← Quay lại trang sách

CHƯƠNG X PHÁI CỘNG SẢN TẢ ĐỐI LẬP ĐÔNG DƯƠNG-1931-1933-

Cuộc đàn áp rung chuyển toàn xứ. Khắp nơi tràn ngập trong bầu không khí khủng bố rùng rợn, chỉ tiếng ‘’cộng sản’’ thật ra cũng làm cho mỗi người sợ hãi. Ngay từ khi đặt chân lên đất Sài Gòn vào tháng 6 năm 1930, Tạ Thu Thâu, Huỳnh Văn Phương và Phan Văn Chánh bị trục xuất từ Pháp, mật thám không mất dấu họ. Thoạt tiên họ tìm kế sinh nhai. Đầu năm 1931, Hồ Hữu Tường bắt liên lạc với họ ở Sài Gòn, rồi cùng nhau dự kiến bí mật lập một phân bộ cộng sản Tả Đối Lập quốc tế ở Đông Dương.

Tiếp xúc Hồ Hữu Tường từ tháng 5 năm 1931, Đào Hưng Long tán thành luận thuyết Phái Tả Đối Lập phê phán Quốc Tế Cộng Sản chỉ đạo đã liên tiếp dẫn tới thất bại. Quân đội Tưởng Giới Thạch, với vũ khí do Moscou trang bị, bắn giết thợ thuyền Thượng Hải, đánh úp cuộc bạo động vũ trang tháng 4 năm 1927. Moscou không cung cấp vũ khí đảng cộng sản Tàu lại buộc phải phục tùng Quốc Dân Đảng, đảng tư sản. Công xã Quảng Châu tháng chạp năm 1927 do phái Stalin quáng mù khích động cũng dìm trong máu lửa. Thảm kịch Sô-viết Nghệ Tĩnh không ngoài ảnh hưởng chỉ đạo của Moscou.

Đảng cộng sản hướng nỗ lực chủ yếu về nông thôn, kém chú ý giai cấp vô sản thành thị, các trung tâm công nghệ. Tả Đối Lập quan niệm vô sản là giai cấp duy nhất khả năng đóng vai tiền phong trong cuộc cách mạng. Mặc dù còn non yếu, giai cấp này vẫn nắm trong tay các trung tâm đầu não hệ thống khai thác kinh tế và thống trị thuộc địa.

Đào Hưng Long rời tỉnh lên Sài Gòn, hướng ‘’làm việc’’ trong giới phu phen thợ thuyền. Anh cùng Hồ Hữu Tường bí mật phát hành tạp chí lý luận Tháng Mười (8 số từ tháng 8 năm 1931 tới tháng 3 năm 1932), và tờ báo Chiến Đấu cộng sản, in bằng xoa xoa.

Long gặp Ngô Văn Xuyết, lúc đó làm công hãng Descours et Cabaud. Xuyết âm thầm vận động cu-li, tài xế, nhân viên trong hãng, thân kết thành hội ái hữu bán công khai (nói tới công hội, nghiệp đoàn, đồng như tiếng ‘’cộng sản’’, người ta sợ).

Tạ Thu Thâu cũng tập hợp quanh mình những chiến sĩ cộng sản hoang mang, ly tán sau khi đảng không còn. Vào tháng 11 năm 1931, hai nhóm Tường-Thâu nhập một thành Phái Tả Đối Lập. Họ vẫn giữ tờ báo Tháng Mười làm cơ quan lý luận. Nhà xuất bản bí mật của phái, gọi Tả Đối Lập Tùng Thư phát hành những sách dịch ra chữ Quốc Ngữ, truyền bá tư tưởng Karl Marx (Tuyên Ngôn Cộng Sản, ABC chủ nghĩa cộng sản của Bukharin, Chủ nghĩa xã hội không tưởng và chủ nghĩa xã hội khoa học, của Friedrich Engels v.v...) độ khoảng 15 tựa sách.

Đó là một công trình quá sức một nhóm ít người như vậy.

Trong cuộc hội nghị thảo luận tháng 4 năm 1932, ý kiến bất đồng xuất hiện: Nên tiến hành bảo vệ những đề cương Phái Tả Đối Lập trong nội bộ đảng cộng sản, hay đứng ngoài, trong một tổ chức đối lập tách biệt? Hội nghị không quyết định ngay lúc đó, nhưng không vì thế mà kém hoạt động. Họ xuất bản tờ báo chiến đấu Vô Sản, cơ quan Đông Dương Cộng Sản, hai tháng một lần. Số đầu ra ngày 1 tháng 5 năm 1932.

In ấn theo lối thủ công. Đào Hưng Long thảo ra quyển Cách tổ chức một chi bộ sản nghiệp, hướng dẫn đồng chí mới nhập môn về hoạt động thực tế.

Ẩn bóng tối ở Sài Gòn không bao lâu, Phái Tả Đối Lập bị phát giác. Mật thám tóm ‘’nhà in’’ báo Vô Sản tại nhà sửa chữa Ôtô Otly, phố Frère Louis (Nguyễn Trãi), lục soát trong ngõ hẻm Trương Minh Ký. Ngày 6 tháng 8 năm 1932 và những ngày sau, 65 đồng chí cùng bạn cảm tình bị bắt giam. Trong đó có ba chục người ở Sài Gòn còn mấy người khác ở các Tỉnh Gia Định, Bạc Liêu, Sóc Trăng và Bà Rịa. Đào Hưng Long và Hồ Hữu Tường bị bắt vào tháng 10 tháng 11. Một số người khác, như Phan Hiếu Kinh, Võ Bửu Bình, Huỳnh Văn Phương được thả vì thiếu chứng cớ. Tạ Thu Thâu đến tháng giêng 1933 được tại ngoại hầu tra.

Tạ Thu Thâu bị giam ba tháng ở bót mật thám đường Catinat. Sau khi được thả, anh kể lại tình cảnh giam cầm, tường thuật những cách mật thám tra tấn các bạn, để bắt họ ‘’đột nhiên tự thú’’, buộc họ cáo giác những người khác. Trong tập Ba tháng ở bót mật thám Catinat (viết bằng tiếng Pháp) mà sau này, năm 1934, Thâu trao cho Gabriel Péri - dân biểu thuộc đảng cộng sản Pháp tại Nghị Viện - người dẫn đầu phái đoàn công nhân điều tra sang Sài Gòn. Anh nêu lên trường hợp của Nguyễn Văn Hoàng, vì không chịu nổi những đòn tra tấn tự treo cổ trong xà lim.

Thoát chết, Hoàng lại bị cùm trần truồng trên hai tháng. Chị Nguyễn Thị Mỹ, khi rời phòng tra tấn bọn lính kín phải khiêng chị về xà lim, rồi ngày hôm sau đưa vô nhà thương Chợ Quán. Phạm Văn Đông chụp lưỡi dũa đâm vào cuốn họng khi mật thám lục xét nhà bắt được khẩu súng lục của anh tự chế tạo (anh bỏ mình ở Côn Đảo sau này). Nguyễn Văn Thưởng và Nguyễn Văn Bé, đêm khuya cứ hai tiếng một lần bị dẫn lên phòng tra. Tạ Thu Thâu viết:

Tôi thất thần mỗi khi các bạn tôi bị tra tấn, mỗi khi nhìn thấy họ bị dẫn đi lên thang khu ốc. Tôi tự hỏi họ chịu đựng nổi tra tấn hay không, để giữ bí mật và tránh cho các đồng chí còn ở ngoài khỏi bị bắt. (100)

Chúng ta sẽ còn gặp Tạ Thu Thâu trong cuộc đấu tranh hợp pháp năm 1933, nhân dịp bầu cử Hội Đồng Thành Phố Sài Gòn.

Nhóm người Đông Dương trong Liên minh cộng sản (Phái Tả Đối Lập) ở Pháp

Ở Paris, cuối năm 1930, một ít sinh viên An Nam thoát khỏi bắt bớ trong lúc tham gia biểu tình phản đối án tử hình ở Yên Bái, các sinh viên ấy tiếp xúc người thuộc Phái Tả Đối Lập ở Pháp như Alfred Rosmer, Pierre Naville, Pierre Frank, rồi thành lập một nhóm cộng sản đối lập chính trị Quốc Tế Cộng Sản ở Đông Dương.

Họ bị đứt liên lạc với các đồng chí bị trục xuất về Sài Gòn, họ sống tách biệt xa xôi phong trào nông dân đang làm rung chuyển xứ sở, họ tự giới hạn chiến đấu trong giới đồng hương, gắng hành động hoặc độc lập, hoặc cộng tác với nhóm An Nam theo chủ nghĩa Stalin, mặc dù có những luận điểm bất đồng. Đồng thời họ mở rộng quan điểm chính trị rồi sau đó bắt đầu viết những bài phê phán đảng cộng sản Đông Dương, dựa vào tư tưởng Phái Tả Đối Lập trong Quốc Tế Cộng Sản.

Cuộc Triển Lãm Thuộc Địa 1931, một hình ảnh dối trá tình duyên thơ mộng giữa chính quốc với các thuộc địa, sắp long trọng khai mạc vào ngày 6 tháng 5 năm tại khu vườn Vincennes. Ngày 19 tháng 4, Nguyễn Văn Tạo lập một Ủy ban phản đối, bị trục xuất trước ngày khai mạc. Trần Văn Sĩ, Nguyễn Văn Lịnh và các bạn trong Ủy ban đó tự mình đảm đương kế hoạch biểu tình vào ngày mở cửa.

‘’Đừng tới dự cuộc Triển Lãm Thuộc Địa!’’, một truyền đơn của nhóm siêu thực (surréaliste), ký tên André Breton, Benjamin Péret và các bạn của họ kêu gọi tẩy chay. Tờ truyền đơn dục lòng Ủy ban phản đối, công kích ý niệm lường gạt của ‘’Nước Đại Pháp’’, và trong phần kết luận, đòi phải ‘’rút ngay ra khỏi các thuộc địa và kết án những tướng lãnh và viên chức chịu trách nhiệm về những cuộc tàn sát’’ ở Đông Dương.

Vào tháng 6, nhóm cộng sản đối lập tổ chức một cuộc tuần hành tới Đền Angkor Vat để phản đối vụ trục xuất người An Nam mới đây. Không những họ đòi thả tù chính trị, mà còn đòi phải rút hỏi Toàn Quyền Pasquier, ‘’thủ phạm vụ đàn áp tàn nhẫn những người dấy loạn ở Đông Dương’’.

Sau khi phong trào nông dân ở Trung Kỳ và Nam Kỳ thất bại lưu huyết, nhóm đối lập viết một bức thư dài, ‘’Thư gửi các đồng chí đảng cộng sản Đông Dương’’ đăng trên tờ Đấu Tranh Giai Cấp tháng 9 năm 1931, hoan nghênh ‘’cuộc đấu tranh vô cùng khó khăn để bênh vực công nhân và nông dân’’. Họ mời đảng viên đảng cộng sản Đông Dương tranh luận về các biến cố 1930-1931:

Những người bảo vệ luận thuyết ‘’cách mạng quốc gia tư sản dân quyền’’ thường đưa ra ý kiến chống lại chúng tôi, cho rằng tình trạng kinh tế lạc hậu của xứ Đông Dương không thể tới được giai đoạn cách mạng vô sản mà không trải qua giai đoạn chín mùi của cuộc cách mạng dân tộc dân quyền. Nhưng thực ra thì tình hình các thuộc địa và bán thuộc địa không thể xem xét tách rời với tình hình toàn thế giới.

Trong thời kỳ chiến tranh đế quốc và cách mạng vô sản, cuộc cách mạng ở Đông Dương là một bộ phận nằm trong mặt trận cách mạng thế giới, mặt trận của giai cấp vô sản chống chế độ thống trị đế quốc chủ nghĩa toàn thế giới.

Lý luận xã hội chủ nghĩa trong một nước duy nhất mà phái Stalin áp đặt trong Quốc Tế Cộng Sản làm nguy hại cho chủ nghĩa quốc tế vô sản và gây tác hại đến việc củng cố những thực hiện xã hội cấp tiến đã đạt được ở Liên Sô.

‘’Đảng của chúng tôi’’! Thật là một ảo tưởng đậm đà, họ mong được gia nhập đảng cộng sản Đông Dương để chung cùng hoạt động, mặc dầu là trái nghịch với Moscou.

Phái Stalin An Nam ở Paris làm cho họ phải tỉnh ngộ một cách thô bạo. Trên tờ Vô Sản ngày 15 tháng hai năm 1932, thay vì trả lời cho nhóm đối lập về vấn đề cơ bản, phái Stalin chỉ truyền đạt cho các đồng chí của họ những lời vu khống của đẳng cấp thơ lại quan liêu Nga: Những kẻ theo chủ nghĩa Trotski là đội tiên phong tư bản phản cách mạng.

Chúng ta hãy trở lại tháng tám 1932.

Cuộc đại hội ở Amsterdam (Hòa Lan) chống đế quốc chiến tranh do Henri Barbusse và Romain Rolland khởi xướng, diễn ra từ ngày 27 đến 30, nhóm Tả Đối Lập ở Paris đưa đồng chí đi tham dự.

Được tin nhóm Tả Đối Lập ở Sài Gòn bị bắt bớ, họ kêu gọi biểu tình phản đối những vụ bắt giam ấy. Người ta không thể từ chối, không để cho một người dân thuộc địa lên phát biểu, vì đó Nguyễn Văn Lịnh nói rằng cái gọi là ‘’cuộc đấu tranh chống chiến tranh’’ do tính chất trừu tượng của nó, chỉ là một cái cớ, vô hiệu quả. Trotski đã từng nói nếu người ta không đập tan cái chế độ đưa tới chiến tranh, thì chiến tranh không thế nào tránh khỏi, và cái gọi là ‘’xây dựng xã hội chủ nghĩa trong một xứ duy nhứt’’ sẽ tạo nên tình trạng trì trệ suy vong cho giai cấp vô sản. Vô Sản thuộc địa chỉ có thể đặt hy vọng của mình nơi liên hệ với giai cấp vô sản thế giới, chứ không phải nơi những ủy ban hô hào chống chiến tranh.

Năm 1933, Trotski thay đổi quan điểm chính trị: Tả Đối Lập không còn mong phục hồi Đệ Tam Quốc Tế. Khắp nơi họ bị phái Stalin khai trừ, vu khống, hành hạ bằng bạo lực. Những phần tử cách mạng phải khước từ việc tái nhập vào các đảng cộng sản chính thức, phải xem đó là không tưởng và phản động. Họ không thể chung cùng Stalin trong một Quốc Tế, phải dự bị thành lập Đệ Tứ Quốc Tế.

Nhóm tả phái Đông Dương, do kinh nghiệm riêng của mình, cũng triển vọng như thế, như họ đã tỏ ý trong bức thư ngày 2 tháng 10 năm 1933 gửi cho Ban Bí Thư Quốc Tế của Phái Tả Đối Lập ở Paris.

Tháng bảy năm 1933, Phan Văn Hùm, người lớn tuổi trong nhóm Tả phái Đông Dương, quyết định tiếp tục chiến đấu tại xứ nhà. Về Sài Gòn, anh liên lạc với Nguyễn An Ninh, người thầy và bạn của anh trước kia, người đã theo lời dặn của Phan Châu Trinh: Chớ có lẩn trốn ở nước ngoài mà rung chuông gõ trống, phải trở về nước mà thức tỉnh đồng bào.

Ở Sài Gòn, Hùm gặp lại những người Tả Đối Lập anh quen biết ở Paris, tất cả đồng tham gia phong trào hợp pháp của nhóm Tranh Đấu. Đã kiếm sống, anh đi dạy ngôn ngữ và giảng văn học Việt Nam trong các trường tư.

CHÚ THÍCH

100.- Bằng chữ Quốc Ngữ trong báo Tranh Đấu, 9.2.1939.