CHƯƠNG XI KHỦNG HOẢNG KINH TẾ VÀ ĐÀN ÁP CHÍNH TRỊ Ở NAM KỲ-1932-1933
Vào năm 1932 Nam Kỳ chìm ngập giữa khủng hoảng kinh tế. Dân chúng suy sụp bần cùng trong bầu không khí gắt gao đàn áp. Thuế khóa không giảm chút nào, đời sống ngày càng bấp bênh.
Tháng tư, 40 thợ người Tàu xưởng dệt khăn lau bị giảm 50% lương. Tháng năm, những người làm công nhật Sở Trường Tiền (Công Chính) tự nguyện xin giảm lương 20% để không một ai bị loại.
Đồn điền Phú Quốc gặp khó khăn phải đóng cửa, bỏ mặc phu Bắc Kỳ và cả nhân viên người Pháp. Sau nhiều tháng trời lang thang đi tìm việc làm để kiếm sống, rốt cuộc những phu người Bắc được chính quyền đưa về xứ.
Hồi tháng chạp, tại Sở Cao Su Michelin ở Dầu Tiếng, lương phu đàn ông bị giảm từ 40 xu còn 30 xu, đàn bà từ 30 xu xuống 23 xu. Họ bãi công bị đàn áp đẫm máu mà không đạt kết quả gì. Chỉ còn nước chọn một trong hai đường: Nhận cảnh nửa no nửa đói hoặc ra đi.
Hoạt động cách mạng dường như bị tắt ngấm. Mặc dầu thỉnh thoảng một vài việc xảy ra, như tháng tư ở Sài Gòn có mít ting cộng sản nhóm ở ngã tư Đại Lộ Galliéni, Đường Arras và Huỳnh Quang Tiên; trước ngày 1 tháng năm vài biểu ngữ đỏ treo nơi này nơi khác; phu xe kéo Gia Định bãi công phản đối tăng giá giấy phép kéo xe một cách hà lạm. Quái tượng cách mạng dường như ẩn mình. ‘’Không một sự biến nào cả trong toàn cõi Đông Dương ngày 1 tháng Năm 1932’’, Văn phòng chính trị chứng minh như thế.
Tuy nhiên, âm thầm trong bóng tối biết bao chập chờn toan tính tái lập đảng cộng sản ở Sài Gòn, Chợ Lớn và khắp Nam Kỳ lục tỉnh. Phái Tả Đối Lập cũng lần hồi xây dựng.
Mặc dù tình hình chính trị bề ngoài có vẻ yên tĩnh đàn áp vẫn không ngưng.
Ngày 21 tháng giêng 1932, Tòa Đại Hình Sài Gòn kết án tử Huỳnh Văn Đảm, có chân trong đội tự vệ đảng cộng sản Đông Dương. Tòa cáo anh đã ám sát một tên điềm chỉ.
Ngày 20 tháng sáu, Lê Văn Thử bị kết án 7 tháng tù. Sau khi bị trục xuất khỏi xứ Pháp về xứ, anh mở quán cà phê ở Gia Định để sống. Tòa buộc tội anh toan lập một phân bộ cứu tế đỏ, trách anh có liên lạc với Cô Sâm, ủy viên tỉnh ủy cộng sản Chợ Lớn, và đã tiếp hai cựu chiến hữu Đảng Thanh Niên là Trần Tú Chinh và Lưu Đình Tú trú ngụ nhà anh. Hai người nầy mỗi người bị 9 tháng tù.
Cuối tháng bảy, 32 nông dân bị bắt trong cuộc biểu tình hồi tháng sáu năm 1930 tại Bà Hom, - nơi nhiều người bị tên cò Campana bắn chết - nay bị đưa ra Tòa Đại Hình! Sau hơn hai năm giam ở Khám Lớn, 22 người bị kêu án từ 2 đến 5 năm tù, trong đó ba người đàn bà.
Ngày 6 tháng 8, ruồng bố rộng, 65 chiến sĩ hoặc người cảm tình Phái Tả Đối Lập bị hạ ngục. Lần lược theo đó, 163 đảng viên đảng cộng ản Đông Dương đang xây dựng lại, gồm cả nhóm phân liệt Lư Sanh Hạnh cũng lọt vào lưới mật thám.
Qua tháng 11, Phạm Văn Thiên, gọi Hùng, học trò cũ Trường Trung Học Mỹ Tho, cùng hai đồng chí Trịnh văn Ó và Nguyễn văn Cầu, thành viên tỉnh ủy Mỹ Tho, bị Tòa Đại Hình xử tử, buộc tội giết Lê Quang Chiêu, người bị coi là phản đảng. Phiên tòa nầy cũng kêu án lưu đày khổ sai 33 tù chính trị khác.
Cùng trong tháng 11 năm 1932, cảnh sát Anh ở Singapoure giao cho mật thám Sài Gòn người Tây tên Ducroux gọi Lefranc, Thanh Tra của Đệ Tam Quốc Tế. Theo lời Chánh Mật Thám Louis Marty (101), ngày 23 tháng 3 năm 1931, Ducroux có giao 16.000 francs cho Ngô Đức Trì và Trần Phú, ủy viên ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Đông Dương. Mối liên lạc giữa Moscou với đảng cộng sản Đông Dương đứt đoạn: Nguyễn ái Quốc bị bắt ở Hương Cảng ngày 6 tháng 6 năm 1931, mãi tới 1933 mới sang Nga được.
Các tay cách mạng chuyên nghiệp đã tốt nghiệp hoặc đương đào tạo tại Trường Staline ở Moscou, như Hà huy Tập, Dương bạch Mai, Trần văn Giàu, Nguyễn văn Dựt...sẽ thọ lãnh nhiệm vụ gây dựng lại cuộc vận động cách mạng đã tan vỡ trong xứ. Một Chương trình hành động của đảng cộng sản Đông Dương nhập Việt Nam năm 1933.
Ba vụ án cộng sản năm 1933 ở Sài Gòn. Ngày 1 tháng 5 năm 1933, Phái Tả Đối Lập ra Tòa.
Hai mươi mốt chiến sĩ gồm thợ, cu-li, thơ ký, thầy giáo. không người nào là cách mạng chuyên môn. Trong số đó, 16 người bị kêu án vì ‘’có chân trong một hội kín và vận động phá rối trị an’’, có người bị ghi thêm tội tàng trữ đạn dược và súng sáu tự tạo. Họ thuộc lứa tuổi 20 chứ chưa tới 30.
Án quyết:
- Phan Văn Chánh và Hồ Hữu Tường, hai nhà lý luận, 4 và 3 năm tù treo.
- Nguyễn Văn Thưởng, bạn thời nhỏ của Phan Văn Chánh, trước đã bị Tòa Đại Hình Hà Nội kết án khổ sai chung thân vắng mặt, cùng Pham Văn Đông, bị cáo chế tạo súng đạn: 5 năm và 4 năm tù thêm 20 và 10 năm biệt xứ.
- Nguyễn Hữu Hòa chuyên việc in tờ Vô Sản và sách; Nguyễn Văn Bé trách nhiệm liên lạc với các đảng viên đảng cộng sản Đông Dương; Lê Văn Hổ; Đào Hưng Long- thuộc xu hướng Tả Đối Lập đầu tiên trong nội bộ đảng cộng sản Đông Dương từ cuối 1930 - trách nhiệm tổ chức và hoạt động thực hành: 18, 15 và 12 tháng tù.
- Nguyễn Văn Minh trách nhiệm tuyên truyền; Nguyễn Văn Đại với Trần Hải Thoại, cộng sự với Đào Hưng Long trong Liên minh cộng sản đoàn ở Cà Mau; và Phạm Văn Lụa: 10, 8 hoặc 6 tháng tù.
- Võ Thị Bằng, cũng gọi Nguyễn Thị Mỹ; Trần Văn Xuân; Nguyễn Văn Hoàng, trách nhiệm thành lập chi bộ sản nghiệp: Nguyễn Huệ Minh, bạn đời của Hồ Hữu Tường: 3 hoặc 4 tháng tù.
- Trần Thị Mười, bạn đời của Đào Hưng Long được tha bổng.
- Nguyễn Văn Thưởng và Pham Văn Đông bị đưa ra Côn Đảo, Đông bỏ
xương ở đó.
- Đào Hưng Long bị đày đến hầm đá Châu Đốc, bắt đập đá với tù thường phạm. Anh khuyến khích họ bãi công, liền bị nhốt vào khám hầm, cùm chân, rồi bị gửi tống trở về Khám Lớn Sài Gòn.
- Chị Mỹ bị tra tấn đến chết trong năm đó.
Tờ Thư Tín Đông Dương (La Dépêche d'Indochine) gọi vụ án nầy ‘’vụ án trotskiste’’, vụ án đầu tiên Phái Tả Đối Lập Đông Dương.
Vụ án 122 đảng viên cộng sản ngày 3 tháng 5 năm 1933
Một trong số trạng sư binh vực bị cáo viết cho bà Andrée Viollis như vầy:
Ở đây có sáu vụ riêng biệt không liên quan gì với nhau mà lại đem ghép nhau lại, trái với mọi thủ tục pháp lý, để cấu thành một tốp cộng sản. Tuy nhiên cách thức nầy có cái lợi là họ bôi nhọ được đảng cộng sản và đặc biệt truy tố ghép đảng viên vào tội hội hiệp hung thủ bạo đồ.
Bên bị cáo không có người chứng. Phía nguyên cáo trừ hai người, đều là nhân viên Sở Mật Thám.
Tòa gồm ba Quan Tòa Pháp và hai Thẩm Phán An Nam, hai ngưới nầy không biết gì ráo về hồ sơ vụ án. Họ xét xử trong vòng năm ngày, 119 người bị truy tố, trong số có 7 người đàn bà, bị cáo ‘’hội kín, âm mưu chống an ninh Nhà nước và hội hiệp hung thủ bạo đồ. (102)
Ba bị cáo vắng mặt: Huỳnh Văn Đảm, số 55, bị bắt ngày 4 tháng 6 năm 1930 tại Bà Hom, bị kết án tử hình sau một phiên xử vội vã ngày 21 tháng giêng năm 1932, và đã bị chém ngày 25 tháng 3 năm 1933, hơn một tháng nay: Nguyễn Văn Quý, số 64, và Phước, đã chết trong tù, giống như trường hợp Hương Quản Năng, Xã Trưởng Hiếu, Nguyễn Trung Hanh cùng Trần Phú đều bị tra tấn đến chết, như tờ Thư Tín Đông Dương ngày 23 tháng 6 năm 1936 đã nhắc lại.
Vụ án nầy xử lẫn lộn hoạt động chính trị và nghiệp đoàn (tuyên truyền bằng truyền đơn và báo chí, bí mật thành lập công hội và nông hội, tổ chức nông dân nghèo tuần hành đòi giảm thuế, v.v...) cùng những hành động thường phạm (lấy trộm súng ống trong Đồn Ô Ma (Camp des Mares) năm 1929, giết ba hương chức săn người và vụ tên lính lưu động chết trong cuộc ẩu đả ở Nhà Bè năm 1930, vụ đánh cướp tàu xà lúp vận tải ở Mỹ Tho năm 1933, và vụ tình nghi xử tử một người cho là phản đảng, vụ nầy đã xử rồi năm 1932.
Ai là những người bị cáo? Những trí thức trong đó có những người từ Moscou và Quảng Châu về, mươi người trước theo Nguyễn An Ninh trong đó có hai anh lính tập, đa số người nông thôn, thầy giáo, hương chức nhỏ, dân cày, chiến sĩ vận động trong sản nghiệp, thư ký, thợ sắp chữ, thợ điện, cu-li v.v...
Tranh tụng vô cùng chóng vánh. Trong vụ nầy cũng như trong tất cả các ‘’vụ cộng sản’’, giao cho Sở Mật Thám thẩm vấn (lẽ ra thẩm vấn là nhiệm vụ quan bồi thẩm, theo pháp lý, việc sái luật ấy có thể khép vào tội vi phạm chức vụ). Những người bị cáo bị giam hằng tháng, có khi đến hai ba năm như trong trường hợpnầy.
Người ta dùng những cách tra tấn hết chỗ nói, tỏ ra họ rất lọc lõi kiểu tra tấn theo lối Á Châu. Nhiều bị cáo khi ra trước tòa đã bị thương tật suốt đời. Một bị cáo bị gãy cánh tay vì bị tra theo lối treo người, hai tay trói ké sau lưng. Điện cũng dùng để khảo tra, không kể nhiều ngón tay bị đập nát, kim đâm xỉa dưới móng tay. Đấy chỉ là những cách thông thường. Như thế đó người ta lấy khẩu cung người bị cáo thú nhận.
Lời thú nhận ghi xong vào biên bản, người ta dẫn bị cáo đến trước bồi thẩm để xác nhận. Người ta cũng vừa cho bị cáo biết nếu mình phản cung, thì người ta sẽ tiếp tục tra hỏi lại cho tới chết nếu cần (103).
Khi Phan Bội công bố trước tòa rằng anh bị tra tấn từ 6 giờ chiều tới 3 giờ khuya, chánh án Weill vừa nhận lời vừa thản nhiên hỏi: ‘’Có phải bị tra tấn thật hay không? Hay chỉ bị đấm đá, như cảnh sát loi vả là thói thường khắp thế giới!’’ Phan Bội nói rõ hơn: ‘’Trước hết họ tay đấm chân đá, rồi đánh bằng gậy, tay trói ké sau lưng, miệng tôi ộc máu. Chính Bác Sĩ Montel đã chăm sóc tôi nhiều lần.’’ (104)
Trong những lời biện hộ, chúng tôi ghi ít lời sau đây của Trạng Sư Cancellieri:
Vụ xử ngày hôm nay vượt ngoài giới hạn tòa án nầy. Những cuộc dấy loạn đã có từ hàng ngàn năm nay: Lúc đầu nổi dậy dưới hình thức Ky-tô Giáo, rồi đến những phiến loạn thời Trung Cổ, rốt hết khi tư bản chủ nghĩa thiết lập, phiến loạnnổi lên dưới hình thức hợp lý và có tổ chức.
Những cuộc đấu tranh ấy thất bại, tiếng tăm vang vọng lan tận dân tộc hòa bình và hiền hậu nầy. Người ta đã hứa hẹn với họ nhiều điều, nhưng người ta có giữlời hứa không?
Sáng hôm nay người ta nói đến hội kín. Phải chăng hội kín là một cần thiết trong xứ nầy? Nơi mà nhóm họp trên hai mươi người thì bị cấm. Nếu người ta muốntránh một cuộc bùng nổ thì hãy ban hành những quyền tự do. Đào tạo đảng phái, thành lập nghiệp đoàn, thì các ông sẽ nắm họ trong tay.Nhưng nếu người ta muốn trấn áp không màng hậu quả thì cuộc cách mạng sẽ nổ ra dữ dội.
Những người bị cáo nầy không thành lập bè đảng hung thủ bạo đồ.
Đấy là những người có lý tưởng và họ biết rằng ám sát cá nhân, cướp bốc bao giờ đảng của họ cũng cấm.
Chưởng Lý Walrand đòi sáu cái đầu để trả thù ba hương chức làng bị giết năm 1930, một cái đầu bù cho tên lính lưu động Thọ chết hồi tháng 3 năm 1931, và một cái đầu thứ tám hành tội kẻ hành quyết Lê Quang Chiêu.
Án quyết tuyên ra vào 4 giờ sáng chủ nhật ngày 7 tháng 5 năm 1933. Một án quyết không thể táo tợn hơn nữa được:
8 án tử hình: Huỳnh Văn Bỉnh, 53 tuổi - Nguyễn Văn Út, 52 tuổi - Nguyễn Văn Tôn, 47 tuổi - Huỳnh Văn Gọn, cũng tuổi đó - Đặng Văn Cu, 34 tuổi - Lê Quang Sung, 23 tuổi, ký giả báo Nhà Quê, bị buộc tội chủ trì tòa án cách mạng xử tử hương chức làng ở Đức Hòa - Phạm Văn Khương, 23 tuổi, làm thợ ở kho dầu Nhà Bè, can về vụ xung đột đã làm vong mạng tên lính Thọ. Người chót bị án tử là Cao Văn Lương,33 tuổi, can vụ giết Lê Quang Chiêu, vụ mà Tòa Đại Hình Mỹ Tho đã xét xử năm 1932 và đã kêu án tử 3 người.
79 người bị khổ sai hoặc cấm cố có kỳ hạn, trong có một ông già 89 tuổi, tổng cộng 970 năm tù đày.
19 người bị khổ sai chung thân, trong đó có Dương Hạc Đính và Ngô Gia Tự, cả hai ủy viên ban chấp hành trung ương đảng cộng sản Đông Dương. Ngô Gia Tự chết năm 1935, được 27 tuổi, khi vượt ngục Côn Sơn.
Dương Hạc Đính, năm 1931 đã bị Tòa Đại Hình Hà Nội kêu án vắng mặt khổ sai chung thân và Ngô Đức Trì - con ông Nghè Ngô Đức Kế, người bị đày ra Côn Đảo năm 1908 - vừa bị án 15 năm, hai người thất thần khai nhận hoang mang, sau đó bị đồng chí khai trừ. Báo Tranh Đấu ngày 4 tháng 10 năm 1934, nhân dịp Toàn Quyền Robin ký lệnh ân xá 617 tù chính trị, còn chỉ trích thái độ Dương Hạc Đính và Ngô Dức Trì đã ‘’giúp mật thám bắt bớ’’.
Chưa đầy một tuần sau khi tuyên án, ngày thứ bảy 13 tháng 5, khoảng 90 người vừa bị kết án, bị hấp tấp tống xuống tàu Armand Rousseau chở đi Côn Sơn. Cũng bữa đó, tờ Báo chí Đông Dương (La Presse Indochinoise) đăng bài phản đối án quyết ‘’tàn nhẫn và không giải thích nổi’’, rồi kể ra mươi trường hợp vô lý, như hai ca dưới đây:
N°71.- NGUYỄN VĂN ÚT. Đảng viên đảng cộng sản, tham gia tòa án cách mạng đã quyết định xử tử hai hương chức làng Hựu Thạnh. Y đi cùng thủ lĩnh là Huỳnh Văn Bỉnh, người đã ám sát hương chức Mây……..TỬ HÌNH.
N°72.- HUỲNH VĂN VO. Cựu hương quản, đảng viên đảng cộng sản, tham gia tòa án cách mạng đã quyết định xử tử hai hương chức làng Hựu Thạnh, dự nhóm phụ trách hành quyết hương quản Mây..........THA BỔNG.
Tờ báo còn thêm: Chúng tôi sẽ chỉ rõ rằng ‘’việc thẩm vấn do mật thám tiến hành, điều đó theo các hình luật sư là vi phạm trong công vụ!’’ Bản tổng kết chính thức về đán áp theo pháp lý những năm 1930, 1931 và 1932:
Số người An Nam bị kết án….........................................6897
- Do các hội đồng đề hình………....................................1094
- Do các tòa án bản địa ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ…………..5083
- Do tòa án Pháp ở Nam Kỳ……......................................720
Trong số đó có 164 án tử hình (88 vụ đã hành quyết: 38 ở Bắc Kỳ, 46 ở Trung Kỳ và 4 ở Nam Kỳ). Số còn bị giam ở Bắc Kỳ 1091, Trung Kỳ 1879; được thả có điều kiện 2810. (105)
Những vụ xử năm 1933 thêm bi thảm vào bản thống kê trên.
Ở Pháp, Ủy ban đòi ân xá và bảo vệ người Đông Dương và các dân tộc thuộc địa do Francis Jourdain đề xướng, nhóm họp cùng Marius Moutel, Andrée Viollis, Louis Roubeaud...tức thời can thiệp, không những giáp mặt với bộ thượng thơ xã hội cấp tiến mà còn khích động dư luận công chúng bằng cách tổ chức thông tin và phản đối. Các đại biểu Ủy ban thấy thái độ ông bộ trưởng sẵn sàng; ông ta nói đã điện cho Sài Gòn không được thi hành một án nào trước khi đích thân ông xem xét hồ sơ.
Ngày 11 tháng 5, bốn thanh niên Pháp thuộc Liên minh cộng sản (Phái Tả Đối Lập) toan phát lên một tiếng vang làm cho báo chí im lìm phải lên tiếng. Họ đập vỡ vách kiến và một vài đồ đạt quý báu ở nhà Tổng Hội Đông Dương, nơi đó đang trưng bày những tác phẩm nghệ thuật Đông phương. Craipeau và Rosenthal trốn thoát, còn Atlan và Lastérade bị bắt. Ngày hôm sau, các báo tường thuật vụ biểu thị bất thường đó, cho rằng gốc ngọn là bản án quyết Sài Gòn, bản án ‘’bỉ ổi’’ theo báo Bình Dân (Le Populaire), ‘’công bằng’’ theo báo Le Figaro. Báo Bình Dân còn phát lời của Liên minh kêu gọi vô sản Paris: ‘’Hãy ngăn cản đế quốc chủ nghĩa Pháp hành hình những người bị kết án ở Sài Gòn sát nhân một lần mới nữa!’’.
Phan Văn Hùm cùng Nhóm người Đông Dương thuộc Liên minh lên tiếng chung cùng những ai thử thức tỉnh dư luận.
Ngày 16, Ủy ban đòi ân xá tập hợp 1200 người tham dự tại Hội các Nhà Bác Học. Nguyễn Văn Lịnh kêu gọi giới vô sản Paris chủ nhật tới tập họp tại Bức Tường Công Xã để phản đối những vụ kết án chính trị tại Đông Dương.
Ngày 20, một phái đoàn do Dân Biểu Monnerville dẫn đầu đến bộ thượng thơ để ‘’tỏ bày sự xúc động trong giới lao động trí thức và chân tay do án quyết của Sài Gòn mới đây’’.
Ngày 3 tháng 7, Ủy ban lại triệu tập một cuộc họp tại Nhà Hội Tương Tế (Mutualité). Félicien Challaye, Victor Margueritte; AndréMalraux, kỹ sư thuộc địa Raymond, Léon Werth... cũng tham dự. Một phái đoàn được cử tới gặp Albert Sarraut. Ngày 5, Francis Jourdain gửi cho bộ trưởng một bản tường trình chi tiết về vụ xử án ghê tởm tại Sài Gòn. Ông nhấn mạnh tính chất cấp bách phải ‘’nhắc nhở những người có thẩm quyền (Toàn Quyền Đông Dương) về khoản 444 trong bộ luật xét hỏi hình sự để làm cho họ phải ngưng thi hành án’’. Ông nói rằng Ủy ban ân xá đề nghị’’ những người bị kết án do một sự lầm lẫn đáng tiếc đã đưa ra Côn Đảo sẽ được trở lại Sài Gòn chờ được xem xét lại, một việc mà người ta không được khước từ’’. Ông gợi ý cần phải xác định rõ sự phân biệt giữa việc đánh, vả và việc tra tấn theo đúng nghĩa của nó, ‘’một hành động bỉ ổi’’. Ông nhấn mạnh tòa án không thể căn cứ vào những lời thú nhận trong lúc bị tra tấn mà xử đoán; ông tường trình những kết án có tính chất ‘’độc đoán gần như hoang mang’’, sau khi ông đã phân tích lối năm chục trường hợp đặc biệt.
Ngày 5 tháng 8, Toàn Quyền Pasquier đích thân viết cho Bộ Trưởng Bộ Thuộc địa đề nghị khoan dung: ‘’Bản thân tôi cũng cảm thấy xúc động quá chừng khi biết được cái án quyết quá khắc nghiệt’’.(106)
Khi những hồ sơ chuyển tới Tòa Thượng Thẩm Paris, Ủy ban đòi ân xá ấn hành quyển Văn minh Pháp tại Đông Dương, một tiếng kêu từ đáy lòng của Marcel Martinet để phản đối ‘’công lý’’ bất công. Trong đó nhà thi sĩ này, bạn của Trotski, phác họa bức tranh về những biến cố gần đây, cuộc khởi nghĩa đột khởi ở Yên Báy, tiếp diễn theo sau là những trận liên thanh và mưa bom bừa bãi, những bản án vội vã của các hội đồng đề hình ‘’giống như những tòa án quân sự đặc biệt do chính phủ ở Thành Versaillais đặt ra (tàn sát Paris Công Xã) năm 1871’’. Ông gớm ‘’công lý quái gở’’ trong vụ án 122 người ở Sài Gòn, cùng với, một cách tương phản, công lý cũng không kém quái gở của Tòa Án Hà Nội vừa mới tuyên bố tha bổng những tên lính Lê Dương chuyên hành hạ và sát nhân, ‘’những chiến tích của bọn vũ phu tăm tối’’, mà Nhà Truyền Giáo Gauthier mệnh danh là ‘’sự nghiệp của nước Pháp’’, chúng được bọn chỉ huy quân sự và dân sự của chúng bao che.
Martinet kết thúc kêu gọi Thủ Tướng và Bộ Trưởng Bộ Thuộc Địa, chất vấn: ‘’Tiếp tục giết người có phải là hiền minh chăng? Liệu những bản án ghê tởm do tòa án tuyên bố sẽ cứ được thi hành chăng?’’.
Các bản án tử hình được giảm khinh.
Tháng 9 năm 1933: 64 đảng viên cộng sản ra tòa
Bị giam từ tháng 10 năm 1932 vì toan tái lập đảng cộng sản, 64 đảng viên bị truy tố trước Tòa Tiểu Hình chứ không phải Tòa Đại Hình. Chắc chắn hành động của Ủy ban đòi ân xá có kết quả gì đó. Rốt cuộc không người nào bị kêu án quá hai năm tù.
Trong số các bị cáo, có tiểu thủ công, có thợ và phu phen, ba người đàn bà kể cả Thi Sĩ Mai Huỳnh Hoa (con của Mai Văn Ngọc, bạn cố cựu của Nguyễn An Ninh, sau này Hoa làm bạn với Phan Văn Hùm).
Lư Sanh Hạnh, đảng viên phân liệt đã nói trên, bị kết án 15 tháng tù, đưa ra Vũng Tàu đẩy xe rùa chở đá sỏi cùng với tù thường phạm. Anh lôi cuốn họ bỏ làm. Bị giam hầm tối, anh tuyệt thực dài ngày để phản đối, chung quy được tống về Khám Lớn Sài Gòn. Đến năm 1933, anh lại xuất hiện trong phong trào lập Quốc Tế Đệ Tứ.
CHÚ THÍCH
101.- Louis Marty, Contribution à l'histoire des mouvements politiques en Indochine française (Góp vào lịch sử các phong trào chính trị ở Đông Dương thuộc Pháp), Hanoi 1930-1935, Tập IV, tiếng Pháp trang 29.
102.- La Dépêche d'Indochine, 1-5-1933.
103.- Andrée Viollis, Indochine S.O.S, Paris 1935 trang 185.
104-. L'Opinion, 4.5.1933.
105.- La Dépêche d'Indochine, 2.2.1933.
106.- Archives Outremer, Aix-en-Provence. 1036.