viên Tân Việt, bị bắt từ 1929.

Trương Phong và Thái Văn Giai, đảng viên đảng cộng sản Đông Dương, đòi hỏi người ta phải công nhận cái lý do chính đáng của cuộc nổi dậy ở một xứ mà ‘’trẻ con 12 tuổi phải làm việc từ sáng đến tối ở nhà máy Diêm để kiếm từ 8 đến 10 xu, còn quan lại sống bám vào dân, lại còn đàn áp dân một cách mù quáng.’’

Dân chúng không biết đến quan cai trị người Pháp vì họ ở quá xa. Người dân chỉ biết những quan lại đáng căm ghét. (Đã lôi kéo những kẻ khốn cùng) người ta nói với họ về hủy bỏ thuế khóa, chia ruộng cho nông dân, tăng lương cho công nhân. Quần chúng không phải là cộng sản nhưng họ bất mãn.

Về bần cùng và nạn đói càng ngày càng thêm nghiêm trọng trong hai năm gần vừa qua, đấy là những nguyên nhân đầu tiên gây nên loạn lạc, thế mà toàn thể người chức trách đều đồng nhất mù quáng về chính trị, họ xem đó hầu như là một thứ vận mệnh.

Người ta đã khá nói về những cưỡng bách kinh tế không sao chịu đựng nổi, đổ vào đầu những người cùng khốn nhất, người ta nói về thuế thân, thuế muối, thuế rượu, thuế chợ, thuế củi đốn trong rừng, người ta nêu ra những đồng lương chết đói, những sưu dịch, địa tô quá nặng, nói đền tình trạng quá sức chịu đựng của tầng lớp vô sản nông nghiệp, nạn thất nghiệp do khủng hoảng, do hầm mỏ ở Lào đóng cửa, do những công trình lớn ở Đắc Lắc và Kontum dừng lại, buộc từng đoàn người không việc làm kéo trở về Nghệ An.

Phần lớn trách nhiệm về tình hình khẩn bách đó, người ta đổ tróc trên đầu viên chức An Nam hối lộ tham nhũng. Đó là một bản miêu tả tình hình thấu đáo, nhưng phần trách nhiệm của chính quyền thực dân vẫn ẩn trong bóng tối: Người ta nói về ‘’sự nhận định sai lầm’’ (Bottini), về ‘’một vài lạm dụng có thể có’’ (Le Fol), về thiếu khai dẫn nước vào ruộng đất.

Đối với một vấn đề nghiêm trọng như về độc quyền rượu, người ta nói thêm một cách phù phiếm: ‘’dân bản địa không ưa rượu của chúng ta’’. Còn về độc quyền muối, Le Fol nhấn mạnh về tính chất làm mất lòng dân nhưng lại thêm: ‘’Độc quyền muối tăng thêm thu nhập nhiều cho ngân sách’’.

Thái độ viên quản đốc xưởng Trường Thi cũng trắng trợn không kém: Y hoan nghênh ‘’hành vi tẩy rửa’’ của tên đặc vụ mật thám Bargen, hành vi đàn áp đã làm cho đường sắt trở lại yên ổn

Bác Sĩ Lemoine, Trưởng Khoa Bệnh Viện Vinh, ngày 22 tháng 7, thốt lời nhân đạo để nhấn mạnh việc cứu trợ khẩn cấp vì thấy nạn đói vẫn kéo dài ở Nghệ An. Ông nêu ra đồng lương khốn khổ của phu phen, những khoản thuế đã chiếm mất phần lương cần thiết để sống còn, ông gợi các bữa cháo cứu đói đang bắt đầu tổ chức, và cần phải tổ chức thêm nhiều lên (một người dân đói ngã chết ngay dưới mắt ông Toàn Quyền tại buổi phát chẩn cháo ở Nghi Lộc).

Nhiều bà mẹ không còn sữa cho con bú, hai vợ chồng bác sĩ cho họ sữa đựng vào các bình bú, họ sẽ đem bình trả lại ngày hôm sau.

Bộ Trưởng Paul Reynaud sang Đông Dương thị sát nhằm lúc phong trào nông dân đã chìm đắm...ông ta tới Sài Gòn ngày 16 tháng 10 năm 1931. Andrée Viollis đã kể lại quang cảnh đầu tiên mà Bộ Trưởng phải chạm trán ở Vinh vào tháng 11:

Trong một khoảnh đất có hàng rào bằng gỗ có tới ba bốn ngàn con người mặc quần áo nâu rách tả tơi, tua tủa những cánh tay quờ quạng, những cánh tay khô xác, xương xẩu cầm những rổ rá đưa ra, không còn gì phân biệt tuổi tác, nam nữ, chỉ là một đám dân khốn cùng đến cửa chết. Bốn lính dáng bộ cường tráng no đủ, mặc đồng phục trắng, chững chạc điều khiển và duy trì trật tự bằng những cú dùi cui đập vào đám dân màu đất đó. Những phụ nữ người bản địa dùng đấu gỗ đong độ một kilô gạo vào mỗi rổ rá; mấy đứa con nít trần truồng nhào xuống đất để nhặt những hạt gạo vãi trong bùn bằng móng tay của chúng. (96)

Nếu những điều ông Reynaud thấy làm ông ngập ngượng, nếu ông có thể đau lòng theo như ông tỏ với bà Viollis, ông ta cũng chẳng đưa ra biện pháp gì để tránh những cảnh bi thảm thế đó tái diễn. Ông chỉ có thốt ra những lời giận dữ đối với các tù chính trị.

Một trong số người tùy tùng ông khoe khoang rằng có tới 37 trung tâm phát chẩn như ở Vinh đã được tổ chức: ‘’Chúng tôi nuôi độ 80.000 người có ghi tên, cứ năm ngày phát gạo một lần.’’ Những đợt phát gạo ở Nghệ An ngưng ngay sau khi ông bộ trưởng đi khỏi.

Nội bộ đảng cộng sản Đông Dương phân liệt

Chiến lược gọi là ‘’thời kỳ thứ ba’’ của Quốc Tế Cộng Sản được đảng cộng sản chấp nhận đã dẫn phong trào nông dân tới thất bại đẫm máu. Ở Trung Kỳ tổn thất nặng hơn ở Bắc và Nam Kỳ: 4.000 người bị bắt từ ngày 1 tháng 8 năm 1929 tới 30 tháng 6 năm 1931 (số trong giấy ghi của mật thám tháng 7 năm 1931) và có tới 1760 ‘’người phiến loạn bị giết’’ trong khu vực Vinh và Nghệ Tĩnh (công bố của Công Sứ Le Fol).

Bi kịch nông dân Nghệ Tĩnh đặc biệt gieo ít nhiều rối loạn trong hàng ngũ của đảng cộng sản. Ban chấp hành trung ương chỉ trích xứ ủy đã phát động một cuộc bạo động non. Vào năm 1931, những chiến sĩ cách mạng ở Nghệ An, không đồng tình với tỉnh ủy, đứng ra lập một nhóm độc lập, Vừng Hồng (97); ở Nam Kỳ, Đào Hưng Long, lúc đó là đặc phái viên của đảng cộng sản Đông Dương tại miền Tây, lập một nhóm độc lập ở Cà Mau gọi là Liên minh cộng sản đoàn, phát hành tờ báo Vầng Hồng lưu hành ở vùng Bạc Liêu, phê phán đảng cộng sản về cuộc vận động phiêu lưu ở Nghệ Tĩnh và gieo khủng bố ở miền Nam, nơi đây phong trào nông dân chuyển biến thành manh động.

Một nhóm cộng sản khác có thái độ chỉ trích thành lập ở Sài Gòn, Chợ Lớn và Gia Định, do sáng kiến Lư Sanh Hạnh, thành ủy viên Sài Gòn. Đến tháng 8 năm 1932 thành ủy Sài Gòn thành lập một ban chấp hành lâm thời nhằm khôi phục đảng, ban chỉ đạo đảng bị hạ ngục từ tháng 4 năm 1931. Nhóm cộng sản này phát hành tờ Lao Động, tổ chức hoạt động trong đám thủy thủ, liên hệ với các chiến sĩ phân tán ở Bắc Kỳ, và tổ chức một số chi bộ mới, trong đó có chi bộ nhà máy rượu Bình Tây (3 người). (98)

Đào Hưng Long và Lư Sanh Hạnh sau đó chẳng bao lâu gia nhập phái Tả Đối Lập, thành lập ở Sài Gòn từ cuối năm 1931.

Khá lâu về sau, lịch sử chính thức của Hà Nội mới công nhận rằng trên toàn quốc chưa có những điều kiện chủ quan và khách quan đầy đủ, phong trào Sô-viết Nghệ Tĩnh thiết lập chỉ trong khung khổ một vùng, cuối cùng phải thất bại. (99)

CHÚ THÍCH

78.- Ban Hội Tề là cơ quan hành chánh làng xã dưới triều đại cũ, có quyền tự quản lớn đối với chánh quyền trung ương. Ban Hội Tề gồm khoảng hơn mười hương chức, được tuyển chọn trong số những người có học, giàu có và/hoặc có đạo đức, họ là cơ sở hành chính của chính quyền thực dân ở nông thôn. Sau đây là những chức sắc chủ yếu:

Hương Cả: Người nhiều tuổi và giàu có nhất trong làng, đứng đầu Ban Hội Tề.

Hương Chủ: Người Phó của Hương Cả.

Hương Giáo: Phụ trách giảng giải về lễ nghi, tập quán.

Hương Sư: Một người có học vấn cao nhất, làm cố vấn trong những công việc khó khăn phức tạp và giữ gìn thuần phong mỹ tục.

Hương Trưởng: Tương tự như Hương Sư nhưng kém vai vế.

Hương Chánh: Cố vấn về tư pháp và có kinh nghiệm của làng xã, xuất thân từ Hương Thân hay Hương Hào.

Hương Thân: Phụ trách giấy tờ sổ sách, có khả năng giải thích các công văn giấy tờ của cấp trên.

Hương Hào: Phụ trách về an ninh.

Hương Quản: Phụ trách cảnh sát chung trong làng.

Hương Lễ: Trông coi về lễ nghi tế tự.

Xã Trưởng, hay Thôn Trưởng, hay Lý Trưởng: Người do Ban Hội Tề đề cử và được chính quyền chấp nhận, cùng với Hương Thân và Hương Hào lập ra sổ danh bộ và sổ thuế bộ. Cả ba người trên chịu trách nhiệm về mặt hợp pháp hóa giấy tờ văn bản.

Phải qua chức xã trưởng này trong vài năm mới có thể chiếm địa vị cao hơn.

Hương Bộ hay Thủ Bộ: Giữ các giấy tờ lưu trữ của làng.

Biện Lại: Thư ký do làng đài thọ để giúp việc cho các vị hương chức.

Các chức sắc nhỏ hơn như những ông Trùm, ông Trưởng, làm những nhiệm vụ như chạy giấy tờ, văn thư, v.v... (Xem Georges Coulet, Les Sociétés secrètes en terre d'Annam [Hội kín ở đất An Nam], Sài Gòn 1926.).

Ban hương chức họp tại đình làng - một ngôi nhà làm bằng gạch lợp ngói đối với những làng khá giả, hoặc một ngôi nhà lá đối với những làng nghèo - và xử những vụ vi phạm nhỏ. Hình phạt bị đánh đòn, người bị phạt, bị bắt nằm sắp và đánh ngay tại sân nhà làng.

79.- Giới địa chủ hợp thành một tầng lớp hữu sản ở nông thôn, số người rất ít, lại chiếm giữ phần lớn ruộng đất nhưng lại không tự tay cày cấy mà thuê tá điền; họ sống nhờ vào địa tô và cho vay nặng lãi.

Nông dân giàu hay phú nông là những chủ điền đất nhỏ, họ tham gia cùng với công nhân nông nghiệp khai thác đất đai của họ; Trung nông là những người tự tay cày cấy ruộng đất, không thuê nhân công; Bần nông hay cố nông là những người chỉ có chút ít ruộng đất không đủ để nuôi sống gia đình và phải đi làm thuê như hàng triệu người không ruộng đất.

Theo Y. Henry, L'économie agricole de l'Indochine (Kinh tế nông nghiệp ở Đông Dương), Hanoi 1932, tại Trung Nam Kỳ và Tây Nam Kỳ, diện tích ruộng đ